Luyện dược không phải dễ như ăn cơm. Đại Hùng tiến hành hợp đan hai mươi sáu lần, đều là thất bại.
Những viên đan dược chỉ cần quá lửa một chút, nếu không rã thành bột thì cũng cháy đen như than. Viên đan nào khá khẩm hơn lại bị nám nhiều chỗ, vỏ ngoài bong tróc, dược cao trong nhân từ xanh lục đổi thành vàng xám, dược tính hầu như hỏng hết. Chín lượng bạc dược tài trong một canh giờ chỉ còn bốn lượng. Nếu không phải gần đây có nhiều tiền, hắn đã khóc ra nước mắt. Đó là một tuần lương của hắn a.
Liên tục xoay vỉ sắt trên bếp lò, tay Đại Hùng đã tê cứng. Gương mặt vì ngồi cạnh lửa lâu mà đỏ ửng, mồm miệng khô khốc. Hắn không thể làm gì hơn là về phòng nghỉ ngơi.
Ngủ thiếp đi một hồi lâu, lúc tỉnh dậy, Đại Hùng cảm thấy khỏe lên không ít. Hắn cũng không vội đi luyện dược tiếp. Loại việc đòi hỏi kiên nhẫn và tập trung đầu óc cao như vậy, hắn chưa quen nổi.
Đại Hùng ra vườn sau cuốc lại mấy luống rau, hái vài quả ổi mỡ, rồi thong thả vừa buông câu cạnh ao, vừa gặm ổi.
Bất giác, hắn mơ màng nghĩ đến Giáng My. Số tiền hắn tặng dư sức để nàng trả phí săn tin. Không biết cô nương ngốc nghếch đó đã tìm được sư phụ mình chưa. Đại Hùng lắc đầu cười. Chỉ mong nàng sớm được toại ý. Tuy quen biết trong tình cờ, nhưng nàng cũng để lại cho hắn nhiều ấn tượng tốt. Hắn thật mong nàng không gặp bất trắc gì thêm.
Quanh quẩn một hồi, Đại Hùng lại nghĩ đến việc luyện dược. Hắn biết thuốc của mình khó luyện thành chủ yếu do quá trình khống hỏa. Trong dược kinh chỉ viết các bước tăng giảm nhiệt độ theo phân đoạn thời gian. Mỗi giai đoạn thay đổi nhiệt độ nhất định, bề mặt đan sẽ xảy ra những biến hóa vi diệu. Luyện dược sư canh vào những dấu hiệu này để nhận biết đan dược có luyện đúng phương pháp hay không. Khổ nỗi nhiệt độ chính xác là bao nhiêu để xảy ra biến hóa đó thì dược kinh không nhắc đến. Ài, cũng tại trên thế giới này không có máy đo nhiệt độ.
Cho nên Đại Hùng cũng chỉ còn cách chậm rãi mò mẫm. Mỗi giai đoạn luyện, hắn tăng dần độ lửa từ thấp tới cao, khi nào thấy hoàn đan bắt đầu xảy ra biến hóa thì ngừng tăng tiếp. Phương pháp này cũng không tệ đối với người tập luyện đan như hắn - ít nhất có thể hạn chế được sai sót. Mà mỗi bước đi đúng, hắn đều cẩn thận ghi chép ra giấy để rút kinh nghiệm.
Nhưng đan dược thành công còn đòi hỏi vài kỹ thuật phức tạp. Một số giai đoạn yêu cầu tăng giảm nhiệt độ rất nhanh. Chỉ xử lý chậm một chút là dược tính trong đan lập tức bị thoái hóa, vỏ đan và nhân đan bị hủy hoại. Luyện đan không đơn giản chỉ là đốt đan trong lửa.
Không nói đâu xa, ví dụ đơn giản hơn gấp trăm lần là việc luộc trứng gà. Khi luộc trứng, người ta thường luộc bằng lửa nhỏ. Luộc lửa to sẽ làm trứng bị vỡ, sùi lòng trắng ra. Luộc trứng cũng không được luộc lâu, nếu không vỏ đổi màu đục sậm, trứng biến vị, ăn không tốt. Khi luộc xong, phải thả trứng nhanh vào bát nước lạnh, làm cho vỏ trứng và lòng trứng tách khỏi nhau, dễ bóc (1). Việc luộc trứng còn nhiêu khê như vậy, huống hồ là luyện đan.
...
Bắt được mấy con rô to (2), tâm tình Đại Hùng khá thoải mái. Sau khi xách vào bếp để mẹ nấu, hắn ra ngoài thôn đặt một cái bếp lò đặc biệt, có cửa gió kéo mở được. Dùng miếng ván gỗ để chặn gió quả thực hơi bất tiện. Nhiều khi đang cần hạ nhiệt, đột nhiên mảnh ván bị lật ra, đan dược hỏng trong tích tắc. Chưa nói dùng mảnh ván che cửa gió cũng không được kín, nhiệt lửa canh không chuẩn.
Tiếp đó, Đại Hùng lại mua về một bao than đá to. Than hoa(3) cho lửa đều nhưng khó đượm, muốn có nhiệt độ cao, dùng than đá vẫn hơn. Than bùn cũng tốt nhưng hắn không dùng, chủ yếu vì lý do mùi hương. Bùn có mùi hôi, dùng luyện đan trực tiếp e ảnh hưởng tới cảm quan khi dùng thuốc.
Đại Hùng đổi than đá vào, lửa lò quả thật dễ điều khiển hơn. Tuy vẫn phải dùng lò cũ chế luyện, đan dược đã chậm bị hủy hơn rất nhiều.
Lại thêm một canh giờ nữa, mười bốn viên dược phẩm còn sót cũng không thoát khỏi cảnh cháy đen. Nhưng Đại Hùng không quá mức buồn phiền. Dù sao, nếu chỉ tốn chín lượng bạc mà đã có thể luyện thành thạo, Tùy Tiện dược sư đã không độc bá nổi trong thôn bao lâu nay. Mấy ngày nữa có lò mới, việc điều chỉnh lửa sẽ càng thuận lợi hơn. Đại Hùng vì thế càng thêm hy vọng.
Thu dọn mớ phế phẩm sạch sẽ, Đại Hùng đi chặt hai nhánh cây làm chạc đặt vỉ thuốc. Giữ tay trong không trung nhiều giờ liền làm cổ tay hắn như muốn bại. Bây giờ mới bắt đầu đã chịu không thấu, đến lúc đạt thành tựu, tay hắn có khi bị phế mất.Bắt chước cách người ta quay dê lợn, hắn thiết kế ra một lọai vỉ kẹp thuốc tương tự linh hoạt hơn.
Đại Hùng cũng không quên ghé qua kho kiểm tra mấy miếng da mãng xà đang hong khô. Sau khi về nhà một hôm, hắn đã lén xách Phong Vân Kiếm lên núi Đa lấy nốt số da còn lại. Hơn nửa da mãng bị độc thủy ăn mòn. Các chỗ khác thì thủng lỗ chỗ. Vì tránh chạm vào độc dịch và độc thủy, Đại Hùng chỉ cắt được thêm ba miếng da tạm gọi là lành lặn. Đây cũng là cực hạn của hắn.
Phong Vân Kiếm chế từ sừng ma thú cấp thấp, dù gia trì ma pháp, cắt da ma thú cấp cao vẫn tốn rất nhiều sức lực và thời gian. Qua mấy ngày, thịt mãng xà lại thối rữa, mùi thật kinh khủng. Thoát khỏi hầm đá nồng nặc “xạ hương” đó, Đại Hùng thở như chưa bao giờ được thở. Thật muốn hét to: “Không khí trong lành, ta yêu ngươi !!!”.
Bốn hôm sau, chiếc lò đặc chế mới về đến nhà. Đại Hùng lại tới tiệm thuốc của Tùy Tiện dược sư mua dược thảo. Lão dược sư hai mắt ti hí lạnh lùng nhìn hắn:
- Nghe nói ngươi định chế Phong Cốt Hoàn. Thế nào, thành công không?
Đại Hùng gãi gãi đầu cười:
- Còn chưa được. Đại sư, ngài luyện dược thật giỏi. Trong hai canh giờ, ta đã đốt hết nửa tiền lương tháng này.
Tùy Tiện vẻ mặt đắc ý, giọng nói cao hơn một chút:
- Đương nhiên. Muốn đi luyện dược còn phải hỏi tố chất ra sao. Ta luyện dược phẩm ba mươi năm nay mới có thể thành thục như vậy. Ngươi muốn làm được dễ dàng - chẳng khác gì nằm mơ nói mộng.
Thỏa mãn cảm giác của kẻ thành công hơn người một hồi, Tùy Tiện dược sư nhếch mép hỏi Đại Hùng:
- Hôm nay ngươi tới mua gì đây?
- Tiểu bối lại tới mua dược thảo.
- Sao? Còn chưa chịu bỏ?
Tùy Tiện thái độ coi thường, mặt có chút chế giễu.
- Tiểu bối vẫn muốn thử thêm. Tự tay làm ít thuốc tặng ông ngoại, chủ yếu là tâm ý.
Dược sư tính tình khó chịu, nhưng với chuyện tôn ti truyền thống cực kỳ coi trọng, giọng nói hòa nhã thêm ba phần.
- Ngươi muốn tỏ chút hiếu tâm - cũng tốt. Nhưng nghề luyện dược không phải ngày một ngày hai mà đắc đạo. Phong Cốt Hoàn là dược phẩm kiềm phong trung cấp, mới luyện sao có thể làm ra. Chi bằng ngươi thử luyện loại dược phẩm đơn thảo, nhị thảo (4), như vậy dễ dàng hơn.
Đại Hùng thực ra đã nhảy tắt. Cũng bởi vì cuốn dược kinh hắn cho là cơ bản kia, vốn chỉ cơ bản với tiên sư chế đan thôi. Còn so với luyện dược sư phổ thông, nó lại là dược kinh cấp cao. Phong Cốt Hoàn là đan dược dễ nhất trong dược kinh, thực tế, chỉ luyện dược sư phổ thông cấp trung mới bắt đầu dám luyện.
- Ông ngọai của tiểu bối hay nhức xương lúc trở gió. Chế loại thuốc này có ích cho ông ngoại hơn. Loại khác không có nhiều ý nghĩa.
- Ài, ta đã nói hết lời. Ngươi khăng khăng muốn thử thì tùy vậy. Lấy bao nhiêu suất đây?
- Đại sư lấy dùm dược thảo tươi đủ chế ba mươi suất.
- Chín lượng.
Cứ như vậy bốn năm hôm một lần, Đại Hùng lại tới tiệm của Tùy Tiện dược sư mua chín lượng bạc dược thảo. Trong vòng một tháng, hắn đã tiêu hết tiền lương tương đương ba tháng đưa thư. Với số tiền hiện có của Đại Hùng, hơn 60 lượng bạc không là gì, nhưng sự hoang phí đó khiến Tùy Tiện dược sư bội phục. Lòng hiếu kính của thằng nhóc này thật đáng trân trọng a. Đương nhiên, tiền của hắn càng đáng trân trọng hơn nữa.
.........
Cầm viên dược hoàn màu xanh trong tay, Đại Hùng nhất thời hưng phấn. Cả tháng trời luyện dược, cuối cùng cũng có thể cho ra được sản phẩm hòan chỉnh. Phong Cốt Hoàn, chủ dược là Hy Thiêm (5), cho nên dược hoàn không có mùi thơm mà còn hăng hăng cay, pha lẫn mùi đắng. Đây đúng là đặc điểm tiêu biểu của Phong Cốt Hoàn.
Dược hoàn do Đại Hùng luyện chế có sắc đậm hơn so với thuốc của Tùy Tiện dược sư. Theo dược kinh mô tả, như vậy dược tính mới phát huy được tối đa. Bởi vì dùng dược thảo tươi, tuy cực khổ hơn nhưng kết quả cũng được đền đáp.
Triền miên những ngày luyện dược, Đại Hùng cũng hơi thấm mệt. Nhưng sợ mất đi cảm giác linh thông đang có, hắn vẫn tiếp tục tiến hành hợp nốt số đan còn lại. Ngẫu nhiên lại có một vài viên bị hỏng, nhưng cách thức canh tính của Đại Hùng đã thuần thục hơn nhiều. Cuối cùng lượt thuốc này có mười tám viên đạt tiêu chuẩn, mười ba viên chỉ tạm được, chất lượng ngang với thuốc của Tùy Tiện dược sư, còn lại chín viên - dược tính quá thấp, xem như bỏ đi.
Đại Hùng muốn tặng ông ngoại những viên thuốc tốt nhất, vì vậy, ăn ngủ một trận lấy sức xong, hắn lại mua lượng lớn dược thảo về chế tiếp. Nắm được các bước chế luyện rõ ràng, các đợt luyện dược sau tỉ lệ thành công cao hơn hẳn. Qua ba đợt chế thuốc liên tiếp nữa, hắn đã có hơn trăm viên Phong Cốt Hoàn loại tốt, ba mươi viên loại thường, đạt tới chỉ tiêu đề ra. Mà làm xong số thuốc ấy, hắn cũng lăn ra ngủ không biết trời đất gì gần trọn một ngày.
.........
Buổi sáng những ngày tháng mười, gió lạnh rin rít thổi qua khe cửa. Sắc trời trong xanh của mùa thu đã chuyển thành xam xám. Những cây bàng loe hoe vài cái lá đỏ như ráng chiều, lạc lõng trên cành gỗ khẳng khiu. Con sông Long Tuyền nước dường như tối hơn, nhìn sâu thăm thẳm. Các thi nhân đều công nhận cuối thu là lúc phong cảnh buồn nhất, lòng người vì thế cũng hay lây lan cảm giác hiu quạnh chán chường.
Trong một trang viên tại Long Tinh Thành, có một người hôm nay không cùng suy nghĩ với các bậc thi nhân tiền bối. Lão gia Đức Phàn, ông ngoại của Đại Hùng, thoải mái ngồi thưởng thức một chén trà hoa cúc, sắc mặt hồng nhuận hơn cả lúc trời xuân. Những ngày này hàng năm đối với lão thường là những ngày khốn khổ. Mỗi khi tới mùa gió chướng, căn bệnh phong thấp lại ra tay hành hạ lão. Bệnh của tuổi già.
Những cơn đau nhức đó hằn in trong trí nhớ, đến mức nhắm mắt lại là lão tưởng tượng ra ngay được, nhất là khi nghe tiếng gió ù ù thổi ngoài kia. Để chống lại nó, thường lão sẽ mặc thêm lớp áo bông dày, tay chân đeo găng đi tất, ngăn cản không để gió chướng xâm nhập vào cơ thể. Nhưng việc này cũng không hiệu quả được là mấy. Lão không thể quấn kín toàn thân như xác ướp - mà chỉ cần hở ra một chút dù là mặt mũi, xương toàn thân lão sẽ bắt đầu đau. Cơn đau nhức len lỏi như giòi bọ, thúc vào khớp xương, đục khoét, nhói từng chặp. Xương chân, xương tay tê cứng, như ngâm vào nước băng. Các đầu xương tưởng chừng rời ra khỏi vị trí, rệu rạo, cót két.
Uống thuốc, châm cứu, bôi cao, cái gì lão cũng làm cả. Cơn đau có thuyên giảm, nhưng không hết, âm ỉ như dằm trong xương, muốn nhổ mà không lấy ra được. Khoảng thời gian giao mùa cuối thu, lão hầu như toàn trốn ru rú trong nhà.
Nhưng năm nay đặc biệt khác. Ngoại tôn của lão, Đại Hùng, bỏ công một tháng rưỡi liền chăm chỉ luyện chế hơn trăm viên Phong Cốt Hòan. Tuy chi phí bỏ ra đắt gấp sáu bảy lần giá thuốc ngoài tiệm, nhưng bù lại, hiệu quả khiến lão cười vui không dứt.
Phong Cốt Hoàn của Đại Hùng tặng lão - thuốc đến bệnh đi, không giống như Phong Cốt Hoàn lão thường mua đầy ngăn tủ. Ngay cả triệu chứng âm ỉ đau khó chịu kia cũng một hơi bay mất. Cảm giác này thật nhẹ nhàng thanh thoát, giống như mười năm đeo gông đột nhiên được gỡ ra khỏi người. Đứa cháu ngoại này trong mắt lão giờ đây hiếu thuận đến cực điểm. Thật không nhịn được phải khen ngợi mãi.
Trong lúc lão gia Đức Phàn gật gù thầm khen cháu, Tùy Tiện dược sư lại hớn hở thu mua đám thuốc thường của Đại Hùng với giá thấp đi một phần ba. Cái tên tiểu thần tài này khẳng định là bị điên rồi. Hắn bỏ ra hơn chín chục lượng liên tiếp mua thảo dược tươi của lão về tập luyện dược, đến khi đạt được thành công thì lại quyết định ngưng luyện, bán thành phẩm với giá bèo để đổi sang luyện chế loại dược phẩm khác. Mỗi lần luyện loại thuốc mới – lão biết – đều là một quá trình đốt tiền. Cứ như thế, lão hoài nghi nhà hắn có đủ tiền để hắn tập mãi hay không.
Nhưng thôi, lão không quản nhiều đến thế. Đại Hùng càng hoang phí như vậy, lão càng có thêm thu nhập. Mà lần này, Đại Hùng còn đổi sang luyện Thanh Phế Đan – một loại đan dược cấp trung khác, chuyên trị viêm phổi. Giá thảo dược chế loại này cao gấp đôi so với Phong Cốt Hoàn. Tùy Tiện dược sư cười tít hết cả mắt. Gã thiếu niên trước mặt nhìn bỗng lấp lánh như hoàng kim a.
............
Cứ như vậy, Đại Hùng ròng rã tập luyện đan. Đông qua, xuân đến, hạ vãn, thu tàn. Trừ lúc lên tỉnh đưa thư và vào Long Khí Đường luyện võ, còn lại hắn đều vùi mặt bên lò luyện. Mỗi loại đan dược hắn chế ra khoảng 100 viên loại tốt liền dừng lại, chuyển sang tập loại mới. Thảo dược một số cây Tùy Tiện dược sư không có bán, hắn chạy vào Long Tinh Thành tìm tiệm lớn mua. May mắn Long Tinh Thành gần Hoàng Liên Thánh Lĩnh, dược thảo hầu như không thiếu, so với nơi khác cũng rẻ hơn nhiều.
Đại Hùng bây giờ luyện rất vội. Từ lúc nghe Tùy Tiện dược sư nói Phong Cốt Hoàn là dược phẩm trung cấp, hắn đã lờ mờ đoán ra dược kinh này cao cấp hơn mấy cuốn phổ thông khác rồi. Điểm quý nhất của dược kinh này là nó có ghi những kinh nghiệm cùng chú thích của sư phụ Giáng My. Đây toàn là những thứ có tiền cũng không mua được. Trước khi trả lại cho nàng, hắn phải tranh thủ học càng nhiều càng tốt. Phải nói thêm, cuối năm sau hắn sẽ thi vào nội đường Long Khí Môn. So với luyện đan, học tu thuật mang ý nghĩa quan trọng hơn nhiều.