[Thiên thời địa lợi]
Trong Ngự hoa viên, Triệu Trinh đang khoanh tay đứng cùng với đám thiếu niên mới mười mấy tuổi đầu, gồm Bao Duyên, Bàng Dục, Âu Dương Thuần Hoa, Triệu Lan, Vương Kỳ và Qua Thanh.
Bao Duyên ngồi bên bàn đá, trên tay là tờ cầm phổ, đang xem rất chăm chú.
Bàng Dục ôm một cây cửu huyền cầm vừa mới mượn từ chỗ Thái hậu đứng bên cạnh nhìn. Ban nãy Triệu Trinh đột nhiên kêu Bàng Dục và Bao Duyên đến chỗ Thái hậu mượn đàn, giờ mới vừa về đến nơi, lại còn được Thái hậu cho thêm một khay quýt ngọt nữa.
Triệu Trinh đi lại trong sân, đám thiếu niên thì vây quanh bàn bóc quýt ăn.
Nam Cung Kỷ dẫn Ngô Mai và tám người kia đến, vừa mới vào đến Ngự hoa viên thì thấy ngay cảnh này.
Bao Duyên đặt tờ cầm phổ xuống bàn, tay bắt đầu dạo phím đàn. Tiếng đàn khoan thai chậm rãi, nhịp điệu rất kỳ lạ, lúc thì du dương sâu lắng, lúc lại loạn xạ bất an, nhưng nếu nghe kỹ thì vẫn phát hiện ra một quy luật nào đó, khi nghe nhiều rồi còn cảm thấy khá hay.
Bàng Dục và Âu Dương Thuần Hoa cảm thấy khó nghe chết đi được nhưng Triệu Lan và Vương Kỳ lại cảm thấy rất có ý vị, chỉ riêng Ngô và và tám người kia là thấy vô cùng khiếp sợ mà thôi.
Ngô Mai nói: “Đây là bản nhạc mà Mạch đại nhân thường đàn…”
“Giai điệu này rất đặc biệt.” Bao Duyên là đại tài tử nên đương nhiên là có nghiên cứu về đàn, hắn vừa thử đàn mấy nốt đã cảm thấy có chút mất tự nhiên. “Loại đàn tốt nhất để có thể đánh được bài này không chỉ là cửu huyền cầm, mà dây đàn còn phải cong nữa.”
“Cong sao?” Triệu Lan tò mò. “Có cả loại đàn này à?”
“Cây đàn của Mạch đại nhân cũng có dây cong, không giống với loại đàn mà người Trung Nguyên hay dùng.” Ngô Mai vừa nói xong thì có tiếng nói từ tốn tiếp lời. “Loại đàn đó có tên đàn đuôi cá, cả cây đàn được chế tạo theo hình đuôi cá, dây đàn cứng hơn dây đàn thường, tiếng đàn cũng vang hơn nên lúc gảy đàn cần dùng lực tay rất mạnh. Loại đàn này rất thích hợp khi đàn trên mặt nước, tiếng đàn sẽ thay đổi theo những dao động của mặt nước.”
Mọi người nhìn sang thì thấy người vừa nói chính là Ân Hậu. Không biết ngài đã đến hoa viên từ lúc nào, giờ đang tựa vào giả sơn mà trêu chọc con bạch khổng tước.
Tất cả mọi người đều vô thức nhìn về phía con khổng tước kia, nhất là Triệu Trinh…
Cái con Khổng tướng trắng này là con khổng tước trắng duy nhất trong số hai mươi con khổng tước trong hoàng cung, dáng vẻ nó vô cùng đẹp đẽ, tên là Thiên Duyệt, nhưng mà tính tình nó cực kỳ khó chịu. Trước đây Triệu Trinh đã từng nghe Nam Cung nói hình như Thiên Duyệt rất thích Ân Hậu, không những chủ động lấy long ngài mà khi ngài nói nó là con chim ngốc nó còn thấy hạnh phúc nữa… Thì ra quả nhiên là thật. Bình thường Thiên Duyệt rất lạnh lùng, vậy mà hôm nay đã bay đến núi giả từ bao giờ chẳng rõ, đã thế còn để mặc Ân Hậu sờ đuôi, còn cúi đầu thật thấp cho ngài xoa đầu nữa.
Triệu Lan bưng chén trà đến kính Ân Hậu, vừa nịnh bợ vừa tò mò hỏi. “Ân Hậu biết cây đàn này, đã từng nghe khúc nhạc này rồi ạ?”
Ân Hậu đón chén trà, lắc đầu nói: “Không phải, nhưng mà trước đây ta từng thấy loại đàn này rồi, là đặc sản của nước Tây Lưu, Thiên Tôn gọi là đàn nghiêng.”
“Nước Tây Lưu?” Bàng Dục tò mò. “Đâu vậy ạ?”
Bao Duyên sờ cằm. “Trong sách có nói nước Tây Lưu nằm trên biển cùng với nước Đông Lưu. Người dân nước Đông Lưu bình dị nhã nhặn, người dân nước Tây Lưu lại hiếu chiến vô cùng. Hai nước từng một lần phát sinh hải chiến, vì nước Đông Lưu có quan hệ rất tốt với nhà Đường nên nhà Đường đã từng phái binh trợ giúp, đánh bại nước Tây Lưu. Sau đó nước Tây Lưu đã bị thiên tai giáng xuống, gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, cuối cùng trở thành thuộc quốc của Đại Đường. Thời đại loạn Mạt Đường, nước Tây Lưu thoát khỏi Đại Đường, thừa cơ hội thâu tóm nước Đông Lưu, trở thành một quốc gia lớn mạnh. Đến khi nước ta bắt đầu ổn định thì nước Tây Lưu đã vô cùng cường thịnh rồi. Nhưng không hiểu tại sao quốc gia này lại biến mất trên sử sách, vào khoàng ba mươi năm trước cả quốc gia này cũng biến mất luôn…”
Mọi người cau mày. “Ba mươi năm trước sao?”
Lúc này Triệu Trinh bỗng cười, nói: “Ba mươi năm trước, nước Tây Lưu đã từng dẫn theo thủy quân hùng mạnh đến tấn công Đại Tống ta.”
Mọi người giật mình.
Bao Duyên cũng nghi ngờ. “Không thấy ghi chép lại! Nếu lúc đó xảy ra trận hải chiến quy mô lớn như vậy thì với thực lực thủy quân của chúng ta thời đó, không thể có chuyện chiến thắng mà không có chút thương vong nào được…”
Triệu Trinh gật đầu. “Trẫm cũng chỉ nghe Trần công công kể lại mà thôi, rất nhiều người không biết cuộc hải chiết đó vì quân Tống chẳng tốn một binh một thuyền nào mà toàn bộ quân thuyền của nước Tây Lưu đều bị tiêu diệt cả. Nước Tây Lưu tổn thất nặng nề, hoàng đế nước họ cùng mười mấy đứa cháu, cộng thêm hơn nửa quan viên, đa phần là võ tướng, đều bỏ mạng ở trận chiến này nên sau đó họ phải đưa một chất tử đến cầu hòa.”
“Chất tử?” Bao Dục gãi đầu. “Hình như đã đọc qua trong sách rồi.”
“Sau đó xảy ra chuyện gì ạ?” Bao Duyên rất hứng thú với chiến dịch năm đó. “Tại sao lại có thể đại thắng như vậy ạ?”
Triệu Trinh nhìn Ân Hậu. “Bởi vì người nước Tây Lưu không hề biết rằng tất cả khu vực bờ biển năm đó đều không phải địa phận cai quản của quân Tống, mà là địa bàn của liên minh Hà bang, cũng coi như là… là…”
Mọi người thấy Triệu Trinh cứ lấm lét nhìn Ân Hậu nên cũng quay qua nhìn ngài.
Ân Hậu cười. “Là của Giang đồn Hoàng Nguyệt Lâm.”
Mọi người sửng sốt.
“A! Hoàng di ạ?” Bao Duyên vỗ tay. “Đúng vậy, vì một lần đánh đắm đội chiến thuyền quy mô lớn nên Giang Đồn Hoàng Nguyệt Lâm mới mất tích, thì ra là diệt chiến thuyền của nước Tây Lưu ạ?!”
“Sử sách cũng không ghi lại chuyện này.” Triệu Trinh gậy đầu ra hiệu cho Trần công công kể tiếp.
“Năm đó Tiên hoàng cũng rất lo lắng chuyện hải chiến với nước Tây Lưu, chẳng ngờ quân ta còn chưa xuất chiến thì chiến thuyền của địch đã bị đánh chìm rồi.” Trần công công nói. “Lúc đó Tiên hoàng nghĩ mọi cách để dò hỏi mới biết được là do người của Hà Bang Thủy Minh làm. Đến tận bây giờ lão nô vẫn không thể quên được phong thái của Giang Đồn Hoàng Nguyệt Lâm a…”
Mọi người đều giật giật – Mấy vị di nương của Triển Chiêu đúng là người nào cũng đáng sợ, bình thường sao có thể nhận ra họ có lai lịch lớn như vậy chứ. Đặc biệt là Hoàng Nguyệt Lâm, béo núc ních, mắt lại kém nữa.
Ân Hậu cũng hơi tò mò, hỏi. “Năm đó nó nói gì với Tiên đế?”
Trần công công nói: “Sau khi trận chiến đó qua đã lâu, Tiên hoàng cố ý tìm Giang Đồn xem nàng có cần giúp đỡ gì không, còn bảo là nàng có công bảo vệ quốc gia, muốn trọng thưởng cho nàng…”
Vừa nói lão công công vừa che miệng cười. “Lần đầu tiên lão nô thấy có người không nể mặt Tiên đế như vậy. Năm đó Hoàng cô nương trông cũng chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi mà thôi, trông chỉ như một nha đầu béo mà hào khí lại ngút trời! Nàng nói nàng chẳng hề bảo vệ quốc gia gì hết, nàng chỉ đánh lũ man di đến cướp địa bàn của nàng mà thôi. Khu vực duyên hải là địa bàn của Thủy Minh nàng, còn có mấy vạn dân chúng phải dựa vào nó mà kiếm sống, dám đến cướp địa bàn của nàng, mặc kệ đó là Đông Lưu hay Tây Lưu gì gì đó, đều phải làm mồi cho cá hết.”
Mọi người nhìn nhau – Qủa nhiên là hợp với tính cách của Hoàng Nguyệt Lâm.
“Nhưng mà sau đó Hoàng cô nương còn đòi Tiên đế ban một đạo Thánh chỉ, yêu cầu Tiên hoàng cam kết bảo vệ ngư dân và người của Hà Bang Thủy Minh yên ổn làm ăn, sau này dù muốn bình định hải tặc cũng không được làm tổn hại đến đời sống của nhân dân…” Trần công công lắc đầu. “Sau trận thắng đó thì Hoàng Nguyệt Lâm cũng biến mất.”
Triệu Trinh cười. “Đòi thánh chỉ rồi lại biến mất, chắc là kế sách của Gia Cát Lữ Di.”
Ân Hậu gật đầu. “Sau khi đánh giặc xong, Nguyệt Lâm và tiểu Di đến Ma cung.”
Triệu Lan khó hiểu. “Di di đánh giặc lập bao công lao như vậy thì sao lại phải trốn chứ? Còn không trọng thượng cho di di nữa.”
Triệu Trinh nhìn Triệu Lan, bất lực lắc đầu.
Bàng Dục ở bên cạnh khoanh tay nhìn Triệu Lan. “Ta nói này, ngươi có phải là hàng nhặt về không thế? Lại có người hoàng tộc thật thà như ngươi sao?”
Triệu Lan trừng Bàng Dục.
Triệu Trinh cười nhạt. “Mặc dù trên bờ Hoàng Nguyệt Lâm chỉ là một người giang hồ bình thường nhưng khi xuống nước lại có thể địch thiên quân vạn mã. Với tính cách của phụ hoàng ta, hoặc là kéo về phe mình, hoặc là tiêu diệt đề trừ hậu họa… Trong Ma cung hẳn là có đến một nửa trốn đi cũng vì nguyên nhân này. Những người quá giỏi thì càng khó tìm được ngày tháng bình yên.”
“Vậy… ca khúc này có liên quan gì đến Mạch đại nhân này đây?” Tất cả đều quay sang nhìn Triệu Trinh.
“Vị chất tử mà nước Tây Lưu đưa đến làm con tin họ Mạch, vì hầu hết các hoàng tử đều đã chết trong trận hải chiến kia nên họ phải tìm một người duy nhất có tư cách kế thừa hoàng vị ở các chi trong họ đưa đến.” Triệu Trinh nói. “Nhưng mà hắn cũng khá an phận, thường thích đánh đàn, đã tưng làm cầm sư trong cung. Bình thường hắn thích đàn khúc nhạc này, mà người mà Trẫm và Cửu thúc biết chính là nhi tử của hắn.”
“Nhi tử?” Mọi người tò mò.
“Nếu Trẫm nhớ không nhầm thì hắn tên Mạch Lặc, một cái tên rất kỳ quái. Hắn bằng tuổi Cửu thúc, năm đó mới chín tuổi. Mặc dù bên ngoài hắn có vẻ khúm núm nhưng cả Trẫm và Cửu thúc đều tin rằng hắn đang đóng kịch.” Triệu Trinh nói. “Lúc đó phụ hoàng định thả họ về, hơn nữa người nước Tây Lưu còn lại rất ít, Mạch Lặc còn tỏ ra yếu đuối nên mọi người đều nghĩ hắn sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu.”
“Tất cả con tin chẳng phải đều phải giả vờ yếu đuối sao?” Bàng Dục hỏi.
“Nhưng vẫn phải xem người đó đóng giả có giống hay không.” Triệu Trinh nói. “Mạch Lặc đóng kịch rất đạt, chỉ tiếc là trước khi hắn đi đã bị Cửu thúc thử ra.”
“Thử?” Ân Hậu tò mò. “Thử thế nào?”
“Đánh cờ.” Triệu Trinh nói. “Cửu thúc đánh cờ có thể phát hiện dã tâm của hắn, cũng thành công khơi dậy lòng háo thắng của hắn, còn kết thù với hắn nữa.”
“Đánh cờ mà kết thù sao?” Bao Duyên không hiểu. “Vương gia thắng đậm hắn ạ?”
Bàng Dục bĩu môi. “Dù ngoan độc đến đâu cũng chẳng phải chỉ tranh giành có mấy quân cờ đen trắng thôi sao? Vậy mà cũng gây thù chuốc oán được nữa?”
“Vậy thì còn phải xem phải hạ cờ thế nào.” Ân Hậu từ tốn nói. “Tiểu tử Triệu Phổ quả thực có khả năng chọc người ta nổi giận.”
Triệu Trinh khẽ mỉm cười. “Trên đời này chỉ có mình Trẫm là người duy nhất đảm bảo sẽ không trúng chiêu của Cửu thúc.”
Mọi người liếc Triệu Trinh, thấy dáng vẻ đắc ý của hắn đều cảm thấy kẻ “muốn ăn đập” nhất sau Triệu Phổ trên đời này cũng chỉ có Triệu Trinh mà thôi.
“Rốt cuộc là thế nào ạ?” Bao Duyên vẫn là một đứa trẻ thành thật, rất tò mò.
Triệu Trinh nói. “Năm đó cha của Mạch Lặc bị bệnh, nói trước khi chết muốn về cố hương, mà năm đó Mạch Lặc còn rất nhỏ nên phụ hoàng đồng ý thả họ về. Hôm đó, khi lão Thừa tướng nói chuyện này ở Ngự hoa viên, đúng lúc Trẫm và Cửu thúc đi ngang qua, phụ hoàng rất thích xem Cửu thúc đánh cờ, bèn hỏi Mạch Lặc xem hắn có biết đánh cờ không, bảo hắn và Cửu thúc cùng hạ một ván.”
Mọi người hiểu rõ. Tiên hoàng bản tính đa nghi, chắc là một thử xác nhận lại lần cuối trước khi thả họ đi xem Mạch Lặc này có thể trở thành mối họa lớn sau này hay không.
“Hạ cờ kiểu này rất khó.” Vương Kỳ nói. “Nếu cố ý thua sẽ bị nói là trong lòng có mưu đồ bất chính, nếu thắng lại thành thả hổ về rừng, mỗi bước đi đều phải cẩn thận vì bất cứ lúc nào cũng có thể gây họa sát sinh.”
Tất cả mọi người đều gật đầu.
Triệu Trinh lại phẩy tay áo, nói. “Nói thật, lúc đó Trẫm cũng có mặt, chỉ cảm thấy chẳng qua phụ hoàng đang đùa giỡn mà thôi. Khi để cho hai đứa nhỏ hạ cờ, thay vì nói phụ hoàng thử Mạch Lặc thì nên nói phụ hoàng thử Cửu thúc mới đúng.”
Mọi người không nhịn được mà sờ cằm. Cũng đúng, lúc đó sức khỏe của Tiên hoàng đã không tốt, thay vì lo lắng Mạch Lặc thì lo lắng xem Triệu Phổ có thể uy hiếp đến hoàng vị của nhi tử hắn hay không đúng là thiết thực hơn nhiều.
“Vậy Triệu Phổ làm thế nào?” Ân Hậu cũng tò mò.
Triệu Trinh dở khóc dở cười. “Mọi người cũng biết khi đánh cờ Cửu thúc xấu xa đến thế nào rồi đấy.”
Mọi người nhìn trời. Triệu Phổ bản chất đã là một tên vô cùng háo thắng. Nhưng bình thường đâu thể tìm ai đó đòi đại chiến ba trăm hiệp chứ, mà người bình thường cũng đâu thể nào chịu được cách đánh của hắn. Cho nên, khi đánh cờ Triệu Phổ giống hệt như đánh trận trên chiến trường, ngoại trừ mưu kế thâm sâu còn rất bá đạo, thậm chí còn bá đạo hơn cả lúc đánh giặc thật nữa. Khi đánh cờ, Triệu Phổ không chỉ muốn thắng mà còn phải đánh cho đối phương một mảnh giáp không còn nữa, nói chung là tính cách xấu đến độ người ta chẳng thèm đánh với hắn lần sau nữa. Phong cách đánh cờ của Công Tôn tốt hơn hắn nhiều, khả năng đánh cờ cũng rất giỏi, nhưng vì quá thành thật nên thường bị Triệu Phổ trêu chọc đến độ muốn lật bàn. Mỗi khi hai người này đánh có đều thấy kết cục Công Tôn giơ cả bàn cờ mà đập đầu hắn, khiến quân cờ bay tán loạn khắp nơi. Người có thể đủng đỉnh đánh cờ với Triệu Phổ chỉ có Triệu Trinh… Bây giờ nghĩ lại, xem ra vị Hoàng đế này luyện được tính cách nhẫn nại nhường ấy đều nhờ đánh cờ với Triệu Phổ từ nhỏ mà thành.
“Trên bàn cờ năm đó, Cửu vương gia giết cho Mạch Lặc không còn một giáp.” Trần công công cũng chứng kiến trận đấu năm đó, nhớ lại. “Nhưng mà sau khi Mạch Lặc nhận thua, Tiên hoàng vốn định thả hắn đi rồi… thì Cửu vương gia lại nói không được, hắn muốn đánh với Mạch Lặc lần nữa, hắn nói Mạch Lặc lừa người.”
Mọi người chau mày – Qủa nhiên là kiếm củi ba năm thiêu một giờ.
“Vậy sau đó thì sao ạ?” Bao Duyên hỏi.
“Sau đó đánh thêm lần nữa, Cửu thúc vẫn thắng, vẫn giết cho Mạch Lặc không còn manh giáp.” Triệu Trinh than thở. “Phụ hoàng mắng hắn làm càn, không có lễ phép. Chẳng ngờ Cửu thúc vẫn không chịu thả người đi, vẫn đòi hạ cờ nữa, còn đòi đổi quân cờ với hắn ta, lúc đó còn nói nếu hắn không dùng bản lĩnh thực sự mà đánh thì đừng mơ rời khỏi hoàng cung.”
Ân Hậu đột nhiên rất hứng thú. “Triệu Phổ không phải loại người không quan tâm đến sống chết của người khác, bằng sự khôn khéo của nó, sao lại không chịu thả Mạch Lặc đi?”
“Chẳng qua là Cửu thúc cười nhạo hắn không có can đảm mà thôi.” Triệu Trinh cười nhạt. “Nếu nói đến nguy hiểm thì người cần phải giả vờ ngây ngốc hơn cả Mạch Lặc phải là Cửu thúc mới đúng. Lúc này phụ hoàng ở ngay bên cạnh mà Cửu thúc còn dám thẳng tay phân rõ thắng bại với Mạch Lặc, vậy mà Mạch Lặc lại cố tình khúm na khúm núm, Cửu thúc đang cười nhạo hắn vô dụng đấy mà.”
“Xem ra đây cũng là kích thích rất lớn với Mạch Lặc?” Vương Kỳ là người thẳng thắn, cảm thấy như vậy đũng là nỗi sỉ nhục lớn.
“Đến ván thứ ba thì Mạch Lặc không nhịn được nữa.” Triệu Trinh nói. “Hắn bắt đầu để lộ tính cách thật của mình… Lúc đó, sắc mặt của phụ hoàng rất tệ, mặt cha hắn cũng trắng bệch luôn.”
“Vậy kết quả thì sao?” Mọi người hỏi dồn.
“Mạch Lặc vẫn thua, nhưng Cửu thúc lại tiếp tục đánh với hắn ta thêm ba ván nữa.” Triệu Trinh bật cười. “Dù Mạch Lặc đã bộc lộ hết bản tính của mình nhưng vẫn thua triệt để, trông rất rầu rĩ. Đó là lần đầu tiên ta thấy được vẻ mặt khác của hắn ngoại trừ nụ cười luôn thường trực.”
Mọi người đều không nhịn được than, ngay từ nhỏ Triệu Phổ đã là Tu La rồi.
“Vậy mà Mạch Lặc vẫn đi được sao?” Bao Duyên hỏi.
“Ừ.” Trần công công gật đầu. “Lúc đó trong mắt tiên hoàng đã có sát ý rồi, nhưng Hoàng thượng vốn đang quan sát ở bên cạnh lại đột nhiên nói một câu.
Mọi người quay qua nhìn Triệu Trinh – Ngài nói cái gì?
Trần công công nhìn Triệu Trinh một cái.
Triệu Trinh nhún vai.
Trần công công cười nói. “Hoàng thượng kéo Cửu vương gia đi ăn cơm, nói: “Đều là quân vô cùng cả thôi, trên đường chỗ nào chẳng có, cần gì phải đánh lâu như vậy chứ!”.”
Tất cả mọi người đều híp mắt nhìn Triệu Trinh, như bảo – Thì ra kẻ đâm cho người ta một nhát chí mạng chính là ngươi!
Triệu Trinh dở khóc dở cười. “Trước hết, Trẫm nói thật mà thôi, đúng là kỳ nghệ của hắn rất tầm thường, bạn cờ của Cửu thúc rất nhiều, Bao tướng và Thái sư đều có thể đánh cả ngày với hắn…”
Mọi người nhìn nhau, Bao đại nhân thì còn hiểu được, không ngờ cả Thái sư cũng…
Bàng Dục sờ cằm nghiêng đầu. “Cha ta biết đánh cờ à?”
Triệu Trinh đỡ trán. Lớp vỏ bọc này của Thái sư đúng là… ngay cả thân nhi tử của hắn cũng nghĩ hắn là người ngu ngốc nữa.
“Sau đó…” Triệu Trinh nói. “Trẫm muốn nói những lời này cho phụ hoàng nghe, hắn có giết Mạch Lặc hay không trẫm không thèm để ý, chỉ cần đừng hại Cửu thúc là được.”
“Câu nói đó sao lại có thể gạt bỏ sát tâm của Tiên hoàng với Cửu vương gia được?” Vương Kỳ và Âu Dương Thuần Hoa đều là những tên ruột ngựa, không hiểu.
Bàng Dục bĩu môi. “Mặc dù Mạch Lặc không quá lợi hại nhưng cũng không phải gà yếu. Ý hoàng thượng chính là người như vậy rất nhiều, chỉ giết một mình Mạch Lặc là có thể bảo vệ giang sơn sao? Phải giữ lại Cửu vương gia có thể thắng tất cả bọn họ mới là mấu chốt bảo vệ giang sơn.”
Bao Duyên cũng gật đầu. “Ừ, hơn nữa dù Mạch Lặc có dùng toàn lực cũng không thể thắng Cửu vương gia, đây cũng coi như vật đảm bảo cho tính mạng của hắn… dù sao thì hoàng thượng đã biết được thực lực của hắn mới có thể yên tâm thả hắn về.”
“Theo tình hình bây giờ thì trước kia Mạch Lặc, tàn dư của nước Tây Lưu và phụ thân của Mạch Lặc hẳn là đã thông đồng với Bạch Cơ từ lâu rồi.” Bàng Dục khoanh tay. “Năm đó Triệu Phổ còn gây thù chuốc oán với Mạch Lặc, cũng đã tạo ra địch ý.”
Tất cả mọi người đều gật đầu, hành động của Triệu Phổ đúng là đã tỏ ra địch ý rồi.
“Sao lại không thù ghét được.” Triệu Trinh lạnh lùng nói. “Nước Tây Lưu đã hai lần có ý đồ người nước ta, năm đó toàn quân bị diệt chẳng qua là chuyện bất ngờ, ai mà nghĩ ra được lại xuất hiện một Hoàng Nguyệt Lâm và Hà Bang Thủy Minh hùng mạnh như vậy chứ? Chuyện này cũng có thể coi như trời cao phù hộ. Nhưng mà bây giờ, tuy Hoàng Nguyệt Lâm vẫn còn nhưng Hà Bang đã tan rã, số còn lại chỉ là những ngư dân bình thường và một số môn phái nhỏ, thủy quân lại mới thành lập chưa lâu, bọn chúng muốn chớp thời cơ này tấn công. Cho dù không phải là Mạch Lặc mà là bất cứ kẻ nào khác thì trận này vẫn cứ phải đánh.” Vừa nói Triệu Trinh vừa nhìn Ngô Mai và tám người kia. “Điểm khác biệt chính là, lần này nước Tây Lưu đã thông minh hơn rồi, biết mượn đao giết người, lợi dụng cừu hận của người Quần Đảo Bát Tộc đến gây chiến… Nhưng mà phần cừu hận đó cũng là âm mưu bọn họ bày ra.”
Triệu Lan cầm quýt, hỏi nhỏ Bàng Dục. “Nói mãi thì ra là Bạch Cơ xúi giục Tiên hoàng tiêu diệt bát tộc, sau đó Mạch đại nhân kia cấu kết với Bạch Cơ, lợi dụng những người còn sót lại của Bát tộc để tạo thành quân đội diệt Tống để báo thù cho tổ tiên hắn… Vậy mà nói báo thù cái gì, chẳng qua là lợi dụng người khác để tranh đoạt giang sơn mà thôi.”
Bàng Dục vội vàng ra hiệu co nha đầu này, ý bảo – Ngươi đừng có xát thêm muối vào lòng họ nữa, nói nữa họ tự vẫn bây giờ, cả mấy đời đều đi nhận giặc làm cha rồi.
Mà lúc này, người lúng túng nhất chính là Ngô Mai.
Mặc dù tám người kia không nói gì nhưng tám người đều tập trung một chỗ, trong lòng cũng có những biến đổi… Bà lão này nuôi lớn họ từ nhỏ, điều này là sự thật không thể chối cãi. Nhưng mục đích nuôi dưỡng họ là gì đây? Đây là mