Mặt trời mới hé sau cơn mưa.
Từ
khung cửa sổ có mấy vệt xanh nhìn ra ngoài, tấm áo tối màu của Trúc Ân hóa ra
không phải tuyền một màu đen, mà hơi có chút màu tím nhàn nhạt sáng bóng.
Dáng vẻ đi lại của hắn vừa nhàn tản vừa thong dong, giống như một quý tộc đang
đi chơi xa. Cái đoạn đuôi rắn kia ẩn giấu dưới lớp y phục, trên con đường bùn
lầy bị cỏ xuân che lấp không lộ ra chút dấu vết nào. Dần dần hắn càng đi càng
xa, rồi biến thành một bóng dáng mờ nhạt, kế đó tà áo đen tung bay, thân hình
phiêu tán như một đám mây đen.
Núi
rừng phía xa, bầy quạ nháo nhác. Có mấy con bay tới cái cây xác xơ trước ngôi
miếu cổ.
“Ta đã
phải tốn mất một trăm năm để mô phỏng dáng đi của loài người, bây giờ trông có
phải đã rất giống rồi không?”, sáng sớm, lúc đang bận rộn làm bữa sáng cho
mình, Trúc Ân hỏi Tử Hân như vậy.
“Việc
gì phải mô phỏng kẻ khác?”, Tử Hân khẽ cười: “Hay là huynh cảm thấy bộ dạng vốn
có của bản thân rất xấu xí?”.
“Tộc
của bọn ta cực kỳ cô độc, cũng chẳng có thanh danh gì tốt. Trôi nổi ở hai giới,
nhân giới đã không dung mà tiên giới cũng chẳng nhận.”
“Có
điều ta không hề bận tâm tới bộ dạng của huynh thế nào”, Tử Hân nói: “Huynh
ngại gì mà không hiện chân thân đi?”.
“Ta lo
đệ sợ.”
“Ta
chẳng sợ chút nào.”
“Thế
thì là ta sợ”, hắn ngừng một lát rồi bổ sung thêm một câu: “Ta sợ đệ thấy rồi
sẽ sợ hãi”.
“Ta
không sợ…”
“Thế
thì là ta sợ đệ thấy rồi sẽ sợ hãi tuy rằng đệ nói đệ không sợ…”
“Ta sẽ
không ép huynh đâu”, không đợi hắn nói hết Tử Hân đã ngắt lời, rồi lấy trong
bọc hành trang ra một quả táo, yên lặng ăn.
Cứ như
thế gần một tuần trà, người nào người nấy tự ăn bữa sáng của bản thân, thế rồi
Trúc Ân rất khách khí cáo từ. Hắn không hề nói với Tử Hân hướng đi của mình, Tử
Hân cũng không dò hỏi.
Giống
như phụ thân, đối với người lạ, Tử Hân luôn giữ thái độ cẩn trọng, không có
tính hiếu kỳ dù là ở mức độ thấp nhất, mà chàng cũng không cho rằng cần thiết
phải qua lại. Đối với hai người họ, người xa lạ trở nên quen thuộc rồi thành
bằng hữu là một chuyện cực kỳ khó khăn. Đương nhiên, ngược lại càng khó hơn.
…
Tử Hân
cưỡi ngựa trở lại con phố lớn trong Đông Đường trấn, nơi ấy đã sớm náo nhiệt
lắm rồi. Chàng tìm vị trí sạp của mình, mượn người bên cạnh một cái ghế dài rồi
ngồi xuống. Chàng cảm thấy bộ dạng của mình trông rất lôi thôi: Ngủ một đêm
trên mặt đất cứng, xương cốt trở nên cứng nhắc. Lúc rửa mặt thì không tìm ra
nước sạch, đành phải ra vại nước cạnh cửa rửa qua loa mặt mũi. Trong vại đầy
những rong rêu xanh mượt nhỏ như sợi tóc, lấy tay khẽ khuấy nước có thể nhìn
thấy mấy con nòng nọc sợ hãi luống cuống.
Từ lúc
nhớ nổi tới bây giờ, Tử Hân chưa bao giờ bẩn như thế.
Ánh
dương lười biếng trải trên con phố.
Bên
trái chỗ chàng ngồi là một vị lão hán mặt nhỏ râu dài, mười ngón tay gầy gò khô
quắt, đôi mắt mờ đục, da mặt vàng vọt, dáng vẻ tàn tạ, mở một sạp đoán chữ; bên
phải chàng là một tay bán rau dưa trẻ tuổi, bộ dạng cực kỳ tháo vát. Một tay
hắn cầm cái quạt rách xua ruồi nhặng, tay kia tưới nước lên rau quả.
Đang
đầu mùa xuân, mướp đắng đưa lên chợ có màu xanh nhạt, hình dạng như con thoi,
hai đầu có màu vàng nhạt bắt mắt, bề mặt thì như có hoa văn - bất kể là lồi hay
lõm - đều sạch sẽ bóng loáng, vỏ đầy đặn, tuyệt đối không có lông tơ hay sần
sùi nhấp nhô như dưa chuột thường thấy, về mặt hình dáng thì càng giống ngô hơn.
Nghe nói lá trên dây leo mướp đắng còn dày đặc hơn cả trinh đằng, tới mùa hái,
chúng thẹn thùng ẩn hết đằng sau lớp lá rậm rạp, chỉ đôi khi lộ ra nửa thân
thôi. Ta sẽ phải như một tay thô lỗ vạch kéo chúng từ bên trong ra. Bày phía
trên mướp đắng là những trái lựu to nhỏ không đều, trông như triền núi thời cổ
xưa, như thạch nhũ trong hang đá, lại như những hòn sỏi trong một khu vườn hoa
vậy. Tay bán rau tính toán khéo léo, bày bốn mươi chín trái mướp đắng thành
hàng, mỗi hàng bảy trái, to nhỏ đều nhau, hàng sau chồng lên hàng trước, bày
thành hình hoa lăng. Ở bên cạnh thì bày thêm những quả ớt đỏ tươi và những cây
khoai môn giống xanh biếc. Cả cái sạp rau qua một phen bày biện đã trở nên đẹp
mắt như một bức họa.
Tử Hân
ngây ra nhìn hồi lâu, không tự chủ được nghiêng đầu qua ngắm, tay bán rau lập
tức hỏi: “Khách quan muốn mua không? Mướp đắng thượng hạng tươi rói này tính
ngươi năm phân tiền thôi”.
Tử Hân
vội xua tay: “Không mua”.
“Bốn
phân thì sao? Mua hai cân ta tính ngươi bốn phân một cân”, tay bán rau đeo bám
không buông.
“Không
mua”, chàng chỉ đành bồi thêm một câu: “Xin lỗi”.
Khuôn
mặt tay bán rau chẳng lộ vẻ thất vọng gì, dường như bị người ta từ chối chẳng
qua là một chuyện quá bình thường. Dưới cái nhìn của tử Hân, tâm tư người bán
rau bỏ vào việc bố trí rau quả chẳng hề thua kém đại tướng quân bày binh bố
trận; nước bọt phải tốn để thuyết phục khách hàng đại khái cũng chẳng ít hơn
các quan can gián trong cung đình của đế vương. Ngày nối ngày, bọn họ ngồi nơi
đầu phố bụi bẩn, hết lần này tới lần khác chỉnh lại hàng hóa bị bày bừa. Bất kể
cuộc sống có lặp đi lặp lại thế nào, bọn họ luôn không thay đổi nét mặt, hứng
khởi mà đợi chờ, nồng nhiệt chào mời, thu xếp…
Nghĩ
tới đây, Tử Hân không khỏi cười khổ.
Để trao
cho cuộc sống thường ngày một ý nghĩa, hiển nhiên cần phải có dũng khí: Một
loại dũng khí đối diện với cái bất đắc dĩ.
May là
mặc dù chàng không có thứ dũng khí ấy nhưng vận khí thì lại không tệ.
Thì ra
cái tiểu trấn này tuy không phải hoang vu gì nhưng thôn dân ở đây đại đa số là
mê tín dị đoan. Có chút bệnh vặt thì hoặc mời vu bà làm phép, hoặc thỉnh đạo sĩ
cầu an. Bệnh thành nặng rồi thì cả nhà lớn nhỏ cùng dắt nhau tới đền chùa cách
ngoài mười dặm dập đầu cầu khấn, sau đó về nhà lễ phật tụng kinh. Đến khi mọi
thứ đều không ăn thua thì lúc bấy giờ mới chạy đến các trấn lớn ở xa hơn tìm
lang trung… Ấy mới chỉ kể người có tiền. Cho nên ở đây trước giờ không có đại
phu tọa đường, nhưng sạp thuốc thì lại có mấy cái. Nếu như có giang hồ lang
trung hoặc hòa thượng vân du đi ngang qua, thôn dân vừa thấy liền như ong vỡ tổ
đổ xô tới, đem nào là bệnh cũ mười mấy tháng rồi chưa khám, bệnh mãn tính, bệnh
không nặng, bệnh không có tiền khám mang ra hết. Chỉ vì giang hồ lang trung thu
phí cực rẻ, thực ra không có tiền thì một giỏ lạc hay trứng gà cũng chấp nhận
được.
Tử Hân
vừa tới Đông Đường trấn, lại được Diêu A Tam ra sức quảng cáo, ngày hôm ấy,
chàng gần như bận rộn tới tối. Rốt cuộc là nhổ bao nhiêu cái răng, kê bao nhiêu
đơn thuốc, bản thân chàng cũng không rõ nữa.
Tới
buổi chiều khi chợ phiên càng thêm đông đúc tấp nập, người tới khám bệnh càng
lúc càng nhiều, A Tam thấy chàng bận tối mắt tối mũi bèn tự quyết thay chàng
mướn một cửa tiệm nhỏ quay ra mặt đường. Vốn chủ tiệm là một thương nhân bán
vải, nhưng vì mở cửa hàng buôn bán chưa đến nửa năm đã dùng sạch vốn liếng, sợ
bị người ta truy nợ bèn thu gom đồ đạc chuồn mất trong đêm, để lại gian nhà đồ
đạc nửa mới nửa cũ. Đằng sau cửa tiệm liền với một ngôi nhà to không to, nhỏ
không nhỏ, ở giữa có một giếng nước. Trong đó có đủ phòng bếp phòng ngủ cho nên
giá thuê không thấp nhưng nhìn chung là sạch sẽ. Tử Hân vừa mới lập nghiệp, chỉ
mới giao năm lượng bạc làm tiền cọc. A Tam vỗ ngực nói: “Xem tay nghề của lão
đệ, kiếm được bạc trắng chỉ là chuyện sớm muộn thôi. Mấy chuyện lặt vặt này cứ
tính lên người tam ca ngươi! Ngươi chỉ cần cách mười ngày giao cho ta mười
lượng bạc là được”.
Nói rồi
bèn gọi người tới quét tước nhà cửa, chăng màn trướng cho chàng. Bàn ghế một
bộ, đệm bắt mạch bày ra, bút nghiêng ngay ngắn thật cũng ra dáng một y quán.
Bận rộn một phen, chớp mắt trời đã tối, đám đông dần dần tản bớt, Tử Hân có
phần mệt mỏi, cũng lười làm cơm, bèn nhai ba quả dưa chuột rồi ra ngoài mua ít
vật dụng hằng ngày, về đun nước tắm rửa rồi mở bọc hành lý, thu dọn giường
chiếu nằm tựa người đọc sách.
Ngọn
nến xanh trên bàn hình như là nến giả, thắp chẳng được bao lâu đã cháy hết một
nửa. Bấc nến kêu lách tách, ánh lửa chập chờn bất định, cả căn phòng cũng như
đang nhảy loạn lên theo ánh nến.
Tiếp
đến, chữ trong sách cũng trở nên bồng bềnh. Một cơn mày hoa mắt váng, Tử Hân
quăng sách sang một bên, đốt cây nến khác.
Đúng
lúc ấy, cửa mở đánh “rầm” một cái.
Giờ
chàng mới nghĩ ra, bởi vì dọn vào quá vội, cũng chưa khóa cửa. Bản thân chẳng
dư dả, lẽ nào còn phải sợ ăn trộm thó mất thứ gì. Ai mà ngờ xông vào lại là
một tiểu cô nương mười hai, mười ba tuổi, thân mặc áo màu lục, đầu thắt hai
búi, đôi mắt to tròn trên khuôn mặt gầy nhom. Cô bé nhanh nhẹn tiến vào phòng,
sau lưng còn mang theo một bọc đồ to đùng. Trông thấy Tử Hân bèn “ý” một tiếng,
có vẻ rất đỗi ngạc nhiên.
“Này!
Ngươi là ai? Ở trong này từ lúc nào thế?”, không đợi Tử Hân mở miệng, cô bé chống
nạnh, không khách khí chất vấn chàng.
“Từ
chiều.”
“Nơi
đây! Căn phòng này! Là địa bàn của ta”, ánh mắt cô bé sắc nhọn, điệu bộ hung
dữ, rõ ràng là đang nổi giận, “Ngươi… cút ra!”.
Tử Hân
vừa định mở miệng thì lại nghe một tiếng kêu chói tai, cô bé chạy tới bên
giường, giậm chân gào hỏi: “Chăn gối của ta đâu rồi? Sao không thấy đâu nữa?
Ngươi bỏ chúng đi đâu mất rồi?”.
