Mê Hành Ký

Chương 17: Trăng sáng sao mờ




Hai mươi tư tháng Hai, đêm.

Trăng mờ mây mỏng.

Đường Tiềm một thân hắc y, tay chắp sau lưng đứng khuất nơi góc tối ngõ nhỏ. Đi bên cạnh hắn còn có một người lạ mặt khác.

Người này họ Diệp, người đất Lâm An, là bổ khoái phủ Lâm An.

Tên của hắn gọi là Diệp Lâm An.

Vừa nghe tới cái tên này Đường Tiềm không khỏi mỉm cười. Trên đời này có không ít những bậc phụ mẫu thích bớt việc, song thân của vị nhân huynh này đặt tên có thể gọi là rất thống khoái, có điều nếu người trong thiên hạ đều đặt tên con mình kiểu như thế, vậy thì hỏng bét.

Đường Bồng nói với hắn, Diệp Lâm An thân hình tầm tầm, người gầy guộc, da đen tóc đen, dung mạo bình thường, là một thanh niên không tùy tiện nói cười. Nhìn không ra võ công của hắn thuộc nhà nào, có điều nghe tiếng bước chân thì biết võ công người này tuyệt không yếu.

Thể hình... dung mạo... màu da, mấy thứ miêu tả này đối với người mù mà nói thì gần như bằng không. Đường Tiềm sinh được ba tháng đã mù rồi, căn bản không nhớ nổi thế giới trước khi tối tăm trông ra sao. Nhưng Đường Bồng và Đường Tầm thì lại bắt đầu tin, cho dù có là trẻ sơ sinh thì cũng phải có chút ấn tượng với đoạn thời gian ấy, trong ký ức chí ít vẫn lưu lại một chút màu sắc và ánh sáng.

Cho nên Đường Bồng rất nhiệt tình tả, hắn cũng không đành lãng phí ý tốt của người ta.

Trong lòng hắn không phải là không tiếc nuối mà ngầm thở dài một tiếng, cảm thấy rằng thế giới của mình người khác không cách nào tưởng tượng ra được.

… Từ rất sớm hắn đã hiểu được đạo lý này, và từ lâu lắm rồi hắn chẳng buồn tranh luận nữa.

Có điều, trên người Diệp Lâm An luôn có mùi hành và rượu, khiến hắn không thích lắm. Đương nhiên, có lẽ là do khứu giác của bản thân quá mức mẫn cảm, kỳ thực chỉ là mùi rất nhạt nhòa, sợ rằng người thường chưa chắc đã ngửi được.

So ra hắn thích ngồi trong thư phòng của Mộ Dung Vô Phong hơn.

Trong căn phòng đó có một mùi hương kỳ diệu, chẳng phải hương hoa, cũng không phải khói thơm, mùi thanh nhã man mác, cực kỳ dễ chịu.

Hắn luôn cho rằng Mộ Dung Vô Phong là dạng ru rú trong nhà, không thích giao lưu với người lạ, cho nên ngày thứ hai sau khi vào Vân Mộng cốc, nhận được thiếp mời tới dự “bữa cơm rượu nhạt” do Mộ Dung Vô Phong sai người mang tới, hắn không khỏi có chút ngạc nhiên.

Trong mâm tiệc, Mộ Dung Vô Phong giới thiệu Diệp Lâm An với bọn họ.

“Hai vị luôn nói là cần người làm chứng, người làm chứng ta đã tìm được cho hai vị rồi đây. Vị Diệp huynh này là bổ khoái phủ Lâm An, là một nhân vật rất có tiếng trong nghề”, Mộ Dung Vô Phong ngồi trong sảnh tiếp khách, thong thả nói.

Đường Bồng lập tức tiếp lời: “Danh bổ một dải Thiểm Cam bọn tôi biết không ít, Hồ Dĩ Tiêu, Hồ bổ đầu năm kia tận diệt Hà gian đại đạo, Nghê Tuấn, Nghê đại hiệp khiêu chiến với Thái Hành đều là đồng nghiệp của Diệp huynh phải không?''.

Diệp Lâm An mặt mày dửng dưng đáp: “Tại hạ đi chuyến này vốn là vì truy lùng ‘Đường thị Song Hồng’ của quý phủ và cái án hái hoa đạo tặc này, không ngờ Đường Tiềm huynh đã tự thanh lý môn hộ, miễn cho tôi phải động thủ, bội phục", trong lời nói có chút coi thường Đường môn.

