Ma Thổi Đèn

Quyển 5 - Chương 20: Quái lâu




Đinh Tư Điềm giơ ngọn đèn dầu đã gần hết nhiên liệu, mượn ánh sáng từ ngọn lửa leo lét nhỏ như hạt đậu, cố gắng đọc hàng chữ mờ mờ lưu lại trên nắp xi măng: “Bộ đội cấp nước? 3916? Đây là ý gì nhỉ? Hay là công trình của quân đội?”

Tôi và Tuyền béo nghe cô nói thế, liền quỳ xuống xem cái nắp bằng xi măng. Đây là một tấm xi măng dẹt, dường như được làm ra với mục đích đậy kín miệng hố này, nhưng không đậy khít chặt, nếu dùng xà beng ở bên trên nậy thì có thể dễ dàng mở ra được. Hai mặt của tấm xi măng đều có số hiệu, rõ ràng là vật liệu của một công trình kiến trúc nào đó rồi.

Từ thời Tần, để tiện cho việc giám sát quản lý, đã có quy định phải khắc họ tên người thợ lên gạch ngói, nhưng nhìn ngang nhìn dọc thế nào tấm xi măng này cũng chẳng hề giống cổ vật, cái gì mà “bộ đội cấp nước” chứ? Lẽ nào đây là đồ quân dụng? 3916 là phiên hiệu của đội quân ấy ư? Tôi thầm nhủ, lẽ nào đã có một đội quân tiến hành đào bới trong cái huyệt động chôn đầy đá trấn tà trấn quỷ ấy? Nghĩ đoạn tôi đưa mắt nhìn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm, hai người bọn họ cũng đều lấy làm nghi hoặc, không đoán ra được thứ này dùng để làm gì.

Tôi nói với bọn họ: “Tạm thời đừng nghĩ đến phiên hiệu trên tấm xi măng này nữa, bí mật ẩn giấu bên trong động Bách Nhãn thực sự quá nhiều, dẫu ba người chúng ta mỗi người mọc thêm một cái đầu, sáu cái đầu gộp lại nghĩ vỡ óc ra cũng không hiểu nổi đâu. Đằng nào cũng không hiểu được thì thôi khỏi cần tốn công nghĩ làm gì cho mệt, tôi thấy trong rừng này bốn bề đều là nguy cơ, vạn nhất lại gặp phải bọn độc trùng du diên du diếc thì phiền phức lắm. Nhưng địa hình trong rừng lại phức tạp vô cùng, chúng ta đã mất ngựa, lại phải vác theo lão Dương Bì, lần mò đi trong đêm là điều không thể rồi, giờ chỉ còn cách tìm chỗ nào đấy tương đối an toàn cho qua đêm nay rồi tính tiếp thôi vậy.”

Đinh Tư Điềm nhìn bầu trời ánh sao mờ mịt, lo lắng nói với tôi: “Mình cảm thấy đêm nay thật sự sẽ rất dài, chúng ta đến cả cái đồng hồ cũng không có, cũng không biết giờ là mấy giờ rồi, còn phải đợi bao lâu nữa thì trời mới sáng đây. Nói đoạn, cô liền tắt đèn đi, trong rừng ít nhiều vẫn còn ánh sao leo lét, cô định tiết kiệm chút dầu cuối cùng này để dùng cho trường hợp khẩn cấp.

Tôi cũng ngẩng đầu lên nhìn bầu không, ánh trăng sao tuy ảm đạm lu mờ, nhưng may là mấy ngôi sao chủ yếu vẫn có thể lờ mờ nhận ra được. Trước tiên tôi tìm cán gáo của chòm sao Bắc Đẩu để xác định phương hướng, sau đó tìm được Tam Tinh[29] đang lập lòe ở phía Đông. Ban đêm ở vùng Đông Bắc đều dựa vào vị trí của Tam Tinh để đoán thời gian. Nhìn vị trí lúc này của ba ngôi sao ấy, tôi đoán giờ mới khoảng chừng mười giờ tối. Ở chốn hoang sơn dã lãnh trời tối rất sớm, đêm đen đã thay thế ban ngày được sáu bảy tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa đến nửa đêm.

Tuyền béo cũng biết cách quan sát Tam Tinh suy đoán thời gian, cậu ta gập ngón tay tính toán, thấy ít nhất cũng phải bảy tiếng nữa trời mới sáng được. Lâu như vậy, ở đâu mới có thể an toàn đây? Ngẫm nghĩ một lúc, cậu ta bèn đề nghị chi bằng trở lại cái hang động lúc nãy cho qua một đêm, đến khi trời sáng mới tìm đường rời khỏi đây.

Nhưng ba bọn tôi vừa nghĩ đến đàn chuột đông đúc, rồi hoàn cảnh ẩm thấp hôi ám, những khối đá trấn ma, và cả nguy cơ có thể sụp lở bất cứ lúc nào trong hang động ấy, lại còn cả bức bích họa khắc hình Hoàng tiên cô toát lên đầy tà khí đó nữa, liền lập tức dập tắt ý định đó ngay. Tôi thấy bên cạnh có một cây cổ thụ lớn, bèn quyết định trèo lên quan sát địa hình xung quanh, rồi mới tính toán.

Nghĩ đoạn, tôi bước đến dưới gốc cây, dùng cả tay lẫn chân, bám vào thân cây leo lên trên. Lúc này sương mù trong rừng đã tan, tôi đứng trên chỗ chạc ba, hai tay ôm lấy tán cây chìa ra, cúi đầu nhìn xuống dưới. Ở vị trí này đã không nhìn rõ được mặt Đinh Tư Điềm và Tuyền béo rồi, tôi vẫy vẫy tay với họ, rồi cũng chẳng buồn để ý xem hai người kia có thấy hay không, ngẩng đầu quan sát địa hình xung quanh.

Mây đen che kín cả vầng nguyệt, bầu không chỉ có mấy ngôi sao leo lét, nhìn một hồi lâu cũng chỉ thấy quanh đấy toàn cây cối mịt mờ, chẳng có chốn nào khả dĩ dung thân. Trong tình cảnh tối tăm mù mịt thế này, con người bao giờ cũng cố gắng trợn to mắt ra một cách vô thức, muốn nhìn cho rõ hơn một chút, nhưng đã trợn cay cả mắt rồi mà cũng chẳng thấy gì hết.

Tôi ôm thân cây, đưa tay dụi dụi mắt, rồi lại ngoẹo cổ nhìn sang hướng khác. Đúng lúc ấy, tầng mây trên trời trôi nhẹ, ánh trăng lành lạnh như nước chiếu qua áng mây đen mỏng mảnh. Nhân khoảnh khắc ngắn ngủi có ánh trăng mông lung ấy, tôi phát hiện ra ở đằng sau mình, cùng lắm chỉ cách mấy gốc cây, sừng sững một cái bóng mơ hồ, tựa hồ như một tòa kiến trúc. Tất cả phòng ốc đều không có ánh đèn, tử khí trầm trầm, vì vậy cũng chỉ nhìn thấy đường nét mờ mờ của một công trình kiến trúc mà thôi.

Đang căng mắt ra muốn nhìn cho rõ hơn, thì mây đã lại che mất ánh trăng, chỗ nào hơi xa một chút lại biến thành một đám đen kịt mờ mờ, cả đường nét cũng chẳng thấy gì nữa. Vì trước đó đã phát hiện một tấm xi măng có khắc phiên hiệu của đơn vị bộ đội, nên lúc này tôi cũng không quá ngạc nhiên khi phát hiện ra một dãy phòng ốc, có điều thực sự cũng không ngờ là nó lại ở gần chúng tôi đến thế.

