Ma Thổi Đèn

Quyển 5 - Chương 21: Hung thiết




Tôi chưa kịp tung chân đạp cửa, đã thấy bên ngoài hai ô cửa sổ đó bất thần lộ ra hai cánh tay trắng ơn ởn, năm ngón tay chầm chậm uốn éo trên mặt kính, phát ra những âm thanh ma sát chói tai, nghe mà da gà nổi lên khắp người. cẳng chân tôi mới nhấc lên một nửa liền dừng sững lại, đột nhiên bản lề gỉ sét phát ra một tràng âm thanh quái dị, cùng với âm thanh ấy, cánh cửa chầm chậm bị đẩy ra từ phía bên ngoài...

Bản lề gỉ hoen gỉ hoét phát ra những âm thanh “két két két két”, cánh cửa bị đẩy ra từ phía bên ngoài, tôi chưa bao giờ biết rằng tiếng mở cửa lại đáng sợ đến nhường ấy. Cánh cửa he hé mở, tựa như có một chậu nước lạnh pha lẫn vụn băng đá xối thẳng vào người tôi, nhưng qua khe hẹp ấy, chỉ nhìn thấy được một vùng tối đen mờ mịt bên ngoài.

Tôi vẫn muốn kiên trì xem xem rốt cuộc là kẻ nào đẩy cửa bước vào, nhưng Đinh Tư Điềm và Tuyền béo đỡ lão Dương Bì ở phía sau đã không trụ nổi, kêu lên một tiếng: “Chạy thôi!” Nói đoạn, bọn họ liền bắt đầu rút lui vào bên trong. Tôi mất chỗ dựa đằng sau, cũng không dám làm tàng tiếp tục đứng chặn ở cửa, bèn vội vội vàng vàng xách ngọn đèn dầu leo lét quay người chạy gấp, nhưng cất chân lên mới cảm giác được cặp giò mình đã mềm nhũn cả ra rồi.

Người xưa có câu “binh bại như núi đổ”, hành động triệt thoái tán loạn không có kế hoạch tổ chức là rất đáng sợ. Mấy người chúng tôi tuy bảo là hò nhau rút lui đấy, nhưng sự thực, nỗi sợ tựa như bệnh truyền nhiễm lan tràn, không ai ghìm được nhịp tim dồn dập, thần trí kinh hoảng như con ruồi mất đầu, chen chúc xô đẩy nhau chạy vào bên trong hành lang. Bọn chúng tôi chạy vào đến chỗ cầu thang cuối hàng lang, suýt chút nữa là đập đầu vào tường, bấy giờ mới dừng bước.

Tôi giơ đèn dầu lên nhìn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm, mặt hai người đều trắng nhợt, hoàn toàn có thể hình dung bằng câu “mặt cắt không còn hột máu”, sắc mặt tôi chắc chắn cũng chẳng hơn gì hai người họ. Lần này đúng là chết toi thật, đầu tiên tại bố cục bên trong tòa nhà này quá sức kỳ bí, khiến người ta không thể không nảy sinh cảm giác duy tâm chủ nghĩa, mười phần chắc đến tám chín là trong đây có ma quỷ lộng hành, chết người nhất là lúc đi lại quên không mang theo mấy cái móng lừa đen.

Cửa tòa nhà này cũng rất đặc biệt, không ở phía mặt tiền như các tòa nhà bình thường, mà trổ ở đoạn hẹp của tòa nhà hình chữ nhật. Các căn phòng dọc hai bên hành lang đều bị bít chặt bằng gạch đá, đoạn hành lang nối liền với cửa ra vào này rất dài, cuối hàng lang cũng bị bít kín, đi tới đây chỉ còn một lựa chọn duy nhất là lên cầu thang. Ở chỗ rẽ cuối hành lang, có hai cầu thang một lên một xuống, phỏng chừng trong tòa nhà này còn có hầm ngầm nữa.

Giống như hành lang, cầu thang đều thông thoáng, không bị bít kín bằng gạch đá. Chuyện xảy ra ngoài cửa lúc nãy làm chúng tôi đều mất hết nhuệ khí, nhất thời cũng không dám tính kế quay lại đường cũ đi ra cửa nữa. Việc đã đến nước này, giờ cũng chỉ còn lại hai lựa chọn, đi lên tầng hai hoặc xuống hầm ngầm mà thôi.

Vì trong tòa nhà thực sự quá đỗi tĩnh lặng, chúng tôi ở cuối hành lang không nghe thấy phía cửa sắt có động tĩnh gì nữa, bấy giờ mới thơ phào một tiếng. Đinh Tư Điềm ôm ngực thở hổn hển hỏi: “Đừng hoảng hốt, vừa nãy có ai trông rõ... là... là cái gì ở bên ngoài vào không?”