Đường Bồng đang định nổi cơn thịnh nộ thì đã bị Đường Tiềm ngầm đá một cái.

“Vậy phải đa tạ Diệp huynh hạ thủ lưu tình, cho ‘Song Hồng’ hai người ấy được toàn thây, Đường mỗ cảm kích”, Đường Tiềm không nhanh không chậm đáp lại một câu, bảo trì khách khí.

Diệp Lâm An thăm dò đôi mắt trống rỗng của Đường Tiềm rồi ôn hòa nhã nhặn nói thêm một câu: “Tại hạ đang định báo cho Đường huynh một tin xấu khác. Đường Linh đã bị bắt vào đại lao phủ Lâm An, định tới sau thu sẽ xử trảm".

… Tuy rằng Đường Thập đi lại trên giang hồ hay lạm dụng ám khí độc, giết người vô số, tiếng ác truyền xa, hắn cũng biết ả sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp gì, nhưng nghe được câu này, trong lòng vẫn có chút chua chát. Hắn cười khổ:

“Hẳn là tin do Hạ Hồi phái Nga My và Thẩm Đồng báo cho Diệp huynh?”.

Diệp Lâm An đáp: “Không sai”.

Hạ Hồi nổi tiếng cao ngạo, tuyệt đối không thèm làm việc không biết xấu hổ là giết nữ nhân. Có điều, có thể toàn mạng thoát được độc dược và ám khí của Đường Thập đã là không dễ, càng chớ nói tới việc bắt sống ả.

Đồ ăn trên bàn tiệc toàn là hạng nhất nhưng không khí thì rất không thoải mái.

Mộ Dung Vô Phong thản nhiên uống trà mặt chẳng đổi sắc nhìn mấy người đối diện đang kiếm bạt cung giương minh tranh ám đấu. Mấy ngày nay thời tiết ấm áp, sức khỏe của chàng cũng chuyển biến tốt, bệnh phong thấp ở tay giảm đi không ít.

Lúc ăn xong mọi người đứng dậy cáo từ, Diệp Lâm An đột nhiên hỏi: “Bữa cơm này giá bao nhiêu?”.

Mộ Dung Vô Phong sững ra, kế đó đáp: “Tôi cũng không rõ”.

“Tổng quản chắc biết rõ”, Diệp Lâm An quay sang nhìn Quách Tất Viên.

“Tôi nghĩ... đại khái khoảng mười lăm lượng bạc”. Quách Tất Viên cứng lưỡi đáp.

Diệp Lâm An rút trong mình ra một túi tiền nhăn nhúm, lấy ba lượng bạc đặt lên bàn: “Trước nay tại hạ không nợ nhân tình, ăn cơm luôn tự mình trả tiền. Chỉ xin cốc chủ lần sau có mời tôi ăn cơm thì mời thứ gì rẻ một chút. Lương bổng của tôi có hạn”.

Mộ Dung Vô Phong cười nhạt: "Diệp huynh quá khách sáo rồi”.

Hai người đợi trong góc khuất ngõ nhỏ rất lâu, tiệc rượu ở Thính Phong lâu sớm đã tàn nhưng tuyệt không thấy bóng Thiết Phong đâu.

Được một lúc, tựa như muốn bắt chuyện, Diệp Lâm An hỏi: “Trước giờ tôi chưa từng gặp Thiết Phong, hắn thật sự là trưởng lão trẻ tuổi nhất trên núi Võ Đang sao?”.

Đường Tiềm đáp: “Không sai”.

Diệp Lâm An nói: “Huynh cảm thấy võ công của lão so với huynh thế nào?”.

Đường Tiềm nói: “Bọn tôi chưa từng giao thủ, tạm thời chưa rõ”.

Diệp Lâm An hỏi: “Vậy thì chốc nữa chúng ta đồng thời ra tay hay là lần lượt đơn đả độc đấu với lão?”.

Đường Tiềm đáp: “Xem tình hình rồi quyết”.

Diệp Lâm An nói: “Tôi thích làm việc gì cũng có kế hoạch trước”.

Đường Tiềm nói: “Thế thì đầu tiên là đơn đả, nếu không được thì xông cả lên. Đối với hạng người này chúng ta chẳng cần khách khí, huynh nghĩ sao?”.

“Cứ làm như thế đi.”