Tôi vốn muốn đợi thêm một lúc nữa, đợi lúc ánh trăng lộ ra rồi nhìn cho rõ hơn, nhưng Tuyền béo và Đinh Tư Điềm ở bên dưới lo tôi sẩy chân ngã, cứ cuống quýt giục xuống. Vậy là tôi bèn bám vào thân cây tuột xuống, thuật lại những gì nhìn thấy trên đó cho hai người kia nghe: Ở phía bên kia có một công trình trông từa tựa như phòng ốc, nhưng bên trong không đèn không đuốc, không có động tĩnh gì cả. Nếu đúng là có phòng ốc, dù bên trong không có người, chì ít nhất cũng có bốn bức tường với cái mái, nói không chừng còn kiếm được cái gì ăn, dù gì cũng tốt hơn ở trong rừng vừa tối tăm vừa lạnh lẽo. Cuối cùng, ba chúng tôi đều nhất trí đến đó đợi tới khi trời sáng.

Tôi chỉ rõ phương hướng, rồi ba người cùng khênh lão Dương Bì chầm chậm đi qua đó, đi được một lúc, tôi bỗng phát giác ra phía sau có người đi theo mình, nhưng ngoảnh đầu thì lại chẳng thấy có động tĩnh gì hết. Tôi đoán chắc là mình nghe nhầm, nên cũng không để chuyện này trong lòng, lại dẫn cả bọn đi băng qua bãi cỏ hoang mọc cao ngang đầu gối, ngay phía trước mặt là một tòa nhà cao ba tầng.

Tòa nhà này nhìn bề ngoài hết sức bình tường, nhưng toát lên một vẻ kỳ dị khó tả, hình thức không giống Trung Quốc cũng không giống của người Tây, cửa sổ đều bằng kính, vẫn còn khá nguyên vẹn, tuyệt đối là một kiến trúc cận đại. Tuyền béo bám vào cửa sổ chồm người lên xem một hồi lâu, bên trong không có chút ánh sáng nào, rốt cuộc cũng chẳng nhìn được gì hết, chỉ là trên tất cả các cửa sổ đều dán giấy niêm phong, bên trên có một số ký hiệu và chữ tiếng Nhật kỳ quái.

Đinh Tư Điềm nói với tôi: “Tòa nhà này không giống nhà kiểu Tây, cũng không phải nhà kiểu Trung Quốc hiện đại, trong ấn tượng của mình, chỉ có người Nhật mới xây nhà theo phong cách kỳ cục này thôi, người Liên Xô thì chắc chắn không thể tới vùng này xây nhà được, đây phỏng chừng có lẽ là doanh trại của bộ đội cấp nước gì đó chăng?” Thời kháng chiến, khu vực này từng nằm trong phạm vi khống chế của quân Nhật, rất có khả năng đây là trại lính hay kiến trúc gì đó tương tự. Thời kỳ đó, người Nhật chuyên bắt chước Âu Mỹ, rất sính ngoại, cảm thấy Âu Mỹ cái gì cũng tốt, đến cả nhà cửa cũng ít nhiều hấp thu một chút đặc điểm phong cách kiến trúc của người Tây, nếu đúng là thế thật, thì tòa nhà này ít nhất cũng bỏ hoang phế hai chục năm nay rồi.

Tôi gật gật đầu không nói gì, trong lòng thầm nhủ, thì ra chỗ này đã bị bọn Nhật chiếm đóng, liệu bọn phỉ Nê Hội kia có phải là Hán gian không nhỉ? Đào được đồ tốt thì mang đến đây để hiếu kính cho bọn quỷ Nhật? Không biết trong tòa nhà này có ẩn giấu bí mật gì hay không? Có điều, mấy chuyện này chỉ suy đoán không thôi thì không thể chắc chắn được, có chuyện gì thì để tới khi trời sáng rồi tính sau vậy. Nghĩ đoạn, tôi gọi Tuyền béo cõng lão Dương Bì lên, men theo vách tường đi tìm cửa ra vào.