Tuyền béo trề môi nói với cô: “Bạn còn hỏi được thế cơ đấy. Vừa nãy chẳng phải bạn đánh trống lui quân trước tiên còn gì. Tôi còn chưa nhìn rõ bên ngoài có cái gì, thì đã ba chân bốn cẳng chạy vào trong này với bạn rồi. Tôi thấy, chúng ta lần này đúng là ‘nghe hơi liền bỏ chạy’ thật rồi, không ngờ thanh danh cả đời của tôi, lại bị hủy cả ở cái chốn hoang vu này.”

Lão Dương Bì đột nhiên tỉnh lại khỏi cơn hôn mê, thấy mình được Đinh Tư Điềm và Tuyền béo vừa đỡ vừa kéo, rồi lại mượn ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu quan sát xung quanh, không hiểu mình đang ở nơi nào, bụng thì phình trướng lên khó chịu vô cùng, trong lòng đầy hoang mang mơ hồ, vội vàng hỏi tôi: “Chỗ tối om này là đâu thế? Lẽ nào đã vào điện Diêm La rồi? Không ngờ lão già như tôi, lại cùng mấy người thanh niên trí thức các cậu...”

Tôi bèn giải thích qua loa với lão Dương Bì, chợt nghe ngoài cửa vang lên tiếng loảng xoảng, âm thanh chấn động va đập vào vách tường hồi vọng ong ong đinh tai nhức óc. Nghe âm thanh này, chắc rằng cửa sắt bên ngoài kia đã bị hạ xuống rồi. Các cửa sổ trong tòa nhà này đều toàn là đồ rởm, nếu không còn lối ra nào khác, vậy thì chỗ cánh cửa sắt kia chính là con đường duy nhất để rời khỏi nơi này.

Ai nấy tái mặt, sau tiếng cửa sắt sập xuống ấy, trong tòa nhà lại không một động tĩnh, hồi lâu sau chúng tôi mới định thần được. Vừa nãy mọi người đều chỉ lo chạy vào trong, quên mất rằng bên ngoài kia còn một tầng cửa sắt, một khi đã đóng lại thì khó mà ra ngoài được. Chỉ nghe Tuyền béo lớn tiếng chửi bới: “Tổ sư cha bố mười tám đời nhà nó, thế này là muốn nhốt chúng ta chết trong này rồi còn gì, cha chả độc ác quá là độc ác, đừng để tôi biết là đứa nào làm, tôi mà biết thì nhất định phải phê con bà nó đấu nó mấy trận cho nó chết cha nó đi.”

Lão Dương Bì hồi trước ở nhà hầm vùng Tây Bắc, sau đến thảo nguyên mưu sinh lại ở trong lều bạt của người Mông Cổ, xưa nay chưa bao giờ ở trong nhà bằng xi măng cốt thép, nói theo lời ông, cảm giác tòa nhà này giống như một cái hộp vậy. Tuy ông không rõ tình hình cho lắm, nhưng nghe Tuyền béo nói vậy thì cũng đoán ra được bảy tám phần rồi. Ông già cứ thở dài thở ngắn mãi không thôi, trở về tiểu khu tuy không tránh khỏi bị phê bình, đấu tố, nhưng thế nào thì cũng đỡ hơn là chết đói ở trong cái hộp bằng đá này.

Đinh Tư Điềm nói với tôi: “Rốt cuộc là ai đóng sập cửa sắt xuống vậy, trên đời này có ma quỷ thật sao? Sớm biết vậy thì vừa nãy chúng ta lẽ ra nên dũng cảm xông ra ngoài rồi.” Cả bọn mỗi người một câu thảo luận về tình hình trước mắt, có người hối hận, có người oán thán, lại có người cứ luôn miệng chửi bới, nói đi nói lại rốt cuộc cũng chẳng được câu nào hữu dụng hết.