Đường Tiềm than dài trong lòng, thật ra hắn không thích Diệp Lâm An, cảm thấy người này quá phiền phức, còn đang hối hận sao lại để Đuờng Bồng lại Vân Mộng cốc, Diệp Lâm An đã chợt nhỏ giọng lên tiếng: “Lão tới rồi, trên nóc nhà”.

Đường Tiềm đáp: “Tôi nghe thấy rồi”.

Nói xong thân hình thoáng động, một bước mấy trượng, biến mất trong màn đêm.

Hắn nghe tiếng đuổi theo, lại phát hiện Diệp Lâm An không nhanh không chậm theo sát ngay sau lưng, bước chân nhẹ như lông vũ, hô hấp dài mà ổn định.

Hắn không nén được mà kinh ngạc, thật không ngờ trong Lục Phiến môn lại có cao thủ thế này.

Để tránh bị phát hiện, hai người luôn giữ cự ly rất xa với Thiết Phong.

“Tôi nghĩ... nơi lão định đến là kỹ viện”, Diệp Lâm An nén giọng thật thấp nói.

“Thế sao?”, Đường Tiềm hỏi.

“Tôi đã điều tra qua, đêm đầu tiên lão tới đây thì đã lập tức tới căn phòng nhỏ trên tầng cao nhất của Tích Dạ lâu, muốn gặp một nữ nhân tên gọi ‘Tam Canh’. Nghe nói giá của ả này cực cao, cực kỳ khó gặp. Cũng không biết là lão đắc tội chỗ nào, hay là có khoản thủ tục nào không qua được thế là bị người ta cự tuyệt rồi.”

Đằng xa vẳng lại trống tam canh, lòng hắn trầm hẳn xuống.

Ánh đèn của Tích Dạ lâu chợt hiện ra trước mặt, căn phòng nhỏ trên đỉnh lầu vẫn tối đen. Bóng áo đen xuyên qua cửa sổ, nhẹ nhàng cưỡi gió đạp mây, tung người lướt tới.

Giờ tàn canh tận. Trong lầu tuy vẫn còn tiếng khách nhân cười nói ồn ã, tiếng khách nhân rượu say phát cuồng, tiếng gõ nhịp phạt rượu... nhưng tòa trang viện ngày thường lúc nào cũng có bóng hồng chào mời, người tới người lui tấp nập thì giờ đã trống không.

Đường Tiềm tăng tốc bước mau, nhảy vào cửa sổ gần như ngay sau bóng đen kia.

Đây chỉ là cái bẫy họ giăng sẵn, hai bước quan trọng nhất chính là thời gian và kỹ thuật theo dấu.

Trong phòng lặng ngắt, hương đưa thoang thoảng.

Hắn chẳng thấy gì, chỉ cảm nhận được đằng sau có mùi rượu phảng phất truyền tới, Diệp Lâm An vô thanh vô tức theo vào phòng, vỗ nhẹ lên vai phải hắn một cái, coi như đánh tiếng.

Hắn chợt cảm thấy có chút may mắn.

Một đường truy đuổi đã khiến hắn hiểu được, nếu như người đi cùng hắn là Đường Bồng, hai người có liên thủ cũng chưa chắc là đối thủ của Thiết Phong. Kẻ vừa lén vào phòng kia thân thủ nhanh nhẹn, khinh công trác tuyệt, so với lão nhân già nua hắn gặp ở Tây Sơn thảo đường quả thật là một trời một vực.

Lẳng lặng tiến về trước hai bước, dưới chân chợt chạm vào một vật gì đó nằm ngang. Hắn dừng chân đạp nhẹ, rồi cúi người xuống đưa tay sờ thử.

Là một nam nhân, chắc là khách tối nay, dĩ nhiên là đã toi mạng.

Đột nhiên hắn nghe thấy dưới đất phát ra một tiếng “choang”, hình như có ai đó không cẩn thận làm rơi vỡ thứ gì.

m thanh này vọng ra từ phòng trong, là tẩm thất của nữ nhân kia.

Đường Tiềm chuyển mình, không phát ra tiếng động, xông thẳng vào.

Trong bóng tối đao quang lóe lên rồi biến mất.

Kẻ kia khẽ nghiêng người, một lùi, một tiến, vung chưởng đánh tới, đánh thẳng vào sống đao hắn vừa chém ra. Một luồng kình lực thâm hậu mà mềm dẻo mãnh liệt ập tới. Đường Tiềm lách người chắn trước nữ nhân ở bên bàn trang điểm, vung chưởng đối một chưởng với kẻ kia.