Tòa nhà trước mắt chúng tôi không khác gì các nhà dân cư kiểu cũ bình thường, chỉ có ba tầng, nhìn từ bên ngoài thì mỗi tầng có khoảng hai mươi cửa sổ, toàn bộ đều đóng chặt, bên trong tĩnh lặng như tờ. Tuyền béo nói: “Chỗ này khá đấy, chúng ta vào trong rồi đóng chặt cửa lại, thứ quái quỷ gì cũng đừng hòng vào được, cứ đợi đến khi trời sáng rồi hãy đi cũng không muộn.”

Chúng tôi đều biết tập tính của bọn du diên sống ở quanh đây là “ban ngày ngủ, ban đêm săn mồi, ngửi mùi tanh liền động”, chỉ cần đợi đến lúc trời sáng mới ra khỏi rừng thì không phải lo lắng gì nữa. Thấy tòa nhà này chắc chắn nguyên vẹn, tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều cảm thấy đây là nơi rất tốt để náu mình, cửa cũng không khóa, chỉ khép hờ. Đây là loại cửa hai cánh chung bản lề, trên cửa có bốn ô kính nhỏ hình vuông, nhưng trước cửa lại không hề có biển báo hay chỉ dẫn nào.

Để cả bọn thêm vững dạ, tôi giơ chân đạp hai cánh cửa bật mở. Vì nhiều năm không mở ra đóng vào, bản lề trên cửa đều đã gỉ sét hết, phát ra những tiếng kẽo ca kẽo kẹt khó nghe vô cùng. Bên trong cũng đã bao năm không có người đi lại, khắp nơi đâu đâu cũng toàn bụi, các góc nhà đầy muội tro, không khí ô trọc, lan tỏa khắp không gian một thứ mùi ẩm mốc. Tuy cũng là nơi u ám mốc meo, nhưng so với cái hang động ẩm thấp tanh hôi kia, thì nơi này cũng tốt hơn nhiều lắm rồi.

Tôi với Tuyền béo mỗi người xốc một cánh tay lão Dương Bì, cất bước đi thẳng vào hành lang sau cánh cửa. Bên trong tòa nhà quả thực quá tồi, Đinh Tư Điềm tuy không nỡ lãng phí thêm dầu đốt đèn nữa, song cũng đành phải thắp lên chiếu sáng, vừa đi vừa quan sát kết cấu trong nhà. Chỉ thấy bên trong cánh cửa có lắp một cái gương lớn, làm hành lang vốn khá rộng rãi bị chắn đi mất hơn nửa, trước gương có cửa sắt, cửa sắt không buông xuống, cần đóng mở cửa đặt phía bên ngoài, từ bên trong không thể đóng mở được, trông giống như một nhà ngục. Nhìn cấu tạo của cửa sắt, có lẽ là loại đóng mở bằng van khí, không cần điện cũng điều khiển được. Có những trang bị kiểu này, chứng tỏ tòa nhà nhất định từng là một công trình bí mật được canh giữ chặt chẽ. Tường bên trong nhà đều được sơn màu xám trắng, nền đất láng xi măng, điều kỳ lạ duy nhất là, tất cả các cánh cửa ở đây đều đã bị bít kín bằng gạch đá, ngoài hành lang ra, không còn bất cứ phòng nào nữa.

Ba người chúng tôi đều rất lấy làm lạ, xây nhà lên không phải để cho người ở hay sao? Nhìn từ bên ngoài tòa nhà này chẳng có gì đáng chú ý, sao tất cả các cửa phòng bên trong đều bị lấy đá bít kín thế này? Chúng tôi đi tới chỗ cầu thang, phát hiện cầu thang không bị bít lại. Phỏng chừng không gian trong tòa nhà này chỉ có hành lang và cầu thang, cửa sổ bên ngoài đều chỉ là làm cho có vậy thôi.