Tôi biết trong tòa nhà tối om tối mịt, trời sáng trời tối e cũng chẳng hay, càng bị nhốt lâu, áp lực tâm lý sẽ càng lớn, vả lại còn không có thức ăn nước uống, nếu không nghĩ cách thoát thân, chỉ sợ thật sự phải để lại mấy cái mạng trong tòa nhà quái quỷ này mất. Nghĩ đoạn, tôi bèn nói với mấy người còn lại: “Mọi người nghe tôi nói mấy câu đã, hoàn cảnh của chúng ta lúc này đích thực là rất gian nan, tôi nghĩ đây đều do một loạt những tổn thất trong ngày hôm nay gây ra. Từ xưa, binh pháp đã có câu rằng, gặp sự quý nhất là thủ vững, gặp thời cơ quý nhất là quyết đoán, bàn mưu quý nhất là chặt chẽ chu mật. Khi gặp khó khăn và biến cố, quan trọng nhất là phải giữ vững được nguyên tắc và phương châm từ trước đến giờ, không thể dao động nghi ngờ và mất lòng tin được; gặp được thời cơ thì nhất định phải quyết đoán, không thể do dự thoái lui; khi bày mưu tính kế nhất định phải chu toàn tỉ mỉ, không thể mạo hiểm mù quáng. Nhưng với biểu hiện của chúng ta lúc này, cả ba điểm trên đều không thể làm được, có điều cái khó mới ló cái khôn, kể từ bây giờ, muốn từ bị động chuyển thành chủ động, nhất thiết phải quán triệt ba nguyên tắc trên. Chỉ cần chúng ta đoàn kết chặt chẽ, gặp khó khăn không dao động, gặp nguy hiểm không thoái lui, khiêm tốn nhún nhường, gan dạ mà cẩn trọng, cuối cùng chúng ta nhất định sẽ chiến thắng hết thảy kẻ địch và khó khăn.”

Những lời này là nội dung bài nói chuyện của một vị thủ trưởng nào đó đăng trên báo, hồi trước bố tôi có đọc cho nghe một lần, giờ thấy tinh thần mọi người sắp rã ra như nắm cát khô, liền nhớ lại mà nói ra. Có lẽ lúc này cần có người đứng lên, có lẽ những lời này đích thực có lý có lẽ, không cần biết là vì nguyên nhân gì, chỉ biết là rất hữu dụng, cả bọn nghe tôi nói thế, tinh thần đều trấn định hơn trước nhiều.

Lão Dương Bì hỏi tôi giờ tính phải làm sao? Tôi nói: “Các phòng ốc trong tòa nhà này đều bị gạch đá xi măng bít kín cả rồi, nhưng chúng ta mới chỉ thấy tầng một, tầng hai tầng ba và tầng hầm như thế nào thì vẫn chưa biết, nếu dưới hầm có thông đạo hoặc trên lầu có gian phòng nào chưa bị bít kín, vậy thì có thể tìm cách rời khỏi đây, quan trọng nhất là nếu gặp phải chuyện gì, chúng ta cũng tuyệt đối không thể rối loạn.”

Nói đoạn, tôi vung thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì lên, nghe ông già nói, thanh đao này là vật ngự dụng của Hoàng đế Khang Hy hồi ngài chinh phạt Cát Nhĩ Đan, về sau thưởng cho vương công Mông Cổ. Thanh đao này cán dài lưỡi dài, thân đao thẳng, nhọn, không chỉ có rãnh cho máu chảy ra, mà còn chạm trổ một con rồng vàng, vừa sắc bén lại vừa hoa lệ, tuyệt đối không phải vật thường.

Tôi nói, tuy thanh đao này thuộc về chế độ cũ, nhưng dù sao cũng là vật của hoàng gia, lại là lợi khí sắc bén, nhất định là có thể trừ tà tránh ma. Có điều, những lời này chẳng qua cũng chỉ là thuận mồm đưa đẩy, còn bảo đao Khang Hy này có kỵ tà được hay không thì tôi đương nhiên không thể biết, chỉ biết rằng trước mắt cần phải làm cho mọi người cảm thấy có chỗ dựa, bằng không, nếu lại gặp phải hiện tượng dị thường gì nữa, cả bọn sẽ lại quay đầu co giò mà chạy mất thôi.

Chúng tôi đã hạ được quyết tâm, bèn lập tức triển khai hành động, đầu tiên cả bọn hy vọng có thể tìm được một căn phòng nào đấy chưa bị bít kín rồi thoát ra cửa sổ, nếu có thể thì cố gắng không đi xuống hầm ngầm. Tuy trong tòa nhà tối om như mực, trên lầu dưới lầu chẳng có gì phân biệt, nhưng hầm ngầm dù sao cũng ở dưới lòng đất. Có lẽ vì ám thị tâm lý, chúng tôi chọn lên lầu quan sát trước rồi tính sau.

Bốn người vừa lẩm bẩm chỉ thị tối cao, nói chuyện với nhau cho tăng thêm lòng can đảm, vừa sờ lần cầu thang đi lên tầng hai. Đinh Tư Điềm nói: “Có ưu thế mà không chuẩn bị thì không phải là ưu thế thực sự, mọi người để ý mà xem, tất cả dây điện trong tòa nhà này đều bị cắt đứt cả rồi, xem chừng tòa nhà này hồi trước cũng được sử dụng thật, không hiểu vì nguyên nhân gì mà lại bỏ hoang thế này.”