Nội lực kẻ kia thuần hậu liên miên, tựa như nước sông cuồn cuộn, ào ạt bất tuyệt ập tới hắn!

Chỉ nghe có tiếng Diệp Lâm An cười nói: “Đường huynh hôm nay thật có phúc khí, lại có thể được lĩnh giáo tuyệt chiêu nổi tiếng nhất của Tâm Ý môn là ‘Dạ khí phù sơn’... Thiết trưởng lão thong thả, Đường huynh lĩnh giáo xong còn có kẻ hèn này”.

Nói xong có tiếng mồi lửa kêu “tách” một tiếng, ngón tay búng ra, đèn ở bốn bức vách lập tức được thắp sáng.

Đường Tiềm chưởng đao một cái, nội tức trong ngực quặn lại, bước về phía trước một bước, thân thể cứ như bị chưởng lực của Thiết Phong dính lại.

Đồng thời có tiếng cười lạnh vọng lại, Thiết Phong nói: “Thằng lỏi con vừa mới xuất đạo đã cho rằng mình là thiên hạ đệ nhất... thật nực cười”, nói xong thu chưởng lại, tay búng ra một quân cờ, may mà Diệp Lâm An tránh cũng nhanh, nếu không trên trán đã thủng một lổ.

Đường Tiềm tự biết một chưởng vừa rồi về nội lực đã chịu thiệt to, nhất định không được đọ nội lực với lão nữa, lập tức, ào ạt mấy đao như bạo vũ cuồng phong quét tới, chớp mắt đã xuất ra hơn ba chục đao, hoàn toàn không để cho người khác có nửa khắc hít thở, ép Thiết Phong liên tục lùi lại.

Mội chiêu "Sậu vũ quy nhạ" này là tuyệt chiêu thành danh của Đường ̉n Đao năm xưa, cho tới giờ vẫn chưa có ai an toàn tránh thoát.

Để luyện được một chiêu này, Đường Tiềm đã phải bỏ trọn một năm. Trong một năm đó, mỗi ngày hắn nghe tiếng quạ kêu thì thức dậy, mỗi ngày luyện đao hơn sáu canh giờ, đến cả lúc ngủ nằm mộng đầu ngón tay vẫn còn cử động.

Kiểu luyện tập điên cuồng như thế, đến cả phụ thân hắn trông cũng cảm thấy bất nhẫn.

Mẫu thân hắn thì cứ cách mấy ngày lại phải thay tấm chăn bị con trai nằm mộng đá rách bằng tấm chăn mới.

Luyện tập lâu như thế, đây vẫn là lần đầu tiên hắn dùng chiêu này trong thực chiến.

Ai ngờ được lần đầu tiên sử dụng lại chẳng chút hiệu quả gì. Tuy dưới đao chiêu lăng lệ của bản thân, Thiết Phong không tránh khỏi phải thụt trái cụp phải, cực kỳ chật vật nhưng ba mươi mấy đao kia chẳng qua chỉ chém rách được áo lão, một đao cuối cùng rốt cuộc cũng chém được lên vai lão nhưng cũng chỉ là một vết thương nông toẹt, chảy được mấy giọt máu.

Nữ nhân kia vẫn luôn cúi đầu im lặng, cực kỳ an tĩnh. Ba nam nhân đột nhiên xuất hiện trong phòng nàng, lại còn xuất thủ đánh nhau, vậy mà nàng chẳng hề hoang mang.

Diệp Lâm An rút thẻ bài ở eo lưng, nói: “Đây là quan phủ bắt người, cô nương không cần sợ hãi”.

Nữ nhân kia gật đầu, lạnh nhạt nói: “Lúc đi nhớ thổi nến đóng cửa”, nói rồi buông tấm rèm lụa thêu hoa, cứ thế đi ngủ.

Nàng vừa nằm xuống, chợt nghe “binh” một tiếng, bàn cờ đặt cạnh cửa sổ bên ngoài đã bị Thiết Phong một cước đá bay lên, quân cờ trên mặt bàn lập tức rơi xuống đầy đất ào ào như mưa, lão thuận tay múa bàn cờ một cái, mười mấy quân cờ như tên bắn lao vun vút về phía trong rèm!