Chúng tôi bất giác dừng lại trước bậc cầu thang, không sao bước tiếp được nữa, kiến trúc trông như tòa nhà mà lại không giống tòa nhà này thật sự khiến người ta khó lòng tưởng tượng, thậm chí tôi còn nghi ngờ không hiểu đây có phải trại lính do người Nhật xây nên nữa hay không? Ai lại ăn no rỗi hơi xây một tòa nhà không có phòng ốc gì thế này. Đây rõ ràng là một cục xi măng sắt thép chẳng có tác dụng gì cả.

Đinh Tư Điềm đột nhiên hỏi: “Phải rồi, đồng chí Lenin ơi, mình nhớ bạn và Tuyền béo từng nói, ở chỗ các bạn tham gia lao động sản xuất ấy, có phong tục đặt đá trong nhà để trấn... trấn... ma quỷ phải không? Chỗ này... chỗ này... phòng nào cũng chất đầy những gạch đá, liệu… liệu có phải...”

Tôi và Tuyền béo cố ý nhại cái điệu lắp bắp của Đinh Tư Điềm, cười cười bảo: “Bạn… bạn... bạn... xem... sợ đến nói lắp rồi kìa. Đó toàn là những phong tục mê tín cổ lỗ sĩ, sao lại coi là thật được. Vả lại, trong nhà chôn đá trấn ma, là để người ta có thể yên tâm mà sống trong căn nhà ấy. Nhưng mỗi phòng trong tòa nhà này chất kín đặc gạch đá, đừng nói là người ở, đến một con giặc mắt to cũng không chui vào được, lẽ nào mấy người đó đều sống ở hành lang chắc? Làm gì có kiểu đá trấn tà trấn ma gì thế chứ? Làm thế này thì chi bằng dỡ mẹ nó cả tòa nhà xuống cho xong.”

Đinh Tư Điềm giận dỗi nói: “Các bạn đừng nhại mình nữa có được không, mình lo lắng thật mà, có lẽ tòa nhà này không thể dỡ đi được, bằng không sẽ xảy ra chuyện gì đó rất khủng khiếp, chỉ có thể dùng gạch đá chất đầy bịt kín các gian phòng lại...”

Tôi nghĩ bụng trí tưởng tượng của Đinh Tư Điềm phong phú quá đi, phải “chủng ngừa” cho cô nàng một mũi mới được, cứ nghi thần nghi quỷ thế này thì nhất định không thể cầm cự qua được đêm nay. Nghĩ đoạn, tôi bèn tiện tay rút ra cuổn sách Đỏ, dõng dạc nói với cô: “Chúng ta đi theo vầng hồng tiến lên phía trước, nếu có kẻ thù giai cấp gì đấy muốn mượn xác hoàn hồn, thì đấu tố cho chúng nó một trận.”

Tuyền béo cũng chõ mồm vào: “Đúng thế, không chỉ đấu tố cho chúng nó một trận, mà còn giẫm đạp một nghìn một vạn phát nữa, cho vĩnh viễn không thể ngóc đầu dậy..., nhưng mà nói đi thì phải nói lại, tôi cũng cảm thấy tòa nhà này đúng là không được ổn cho lắm, cứ như một cái quan tài bằng xi măng cốt thép ấy.”

Tôi thấy đến cả Tuyền béo giờ cũng không còn vững dạ nữa, e rằng tòa nhà cũng có chút tà môn thật, có trời mới biết là xây lên làm quỷ gì. Kỳ thực, trong lòng tôi cũng rất run, nhưng người có thể ngã chứ thể diện không thể mất, phải tìm cách xuống nước mới được, nghĩ đoạn bèn nắm chặt cuốn sách Đỏ nói: “Chúng ta tuy chẳng hề sợ hãi bọn đế quốc xét lại và phản động hung hăng càn quấy, nhưng nơi này bốn phía không thông gió, cửa rả đều bít kín mít, không gian chật hẹp bức bối, có khác nào đường hầm lúc nhúc chuột đồng ngoài kia, tôi thấy chi bằng chúng ta ra bên ngoài qua đêm mới là thượng sách.”

Những người còn lại đều tỏ ý tán đồng, thật ra cũng chẳng ai muốn ở lại trong cái cục xi măng trông như hộp chứa hài cốt hôi hám này thêm nữa, vậy là cả bọn liền quay ngược trở lại chỗ cánh cửa. Nhìn thấy hai ô cửa sổ nhỏ trên cánh cửa tôi mới nghĩ, chắc cả tòa nhà này chỉ có ô cửa sổ trên cửa lớn là thật, từ bên ngoài nhìn vào chỉ thấy một vùng tối om om, từ bên trong nhìn ra cũng thấy tối đen như mực nốt.

Tôi đưa tay định đẩy cửa, bỗng một tràng những tiếng “bình, bình, bình” từ bên ngoài vẳng vào, như thể có người gõ cửa, tiếng động không lớn lắm, nhưng vang lên giữa đêm thanh vắng thật khiến người ta kinh tâm động phách. Tôi giật nảy mình, cánh tay đang giơ ra đẩy cửa rụt ngay về. Khu động Bách Nhãn này hiếm dấu chân người, cả bốn chúng tôi đều đang ở đây, thế thì ai đang gõ cửa ngoài kia nhỉ?

Có điều, tiềm thức nói với tôi rằng, điều này tuyệt đối không thể, hai cánh cửa này đâu có khóa, chỉ đẩy khẽ một cái là mở ra rồi, ai muốn vào đây căn bản không cần phải gõ cửa, trừ phi đó không phải là người? Nghĩ tới đây, trán tôi bắt đầu thấy mồ hôi ròng ròng chảy xuống, xem chừng có những chuyện không tin cũng không được mất rồi. Vừa nghĩ, tôi vừa bất giác lùi lại mấy bước.

Ba người ngơ ngác nhìn nhau, đều không dám lên tiếng. Tiếng gõ cửa bên ngoài ngưng lại một chút, tựa hồ đang đợi hồi đáp, rồi lại vang lên ba tiếng “bình, bình, bình”, tiếng sau liền với tiếng trước, như thể đang cố ý giày vò dây thần kinh căng thẳng như dây đàn của chúng tôi. Tuyền béo sợ hãi giật thót cả người, nhưng tính cách cậu ta là không bao giờ để lộ ra mình sợ hãi, không ngờ lại lấy hết can đảm, cất tiếng gắt gỏng quát lên: “Ai đấy? Đừng có mà gõ nữa, trong này không có ai đâu!”

Tiếng gõ bên ngoài lập tức im bặt, chúng tôi ở trong nhà đều dỏng tai lên lắng nghe, khoảnh khắc ấy dường như cả không khí cũng đông đặc lại, tĩnh lặng đến độ dù chỉ một sợi tóc rơi xuống cũng có thể nghe thấy rất rõ ràng. Nhưng bầu không khí tĩnh lặng ấy chỉ kéo dài được chưa đến ba giây, tiếng gõ cửa “bình, bình, bình” lại vang lên lần nữa.

Dây thần kinh của tôi nảy bật lên, bỗng sực nhớ ra hồi canh lâm trường, cũng từng gặp phải chuyện nửa đêm ma gõ cửa thế này, lần đó chắc chắn là do lũ hoàng bì tử giở trò. Nghĩ tới chuyện ấy, tôi lập tức không thấy sợ nữa, máu xông lên não, liền rút phăng cây bảo đao Khang Hy ra, xông lên trước, định giơ chân đạp bay cửa ra, thử xem xem rốt cuộc là cái thứ mẹ gì đang giở trò.