Tôi nói: “Tôi thấy tòa nhà này tuyệt đối không đơn giản chỉ là bị bỏ hoang đâu, bao nhiêu phòng ốc đều bị bít kín bằng gạch đá xi măng, lại còn dùng giấy niêm phong những kẽ hở trên cửa sổ từ bên ngoài nữa, rồi cả tấm gương hai mặt lớn ở trước cửa ra vào, tất cả mọi sắp đặt ấy nhất định là để không cho thứ gì đó tiến vào hoặc thoát ra khỏi đây. Nhưng chúng ta ở bên trong này một lúc lâu rồi cũng không cảm thấy bức bối khó thở, chứng tỏ rằng nơi đây vẫn có những lỗ thông gió, thực là khó hiểu kết sức. Đây gọi là lành thì chẳng đến, đến thì chẳng lành, không hiểu đối phương kia có ý đồ hữu nghị hay là xâm lược đây?”

Tuyền béo lên tiếng: “Thế mà còn phải hỏi à, chắc chắn là xâm lược rồi. Người chọc đến ta, ta nhất định phải chọc lại cho nó chết, mấy cái thứ phản động ấy, không đánh thì không gục ngã đâu. Nó mà làm tôi tức lên ấy à, tôi dỡ mẹ nó cả tòa nhà này đi, đào sâu ba thước đất cũng phải tìm thấy cái thứ không dám ló mặt ra đó, đánh cho nó hộc máu mồm ra.”

Lão Dương Bì thở dài nói: “Chắc là tại chúng ta ăn thịt các vị thần tiên trong đầm nước rồi, thần tiên làm sao mà ăn được chứ? Giờ gặp phải báo ứng, bị nhốt trong cái hộp này, thôi thì đành chịu mệnh đi thôi.”

Tôi nói với lão Dương Bì: “Mọi quyền lợi đều thuộc về công nông binh chúng ta, thần tiên cái khỉ gì chứ? Cháu quên không nói với ông, cá ấy chỉ có mình ông ăn thôi, nếu đúng là báo ứng thì ở đây liên quan gì đến ba đứa chúng cháu đâu chứ? Vả lại, chỗ này cũng chẳng phải hộp hiếc gì cả, có thể là nhà năm đó bọn Nhật Bản xây nên thôi. Lẽ nào mọi người không biết nơi đây từng bị người Nhật Bản chiếm đóng? Năm ấy người anh em của ông vào khu vực động Bách Nhãn này rồi mất tích, liệu có phải ông ấy bị người Nhật giết rồi hay không?”

Lão Dương Bì trước đây đâu có nghĩ đến chuyện này, lập tức trợn mắt há hốc miệng ra: “Đánh đổ bọn thổ hào ác bá rồi, có lẽ nào người anh em mệnh khổ ấy của lão lại bị lũ Nhật Bản hại mất tính mạng?” Tôi không trả lời lão Dương Bì, trong đầu không ngừng suy nghĩ về những bí mật phủ trùm lên động Bách Nhãn này. Khó mà suy đoán được nơi đây rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng có một điểm tôi có thể khẳng định, tòa nhà này chắc chắn do người Nhật xây từ thời kháng chiến, ngoài ra, thà để lão Dương Bì đổ món nợ về người anh em mất tích của ông lên đầu chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc còn hơn là mê tín quy kết thành yêu nghiệt tác quái, như vậy ít nhất cũng có thể khiến ông già hóa bi thương thành sức mạnh, khỏi phải luôn miệng cằn nhằn chuyện ăn mấy con cá bị báo ứng báo iếc gì đấy.

Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đã đi hết cầu thang tầng hai và tầng ba, các phòng trên hai tầng này cũng bị bít kín hết loạt, một số chỉ dẫn, biển báo bằng tiếng Nhật toàn bộ đều bị cạo đi, chỉ còn lại một vài dấu vết rất khó nhận ra. Các hành lang cũng hệt như tầng một, bị gạch đá bít kín, không thể tiến vào nửa bên kia của tòa nhà, tại sao lại vậy? Lẽ nào phía bên kia có thứ gì đó? Rất có thể, bên ấy đã bị đổ gạch đá bít kín đặc giống như mọi gian phòng trong tòa nhà này rồi cũng nên.