Thực ra
lúc mới vào đây, việc quét dọn phòng ngủ cũng chẳng tốn bao nhiêu thời gian,
trong này rất sạch sẽ, chăn đệm trên giường cũng cực kỳ thơm tho. Kể cả như
thế, bệnh ưa sạch của Tử Hân vẫn cứ phát tác, chàng gom tất cả đồ trên giường
cuộn lại nhét vào một cái hòm, sau đó đổi sang đồ mới hết.
“Xin
hỏi, căn phòng này đúng là phòng của cô sao?”, Tử Hân không vội vàng, thong thả
hỏi.
“Đây là
phòng bỏ không, ai phát hiện trước thì ở trước”, cô bé đứng trước mặt chàng cao
giọng nói. Rõ ràng cô bé thấp hơn chàng một cái đầu nhưng lại không tỏ ra yếu
thế: “Ta đã ở đây hai ngày rồi”.
“Có khế
ước không?”
“Không
có”, cô bé trừng trừng nhìn chàng.
“Ta
có”, chàng lấy tờ khế ước trong tay áo ra, đặt vào tay cô bé: “Ta đã giao năm
lượng bạc làm tiền cọc”.
Cô bé
cầm tờ giấy đọc kỹ một lượt rồi “hừ” một tiếng, hỏi: “Ngươi có bạc thì giỏi lắm
sao?”.
“Không
dám.”
“Đi thì
đi, ai mà thèm căn phòng rách này!”, cô bé xoay người vù một cái, bọc hành lý
vắt lên vai, ngẩng cao đầu, lập tức sải bước đi ra ngoài.
Một sự
hiểu lầm.
May mà
cô bé này tới như chớp đi như gió, không lề lằng nhằng dây dưa, chàng thở phào
một tiếng.
Nhưng
cũng nhờ vậy mà chợt có hưng phấn, Tử Hân không thấy buồn ngủ nữa, lại nằm tựa
lên đầu giường đọc sách.
Đến nửa
đêm, gió mưa chợt nổi, nghe xa xa văng vẳng tiếng sấm ầm ầm, chàng dậy đóng cửa
sổ. Nghĩ tới việc vừa rồi chính bởi vì không khóa cửa nên mới dẫn tới phiền
phức, thế là chàng đi ra tiền sảnh, tìm then cửa, đang định cài then lại thì
chợt phát hiện cô bé áo xanh ban nãy hóa ra không hề đi đâu xa, chỉ gối đầu lên
bọc hành lý, co ro bó gối trú dưới mái hiên để tránh mưa. Đêm giá buốt, cô bé
chỉ mặc một bộ đồ mỏng manh, lạnh tới mức răng gõ vào nhau lách cách.
Tử Hân
hơi sững người, nói: “Sao cô còn ở đây?”.
Cô bé
trợn mắt nhìn chàng: “Liên quan gì tới người”.
“Vào
đi”, chàng đẩy mở cửa: “Ngoài này lạnh lắm”.
“Ở đây
rất tốt.”
“Nếu
quả thật cô không còn chỗ nào để đi, tối nay cứ ngủ trong này cũng được”, Tử
Hân từ tốn nói.
“Ai mà
muốn ở trong nhà của ngươi!”
“Vậy
thì… tùy thôi. Đúng rồi, suýt nữa quên nói cho cô, nhà đại thúc ở đối diện có
một con chó rất lớn canh nhà, cẩn thận…”
Câu này
còn chưa nói hết, cô bé đã “huỳnh huỵch” chạy luồn qua nách chàng chui vào
trong rồi đóng cửa cài then thật chặt.
“Cô sợ
chó à?”
“Ai bảo
ta sợ chó?”
Phòng
khách rất chặt hẹp, cô bé thân hình mảnh khảnh, bộ dạng gầy guộc, thần sắc cảnh
giác nhìn Tử Hân đánh giá.
“Ngươi
làm nghề gì?”, nhìn một hồi lâu, cô bé đột nhiên hỏi.
“Ta là
lang trung.”
“Chẳng
giống chút nào… Trông ngươi còn rất trẻ.”
“Xin
hỏi niên kỷ của tiểu thư?”
“Mười
ba”, nói xong hai chữ này, cô bé hắt xì một tiếng.
“Trong
bếp còn nước nóng, có cần ta mang lên cho cô không?”, Tử Hân không đổi nét mặt,
hỏi một câu.
“Chớ có
lân la ân cần! Bình sinh ta chúa ghét lũ nam nhân giả nhân giả nghĩa các
ngươi!”, quẳng lại câu này, cô bé co chân chạy thẳng vào bếp, được một lúc, lại
gọi vọng ra, “Này! Ngươi qua đây!”.
Chàng
đành phải chống trượng bước tới.
“Cái
thùng nước này nặng quá!”, cô bé mở to mắt nhìn vào chân chàng: “Nếu ngươi
không khiêng được thì cũng không cần cố”.
Bất kể
là nói gì, cô bé đều chẳng có lấy một chút e thẹn nào.
Chàng
chẳng nói chẳng rằng giúp cô bé đem thùng nước vào phòng ngủ.
“Tiểu
thư còn có gì sai bảo?”
“Còn
đứng ngây ra đó làm gì? Người ta muốn tắm rửa.”
Tử Hân
đi ra ngoài. Trong phòng ngủ có tiếng nước bị bõm, qua một tuần hương, cô bé
thay bộ váy hoa sạch sẽ chỉnh tề, vắt mái tóc dài còn ướt ra sau lưng, nghiêng
đầu nói: “Ta tắm xong rồi”.
Cô bé
lau khô đôi chân trắng muốt, lê đôi giày ngủ, phía trên mắt cá chân bé nhỏ có
một vết chích be bé.
Rõ ràng
cô bé không có chút ý định muốn nhường lại căn phòng ngủ.
Tử Hân
chỉ đành nói: “Ừm… cô ngủ đi”.
“Ta ngủ
trên sàn phòng khách là được rồi”, cô bé ôm lấy cái chăn hoa trắng trên giường,
miệng cắn theo chiếc gối, nói: “Giường này nhường cho ngươi đấy”.
“Đây là
chăn của ta”, chàng nói.
“Lẽ nào
ngươi muốn ta ngủ trên mặt sàn lạnh cóng này à?”, cô bé quắc mắt, lại lộ ra nét
hung hăng lúc trước.
“Ta tới
nhà bằng hữu ngủ nhờ một đêm, sáng mai quay lại”, chàng nhạt giọng nói: “Đến
lúc ta quay lại, hy vọng cô đã biến mất rồi”.
“Được,
nể ngươi hôm nay nhường nhịn ta, ta sẽ biến mất thật nhanh”, cô bé đáp chắc
nịch.
“Thế
thì đa tạ”, chàng sải bước đi khỏi.
“Này!
Cứ thế mà đi sao? Đem những thứ đồ đáng tiền của ngươi đi hết đi.”
“Ta
chẳng có thứ gì đáng tiền cả.”
“Sách
thì sao? Mấy cuốn… cái gì mà Vân Mộng cứu kinh, ngươi
cũng không đem theo à?”, cô bé nhìn vào mấy chồng sách ở đầu giường, hỏi lớn.
“Để đấy
chẳng sao, ngày mai ta còn quay lại.”
“Tạm
biệt.”
Xét cho
củng thì cô bé vẫn là một đứa trẻ, nên có chút không biết lý lẽ. Chàng cười rồi
đi ra ngoài và khép cửa lại.
Cái đêm
ấy, chàng đành phải ngủ lại trong tòa miếu hoang nọ.
Trong
miếu là một mảng tối đen, chàng không gặp lại Trúc Ân, chỉ cảm thấy mệt mỏi đến
kỳ lạ, vừa ôm áo ngả đầu xuống, chàng đã ngủ thiếp đi.
Đầu giờ
Tị ngày hôm sau, chàng ăn xong bữa sáng quay trở lại phòng khám của mình thì
sớm đã có bảy, tám bệnh nhân đang đợi ngoài cửa. Chàng mở cửa lớn, mời bọn họ
vào khách sảnh ngồi. Đang định vào phòng trong lấy thêm cái ghế băng, chàng vừa
đẩy cửa, trong phòng đã có tiếng thét: “Chớ có vào!”.
Trời ạ!
Cô bé kia vẫn chưa đi!
Chàng
đứng ngây ra cạnh cửa cứ như trúng một đao, khó khăn lắm mới khôi phục lại nét
mặt bình thường, sau đó ngượng ngùng quay đầu lại cười cười với mười mấy cặp
mắt trong khách sảnh đang trừng trừng ngó vào mình, trừ bỏ cái hiềm nghi mình
là một con buôn. Khép cửa lại, quay về trước bàn, tiếp tục bắt mạch kê đơn.
Có muốn
tới bếp uống chén nước thì cũng phải qua phòng ngủ.
Cả buổi
sáng hôm ấy, chàng phải sống trong cảnh miệng khô họng rát.
Tới trưa,
chàng nhanh nhanh chóng chóng khám xong cho bệnh nhân, cuối cùng gỡ biển mở
chẩn, khép cửa chính, thấy phòng trong vẫn chẳng có động tĩnh gì liền gõ cửa,
hỏi: “Cô nương, cô đã dậy chưa?”.
“Ta
không dậy nổi rồi!”, giọng bên trong vọng ra rõ rang đang nghẹn ngào.
Chàng
không biết làm sao, đành đẩy cửa đi vào, tới bên giường, phát hiện cô bé cuộn
chặt mình trong chăn nằm bất động trên giường, sắc mặt tái nhợt, đôi mắt sưng
như hai quả hạch đào. Trong lòng có chút kinh ngạc, chàng hỏi: “Sao thế? Trong
người không được khỏe à?”.
Cô bé
khóc thút thít không dứt: “Ngươi… ngươi chớ có chạm vào ta! Ta muốn chết đây!”,
nói rồi trùm chăn qua đầu, khóc hu hu.
Chàng
giật mình, tiếp tục hỏi: “Hôm qua hãy còn tốt, sao hôm nay lại đòi chết chứ?”.
“Ta
muốn mẹ!”
“Mẹ cô
ở đâu? Ta đi tìm bà ấy tới.”
“Mẹ ta
chết lâu rồi!”, cô bé khóc càng thương tâm hơn.
“Cha cô
đâu? Cô là người trấn này phải không?”
“Cha ta
không thích ta, muốn gả ta cho một tên nam nhân thối tha. Ta trốn khỏi nhà ra
đây, chuẩn bị đi tìm dì ta”, có lẽ là trong chăn quá bí, cô bé lại thò đầu ra
ngoài, mắt đẫm lệ nhìn Tử Hân.
Chàng
không tiện hỏi nhiều, bèn xách một cái ghế tới bên giường: “Đưa tay qua đây, ta
xem mạch cho cô… Cô còn có sức khóc, hiển nhiên là chẳng chết ngay được”.
“Nhưng…
nhưng ta cứ mãi chảy máu không ngừng”, cô bé thò nửa cánh tay thanh mảnh ra
khỏi chăn.
Chàng
bắt mạch cho cô bé rồi thu tay lại, nói: “Không phải sợ, không việc gì đâu”.
“Cái gì
mà không việc gì? Bụng ta đau chết đi được.”
“Cô có
tỷ tỷ không?”
“Không
có người nào thân thiết cả.”
“Đây
là… con gái… ừm… thiên quý[1]…”, Tử
Hân cẩn thẩn dè dặt lựa chọn ngôn từ.
[1]
Chỉ kinh nguyệt của phụ nữ.
“Cái gì
là thiên quý? Là quỷ trên trời à?”
“Không
phải…”
“Rốt
cuộc thì là cái gì?”
“Ừm… cô
biết chữ, chắc đã từng nghe qua Bệnh của Trình Cơ[2] chứ?”,
Tử Hân đổi sang diễn tả bằng kiểu khác.
[2]Sách
Sử Ký – Ngũ Tông thế gia có chép: “Cảnh Đế triệu Trình Cơ, Trình Cơ có chỗ phải
kị tránh, không muốn vào”. Sau người ta gọi tránh kỳ kinh nguyệt của phụ nữ
là Bệnh của Trình Cơ (Trình Cơ chi tật).
“Chưa
hề”, cô bé nghi hoặc lắc đầu: “Trình Cơ là ai?”.
Chàng
cúi đầu khổ sở suy nghĩ, dốc hết đầu óc tìm cách giải thích cho ổn thỏa: “Là
như thế này, về sao mỗi tháng cô… đều sẽ như thế… cô phải quen dần đi”.
“Sao
cơ? Ai cũng như thế à? Ngươi cũng thế sao?”, cô bé kinh ngạc hỏi.
“Không,
không…”, đầu Tử Hân đã to như cái đấu: “Chỉ có nữ nhân mới như thế. Nếu cô đã
vậy… thế thì chứng tỏ… cô đã thành một nữ nhân…”.
Bình
sinh chưa từng gặp chuyện thế này, chàng càng nói càng lắp bắp.
“Ý
ngươi là, trước đây ta là kẻ bất nam bất nữ?”
“Không,
không, không!”, chàng xua tay lia lịa.
“Hiểu
rồi, ngươi muốn nói, ta sẽ không chết.”
“Đúng
rồi, đúng rồi!”, Tử Hân vội gật đầu.
“Có
điều, cứ thế này, máu của ta liệu có chảy hết không?”, cô bé thấy mũi cay cay,
nước mắt lại trào ra.
“Không…
không đâu… chẳng bao lâu nữa sẽ dần dần… ngừng… ngừng lại thôi.”
“Chiều
nay có thể ngừng không? Ta còn muốn mau mau lên đường.”
“… E
rằng không nhanh như thế được.”
“Vậy
rốt cuộc phải đợi mấy ngày?”
“Bụng
cô rất đau phải không?”
“Ừm.”
“Khoảng
sáu, bảy ngày, có thể còn lâu hơn.”
“Ngươi
có thể nghĩ cách giúp ta không?”
“Ta có
thể kê cho cô một đơn thuốc…”
Đôi
lông mày của cô bé nhướng lên, mừng rỡ nói: “Ngươi có thể kê thuốc cho máu
ngừng chảy?”.
“… Việc
này chỉ sợ không thể… ta chỉ có thể kê chút thuốc giảm đau.”
Cô bé
nhìn chàng hồi lâu, hé miệng cười, nhẹ nhàng nói: “Xin lỗi… làm bẩn giường của
huynh rồi…”.
“Không
sao cả.”
“Tên
huynh đúng là Diêu Nhân? Cắn người[3]?”, cô bé nhíu mày nhìn chàng.
Tên của chàng có trên bảng hiệu treo ngoài cửa.
[3]
Trong tiếng Trung “cắn người” và “Diêu Nhân” có âm đọc gần giống nhau.
“Ừm.”
“Tên
muội là Tô Phong Nghi”, cô bé cắn môi, hàng lông mi dài cụp xuống, thanh điệu
không biết vì sao bỗng trở nên rất văn nhã.
“À.”
Sau đó,
cô bé nhoài người trên giường nói: “Muội đói rồi”.
Tử Hân
tới nhà bếp làm mấy món ăn, Tô Phong Nghi cuộn mình trong chăn ngồi cạnh bàn,
ăn như rồng như hổ. Ăn xong cơm lại uống thêm một tô thuốc. Tử Hân buồn bực
thay một tấm trải giường mới rồi nói: “Cô ngủ tiếp đi cho khỏe”.
Cô bé
chậm chạp bò lên giường, chui vào trong chăn, mở cặp mắt to tròn lén nhìn trộm
Tử Hân.
Tử Hân
nói: “Thay y phục bẩn ra đây đi”.
Một đám
mây hồng hiện lên đôi má, cô bé loạt soạt một lúc rồi ngồi dậy, ôm chăn nói:
“Không cần đâu, không cần đâu… để tự muội giặt. Cám ơn”.
“Biến
thành khách khí như vậy từ lúc nào thế?”, Tử Hân nói: “Y phục bị ướt không thể
cứ mặc mãi trên người”.
Cô bé
lại chui vào chăn, ném y phục ra ngoài.
“Cảm ơn
huynh, món ăn huynh làm… món ăn huynh làm quả thật… quả thật rất ngon”, cô bé
nhìn vào mắt Tử Hân, thành thật cảm ơn một tiếng.
Tử Hân
nghiêm mặt, không đáp lời, rầu rĩ xách đồ đi giặt giũ hơn một canh giờ rồi phơi
tại sân sau.
Hai
ngày tiếp theo, cô bé Tô Phong Nghi kia trở nên cực kỳ an phận. Bởi vì bụng cô
bé đau ghê gớm nên không thể không ngoan ngoãn nằm trên giường, uống thuốc hằng
ngày. Đến tối, Tô Phong Nghi lại nói mình sợ, không ngủ được. Tử Hân đành phải
ngủ trên bàn ngoài khách sảnh trông cửa cho cô bé.
Đến
ngày thứ ba, cuối cùng Tô Phong Nghi cũng dậy được khỏi giường liền bắt đầu tự
giặt y phục cho mình.
“Tại
sao món ăn huynh nấu luôn chỉ có mấy kiểu này? Chẳng có chút mùi vị nào cả?”,
cùng với việc thân thể dần khôi phục, tính tình cô bé hình như cũng phục hồi
theo.
“Cô
muốn ăn gì thì tự mình làm là được”, Tử Hân hừ một tiếng.
“Sao bộ
dạng rửa rau của huynh cứ như trong rau có thuốc độc thế?”
“Tại
sao huynh không ăn thịt? Huynh không phải hòa thượng mà.”
“Trời
ạ, đến cả hành với hạt tiêu huynh cũng không ăn… Quá thể đáng rồi!”
Ngày
thư tư, Tô Phong Nghi lại tiếp tục không ngừng lải nhải như thế khi Tử Hân đang
thái rau. Sức nhẫn nhịn của chàng cuối cùng cũng đã tới cực hạn, đột nhiên
buông dao xuống, lạnh lẽo hỏi cô bé: “Bao giờ thì cô có thể đi?”.
Khuôn
mặt Tô Phong Nghi lập tức tái đi, ánh mắt giận dữ nhìn chàng, qua một lúc, nén
cơn giận, nhìn xuống đất, chợt nói: “Dưới chân huynh có một con gián”.
Đó là
một con gián to đùng, cặp râu dài dò dẫm qua lại, đang gắng sức men theo một
góc vạt áo dài của chàng bò lên. Tử Hân vừa nhìn thấy con gián, thân thể đột
nhiên run lên bần bật, sắc mặt đổi thành màu tím, trong ngực khó chịu, bắt đầu
thở dốc.
Cô bé
vội vàng đỡ lấy tay chàng, hỏi: “Huynh làm sao thế?”.
Tử Hân
vội đưa tay vào trong túi thơm lục tìm, còn chưa kịp lấy ra được cái gì thì hai
mắt đã tối sầm, “uỵch” một tiếng, ngã nhào xuống đất.
Trừ
chuyện kiêng kỵ bao nhiêu loại thức ăn ra, đây là chuyện kỳ quái đầu tiên Tô
Phong Nghi biết về Tử Hân.
… Tử
Hân sợ gián.
Ngày
hôm đó, cô bé hoảng hốt sợ hãi nhìn nam nhân ấy ngã xuống đất, hơi thở yếu ớt,
bèn nhanh mắt lẹ tay tìm trong túi thơm của chàng, lấy ra một lọ thuốc, cũng
không thèm để ý bên trong là cái gì, bèn nhét một viên vào miệng chàng, sau đó
xông ra ngoài gọi một đại hán ôm chàng đặt lên giường. Tử Hân rất nhanh tỉnh
lại, kế đó thì chìm sâu vào giấc ngủ.
Qua
trọn hai canh giờ, chàng mới thực sự tỉnh táo trở lại, thấy Tô Phong Nghi, giờ
đã chải đầu thắt hai bím tóc đen bóng, quỳ trước giường ngây ngốc nhìn mình.
“Huynh
không sao chứ?”, cô bé cúi đầu hỏi.
“Không
sao.”
“Muội
biết muội đem lại cho huynh rất nhiều phiền phức, cho nên muội quyết định sẽ đi
bây giờ.”
“…”
“Cảm ơn
huynh đã chăm sóc muội.”
“Không
có gì.”
Cô bé
đứng dậy, nghĩ một lúc, chợt hỏi: “Qua nhiều năm nữa, đợi khi muội lớn rồi,
liệu huynh còn nhớ muội không?”.
“Khó
nói…”
“Thế
thì chí ít huynh phải nhớ cái xoáy này, được không?”, cô bé kéo ống quần, để Tử
Hân nhìn cái xoáy be bé chích trên mắt cá chân trái.
“Ta là
giang hồ lang trung, sẽ không ở lâu một nơi nào”, chàng cảm thấy cô bé này có
chút kỳ lạ: “Huống chi thế giới rộng lớn thế này… Chúng ta sẽ không tái ngộ
đâu”.
“Thế
thì quên muội đi”, cô bé thoải mái khoác bọc hành lý lên vai, vẫy tay với Tử
Hân: “Tạm biệt”.
“Tạm
biệt.”
Tô
Phong Nghi đi như bay ra ngoài, lúc sắp biến mất sau cánh cửa, bỗng quay đầu
lại, nở nụ cười giảo hoạt với chàng, rồi làm một khuôn mặt quỷ.
Trời đã
sang hoàng hôn, căn nhà lại trở về vẻ yên tĩnh của nó.
Gió
chiều tràn tới, hương hoa thơm nức. Tà dương ở một góc sân khẽ lay động trong
làn khói bếp ban tối.
Chàng
cảm thấy hơi đói bèn đi tới nhà bếp, phát hiện trong nồi đang hâm hai bát thức
ăn nhỏ, còn có một nồi canh bí đao. Rõ ràng cô bé đã chăm chú quan sát bữa tối
của chàng, ba món ăn đều làm theo cách của chàng, không cho thêm, cũng chẳng
bớt đi thứ gì cả.
Tay
nghề của con nha đầu này xem như cũng không quá tệ.
Chàng
chợt cảm thấy có chút áy náy, nhận thấy bản thân qua lạnh lùng với cô bé. Có
điều, đấy chẳng phải một tính cách nhất quán của người nhà Mộ Dung sao?
Tới
đêm, lúc thay đồ đi ngủ, chàng mới phát hiện cô bé nói không sai.
Chàng
sẽ không quên cô bé.
Bởi vì
cô bé đã chích lên mắt cá chân phải của chàng một cái xoáy y hệt cái xoáy trên
chân cô bé.
… Chích
lên đương nhiên phải đau, đáng tiếc cái chân này của Tử Hân đã hoàn toàn mất đi
tri giác.