Lúc ấy Diệp Lâm An đang đứng ở bên giường, vội vàng vươn tay kéo nữ nhân kia ra.

Khổ đấu hơn trăm hiệp vẫn chưa phân thắng bại, Thiết Phong đã cảm thấy tâm phiền ý loạn, chợt thấy nữ nhân kia nhoài ra thì không hề nghĩ ngợi, một chưởng hung mãnh vồ tới! Một chưởng này đánh xuống dù có là thân cao thủ võ lâm thì cũng phải thổ huyết ba ngày. Còn như người thường, dính phải một chút chưởng phong là mất mạng rồi. May mà lúc ấy Đường Tiềm đã tới kịp, đưa tay kéo cô gái ra sau lưng mình, không làm sao được đành cắn răng tiếp chưởng thay nàng.

Cho dù nội lực thâm hậu, hắn vẫn cảm thấy trong ngực nôn nao khó chịu, một ngụm máu đã dâng tới miệng lại miễn cưỡng nuốt xuống. Nhân cơ hội ấy, hắn đột nhiên lật tay một đao chém tới!

Chỉ nghe “phụp” một tiếng, trúng ngay cổ Thiết Phong, máu tươi tức thì phun ra, tưới ướt đẫm mọi người.

Một cỗ thân thể nặng nề cuối cùng đổ ập xuống.

Đường Tiềm không khỏi nghĩ thầm, vừa rồi nếu không phải cô gái này đột nhiên nhoài người ra, tự dưng cho hắn một cơ hội thì có lẽ kẻ gục ngã kia chính là hắn rồi.

“Lão chết rồi”, Diệp Lâm An thuần thục kiểm tra thi thể, nói, “Mọi việc còn lại để tôi xử lý...”.

Đường Tiềm bổ sung một câu: “Chớ có quên huynh là nhân chứng”.

Diệp Lâm An bật cười: “Việc ấy dù tự huynh quên tôi cũng không quên”.

Đường Tiềm gật đầu: “Tôi muốn đưa cô gái này rời khỏi đây”.

Diệp Lâm An lập tức phản đốì: “Ả cũng là nhân chứng, tôi đang định hỏi ả họ gì tên gì, quê quán phương nào, có giấy phép hành nghề không. Nếu là quan kỹ bỏ trốn thì còn phải tra thực thân phận, bắt về bộ Lễ quy án”, hắn đưa mắt đánh giá cô gái, thấy nàng mặt thoa một lớp phấn trắng dày, tô vẽ rất đậm, tóc dài búi cao, trang điểm trông cứ như quỷ thần, không khỏi chán ghét trong lòng, “Loại nữ nhân này lại còn đòi một đêm thu một trăm lượng của người ta, so với một năm lương bổng của tôi còn nhiều hơn!”.

“Dưới đất rành rành có hai xác chết, nhân chứng của huynh thế còn chưa đủ à? Hà tất phải phá việc làm ăn của người ta? Lại nói vừa rồi thiếu chút nữa nàng cũng mất mạng rồi”, Đường Tiềm tiếp tục cầu cạnh cho nàng.

Diệp Lâm An do dự một lúc, nghĩ ngợi rồi miễn cưỡng nói: “Thôi được rồi”.

Đường sá không bụi bặm, đầu phố xa xa đưa lại mùi hoa mai như có như không.

Cô gái nọ khoác lên một chiếc áo trùm đầu. Đường Tiềm đưa nàng tới đầu phố thì dừng bước, trong ngực khí huyết đảo lộn, không khống chế nổi nữa bèn tìm một góc nôn liền ba ngụm máu lớn mới cảm thấy khí tức nôn nao trong ngực giảm bớt. Sau đó hắn rút khăn tay lau máu ở miệng bước về chỗ cũ nói với cô gái: “Nàng ở chỗ nào? Ta đưa nàng về”.

Cô gái nhẹ nhàng hỏi: “Thương thế của huynh có nặng không?”.

Hắn mỉm cười với nàng: “Ta không sao... nàng còn nhận ra ta?”.

Dọc đường hắn luôn dìu đỡ cánh tay nàng, nghĩ rằng nàng thân gái yếu ớt, vừa rồi phải chịu một phen kinh sợ, không khỏi đi đứng loạng choạng. Đi được một lát, dần dần có chút mù mờ, không biết là mình dìu nàng hay là nàng đang đỡ mình. Lời vừa dứt, chỉ cảm thấy tay nàng run mạnh, giọng nói tĩnh lặng như nước hồ giờ đã có chút dao động: “Huynh từng tới đây sao?”.

Thì ra nàng đã sớm quên hắn rồi.

Trong căn phòng tối đen như mực, đó đây trần trụi đối diện nhau, bọn họ không hề nhiều lời, với lại đó là lần đầu tiên của hắn, bất kể làm thế nào thì rõ ràng đều là chân tay vụng về, tin rằng chẳng hề cho nàng chút hưởng thụ nào.

“Từng tới một lần.”

"Xin lỗi, thiếp quả thật không nhớ”, nàng có chút áy náy.

“Trước khi đi, nàng muốn ta không được tới nữa, cho nên ta không quay lại.”

“Đối với ai thiếp cũng nói như thế”, nàng đã hoàn toàn bình tĩnh lại, giọng điệu dần dần thư thả, “Tránh cho bị cùng một người cuốn lấy”.

Câu trả lời này làm hắn bất ngờ, nhưng cũng khiến hắn chẳng biết nói sao.

Hắn lại hỏi sang một vấn đề ngốc nghếch: “Như thế này, nàng cũng không kiếm được bao nhiêu tiền, bà chủ của Tích Dạ lâu liệu có hài lòng không?”, hắn thường nghe nói tú bà của kỹ viện đối xử với kỹ nữ cực kỳ hà khắc, nếu có nhan sắc là sẽ bị ép tiếp khách cả ngày. Còn như nàng động một chút là cự tuyệt khách ngoài cửa thế này, lại còn không đón khách quay lại, cho dù giá một đêm có cao nữa thì thu vào cũng cực kỳ hữu hạn.

Tam Canh cười nói: “Hóa ra huynh đang lo lắng cho kế sinh nhai của ta”.

Hắn bối rối.

“Đúng là thiếp chẳng kiếm được bao nhiêu tiền... lúc vắng khách còn phải bù thêm nữa. May mà ngày thường thiếp còn việc làm ăn khác, có thể bù đắp cho nhau.”

Hắn lại càng kinh ngạc hơn, định hỏi thêm mấy câu nữa nhưng đã tới một ngã tư, nàng chợt dừng bước hỏi: “Huynh còn nhớ được đường về khách điếm không?”

Hắn lập tức hỏi lại: “Sao nàng biết ta ở khách điếm?”.

“Nghe khẩu âm huynh không phải người ở đây.”

“Là người đất Thục.”

Nàng ngẩng đâu chăm chú nhìn khuôn mặt hắn, ánh trăng vừa vặn chiếu lên mình hắn, hắn có đôi mắt rất đẹp, tĩnh lặng như rừng rậm lúc đêm khuya, sâu thẳm như nước hồ tiết thu. Nàng hít sâu một hơi, cười nhẹ: “Chúng ta chia tay ở đây, được không?”.

“Được”, hắn buông tay nàng, tiếp tục đi về hướng đông.

“Đa tạ huynh đã cứu thiếp”, nàng quyến luyến nhìn bóng lưng hắn, bình tĩnh dặn thêm một câu, “Nhưng chia tay rồi xin quên thiếp đi”.

“Đương nhiên”, hắn không quay đầu lại, đưa tay lên làm một tư thế “bảo trọng”.

Nàng đứng ở góc phố, dõi mắt nhìn theo cho tới khi hắn khuất nẻo mới quay người rời đi.

***

“Bịch”

“Quan cô nương, đây là gì vậy?”

“Cá muối.”

“A…không cần đâu…thực ra tiền thuốc chưa có thì nợ cũng được, cuối năm tính luôn là xong.”

“Cuối năm tính nợ thì vẫn phải trả cá muối, không bằng bây giờ đưa luôn cho bác”, cô gái nhỏ nhắn đặt cái sọt mây nặng nề trên vai xuống.

Cái sọt mây này to gần như vại nước, đủ để chính nàng chui lọt vào.

Lão Kim ngồi ở bên quầy thở dài nói:

“Nghe ta nói một câu xui xẻo này, Quan cô nương. Đứa bé này vừa gầy vừa ốm, ta xem không có hy vọng gì đâu, không bằng hiến lên miếu có khi còn cho nó ăn ngon được vài bữa.”

“Không phải con bác, đương nhiên bác không xót. Ai nói nó không sống được... không phải vẫn đang sống tốt đây sao?”, nàng dịu dàng nhìn đứa trẻ đang ngủ ngoan trong lòng.

Đã năm tháng rồi mà trông nó hình như không hề lớn lên, bộ dạng vẫn như một chú mèo nhỏ vừa mới sinh ra nhắm chặt mắt cuộn mình trong bọc chăn. Hơi có chút xíu gió lay ngọn cỏ là nó sẽ sốt ho, sau đó ốm mấy ngày, ăn cái gì là đều sẽ nôn ra hết, tới cả sức bú sữa mẹ cũng không có.

“Trông thế này mà cũng gọi là sống sao? Chưa tới một năm đã đem tích lũy của cả nhà tiêu sạch rồi... uống bao nhiêu thuốc, châm bao nhiêu mũi, có tác dụng gì đâu?”

“Thế thì phải hỏi bác rồi. Bác là đại phu, châm này chẳng phải đều do bác châm à?”

“Chút y thuật mèo ba chân của ta, chỉ có thể trị đau đầu chóng mặt thôi, xấu hổ quá.”

“Bác có cách nào khác không?”

“Chẳng có cách nào đâu, được ngày nào hay ngày ấy, nghỉ thoáng chút đi. À... đúng rồi, hôm trước trong trấn có một vị Phương đại tiên đến, được Trương gia ở thôn đông mời tới đó ba ngày rồi, cô có muốn tới thử xem sao không? Ta xem đứa bé này có lẽ... khụ khụ... bị trúng tà rồi... đấy cô xem, nhờ đại tiên đuổi hộ cũng hay...”

“Bao nhiêu tiền một lượt thế?”

“Một trăm xu một lần, cũng không đắt. Chỉ là đòi một con lợn, đương nhiên... không thế thiếu rượu rồi.”

“Thế mà bác còn bảo không đắt? Không có lợn, cá muối được không?”

“Người ta là nguời phương bắc, không ăn thứ ấy.”

“Ài”, nàng chán nản than.

Lão Kim cũng là ngư dân, thời trẻ từng theo một vị lang trung giang hồ “ra ngoài”, xem như là người duy nhất trong thôn từng thấy mặt mũi thế đời. Đúng mùa thì bắt cá, không thì mở một cửa tiệm nhỏ, bán chút đồ tạp hóa với thuốc men. Thôn nhỏ, bốn phía sông to núi lớn, mọi người ai nhiễm chút đau đầu sốt vặt thì đều tới tìm lão. Lão kim châm lửa cứu, cứ thế mà làm, dần dần mọi người đều coi lão là đại phu.

“Không muốn thế cũng được...”, lão Kim ngắm eo thon của nàng, ấp úng một lúc rồi nói: “Vợ ta mất năm ngoái rồi, không bằng cô gả cho ta... Con lợn kia ta bỏ ra cho cô... bệnh của con cô cũng giao hết cho ta... nuôi nó sống thêm mấy năm...”.

Lão Kim tới nay mới chỉ bốn mươi, chưa tính là già. Người ta giới thiệu cho lão mấy cô rồi, lão nhìn trái nhìn phải xem mãi đều không thấy bằng Quan cô nương trước mắt cả ngày tìm lão bốc thuốc này. Xem trúng chính là giọng nói ngọt ngào với thân hình thon thả của nàng, lại cả tài bắt cá nữa. Cô gái này hễ xuống nước thì bắt cá so với thanh niên khỏe mạnh nhất trong thôn còn nhiều hơn gấp đôi, cưới được về, nhất định có thể lo liệu tốt việc trong nhà.

Mỗi tội, mọi người đều nói, tính tình Quan cô nương cũng rất khó trêu vào. Sau khi sinh đứa con trai lại càng không nên chọc. Trong thôn có một đám trai làng, sau khi đánh cá thường thích tụ tập tại sân phơi cá tây thôn nói cười trêu ghẹo đàn bà con gái đi ngang qua. Vừa vặn Quan Nguyệt ngày nào cũng đi qua con đường ấy.

Nàng chỉnh cho gã to gan nhất là Tiểu La một trận, về sau đám ấy hễ thấy nàng là đều khách khí chào hỏi, không dám nói thừa một chữ.

Lần đó, nàng tát cho Tiểu La một cái, ngày hôm sau đầu Tiểu La sưng to bằng cái đầu heo.

Phải hết một tháng, thoa không biết bao nhiêu cao vết sưng ấy mới tiêu hết.

Phải sau một năm, Tiểu La mới thấp tha thấp thỏm tới sân phơi cá, trông thấy Quan Nguyệt thì ngoan ngoãn cúi đầu bộ dạng hoàn toàn thuần phục.

Bọn thanh niên thầm nghĩ: Cô ả bé người này thân thủ cực kỳ phi phàm, ngày thường nhìn thế nào cùng không ra.

Nghĩ tới đây, lão Kim len lén nhìn Quan Nguyệt, thấy sắc mặt nàng không thay đổi, trong lòng không khỏi mừng thầm.

“Bác thật biết nói đùa!”, Quan Nguyệt cười.

“Ta chân thành đấy”, lão Kim tươi cười nói.

“Vì con mà lấy chồng, ừ thì cũng không có gì là không được”, đôi mắt Quan Nguyệt chợt sắc như đao quét lên khuôn mật rỗ lỗ chỗ của lão Kim, nhìn tới mức toàn thân lão toát mồ hôi rồi mới không nhanh không chậm nói, “chỉ là cũng phải gả cho ai dễ coi. Bác à... nhà bác không nên nhân lúc người ta khó khăn chứ?”.

Người thôn vùng này thích tôn xưng người khác là “nhà bác”.

Ở đây một năm, nàng đã nói trôi chảy tiếng địa phương, sớm đã đem khẩu âm trước đây của mình tống đi tận đẩu tận đâu rồi.

“Cái này... khụ khụ... đâu có đâu có”, lão Kim cứng đờ mặt ra.

“Cá muối này nhà bác có lấy hay không? Nếu không, sau này bác không cần làm cá muối với cá hun khói nữa, tôi bao hết cho nhà bác, được không? Tính là tiền thuốc.”

“Việc này... cá muối thì trong nhà ta đã có mấy sọt lớn rồi”, lão Kim nhíu mày.

“Vậy thì trả bác tiền đồng là được”, Quan Nguyệt móc trong người ra một bao nhỏ, rút bên trong ra một xâu tiên, tuy một xâu là một trăm đồng, nàng vẫn cứ thật thà từng đồng từng đồng một đếm lại một lượt.

“Thuốc ta đã gói xong rồi. Mỗi ngày uống một lần, tổng cộng một trăm lẻ tám đồng, lấy cô một trăm, tám đồng kia thôi đi.”

Nhân tình không được nhưng việc làm ăn vẫn đấy, mua bán phải chăng. Lão Kim mất mặt thì mất mặt rồi nhưng cũng không muốn để người ta bảo mình ức hiếp cô nhi quả phụ. Vừa nhận lấy tiền xong, cùng không đếm lại, bỏ ngay vào ngăn kéo nhỏ dưới quầy, trưng ra bộ mặt làm ăn.

“Vậy phải cảm ơn rồi”, Quan Nguyệt cầm thuốc, ôm đứa con đang ngủ say trong lòng, bước ra ngoài cửa.

“Đợi đã”, lão Kim đột nhiên gọi nàng.

Nàng đứng lại.

“Tốt nhất là mang nó vào trấn tới nhờ Khưu đại phu xem xem... Tiền khám tuy đắt một chút nhưng dù gì người ta cũng là đại phu tử tế, hay ra ngoài đi lại hiểu nhiều biết rộng, có khi lại có cách”, nhìn bóng hình lẻ loi của cô gái này, lão Kim không nén được nói thêm một câu.

Từ đấy tới trấn phải đi hai ngày đường núi, trèo qua hai quả núi. Trong núi có sói, có báo, có rắn độc. Ngày thường dù là thanh thiên bạch nhật cũng phải có bảy tám trai tráng kết thành đoàn mới dám đi, một cô gái lại còn đem theo một đứa trẻ bệnh tật, làm gì có gan ấy?

Quan Nguyệt quay mình nhìn núi non trùng điệp sau thôn, cười khổ.

Dù là chèo thuyền đi đường sông cũng phải tốn sáu canh giờ mới có thể tới được một trấn lớn.

Trong trấn lớn cái gì cũng đắt, tiền tích cóp một năm còn không đủ nửa ngày tiền phòng trọ.

“Đa tạ bác, tạm thời chưa có tiền, tích đủ tiền rồi nhất định đi”, nàng cúi đầu, buồn rầu cắn môi.