Tuy nói không chuẩn bị thì không tiến lên, nhưng tình cảnh trước mắt, chúng tôi gần như đã là người mù cưỡi ngựa đui, canh khuya rơi chốn đầm sâu, rơi vào giữa chốn thần bí bốn bề đều có nguy cơ, lại còn hoàn toàn không biết mình đang phải đối mặt với thứ gì, xem ra có tìm nữa cũng chẳng có tác dụng. Tôi nghĩ đoạn, bèn dừng lại ở cuối hành lang tầng hai, quyết định quay xuống dưới hầm ngầm thử một phen coi sao.

Nhưng vừa mới nhấc chân lên, Đinh Tư Điềm xưa nay vốn rất cẩn thận tinh tế bỗng phát hiện ra một chút dấu vết trên bức tường gạch. Tường gạch ở các gian phòng nhìn bên ngoài đều không khác gì nhau, tựa hồ được xây cùng một thời gian, rất chắc chắn, không thể phá ra được. Có điều, bức tường trên tầng hai này có một chỗ rộng chừng bảy tám viên gạch vuông khá là đặc biệt, màu gạch tuy không khác xung quanh mấy, nhưng khoảng tường này lại có gì đó không được hài hòa lắm với cả bức tường còn lại. Tựa như mức độ cũ mới hơi khác nhau, giữa các viên gạch cũng hơi mấp mô chứ không được bằng phẳng như những phần tường còn lại, và giữa các viên gạch cũng không trét xi măng gắn chặt. Nếu không phải Đinh Tư Điềm tinh mắt, tâm tư cẩn mật thì thực sự rất khó phát hiện. Những viên gạch này từng bị người ta cậy ra rồi lại nhét trở vào, hay là trong bức tường đặc ruột này cố ý để lại một thông đạo bí mật?

Ngoài lão Dương Bì vẫn đang thẫn thờ nhớ lại cảnh ngộ của người em, tôi và Tuyền béo đều lấy làm phấn chấn trước phát hiện của Đinh Tư Điềm, lập tức ghi một công cho cô. Tuyền béo tính tình nóng nảy, vừa thấy trên tường có mấy viên gạch lỏng, liền tức thì muốn động tay động chân dỡ ra ngay.

Tôi ngăn Tuyền béo lại, rồi ngồi xổm phía trước mảng tường ấy quan sát thật kỹ càng, lấy vỏ đao gõ gõ lên mấy cái, nhưng thứ gạch này quá dày, nghe tiếng thật khó mà phán đoán ra được phía bên kia tường là rỗng hay đặc, chỉ có thể khẳng định rằng mấy chục viên gạch này đích thực có thể gỡ ra khỏi tường. Bên trong bức tường có gì, là hung hay là cát thì thật khó liệu định. Tôi cắn môi do dự một lát, tình hình trước mắt đã rơi vào cục diện bế tắc, nếu không dỡ mảng tường gạch này ra xem cho rõ ràng thì không thể nào giải quyết được. Vả lại, điều quan trọng nhất là ngọn đèn dầu của chúng tôi chỉ còn lại một chút ánh sáng leo lét nhỏ như hạt đậu, dầu đốt sắp hết đến nơi, mà dầu bổ sung thêm thì chẳng có. Chẳng những vậy, nơi này dù là ban ngày ban mặt cũng tối om om, trước khi hoàn toàn không còn ánh sáng, cần phải gắng sức tìm cách thoát thân, không thì tình hình sẽ càng thêm nguy cấp.

Chỉ cần có một tia hy vọng, cũng phải cố gắng nỗ lực hết sức, tôi đã hạ quyết tâm, bèn cùng Tuyền béo bắt tay vào dỡ những viên gạch lỏng lẻo. Đinh Tư Điềm đứng bên cạnh soi đèn, lão Dương Bì giúp một tay, đón lấy những viên gạch dỡ xuống xếp sang một bên.

Chỉ có khoảng vài chục viên gạch lỏng lẻo, tôi và Tuyền béo rút ra mấy viên, liền thấy bên trong còn có một lớp gạch nữa cũng di chuyển được, phía sau bức tường hai lớp không còn gạch nữa, hình như có thứ gì đó đen sì sì, lấy đèn chiếu vào không nhìn rõ, đưa cái vỏ đao gõ lên, nghe phát ra âm thanh kim loại trầm đục. Tuyền béo tính nóng, chẳng muốn rút từng viên gạch ra nữa, liền thò tay vào gạt để hết cả đám gạch còn lại, vậy là trên bức tường cuối hành lang tầng hai của tòa nhà kỳ bí liền xuất hiện một cái hốc vuông vức, rộng chưa đầy một mét vuông.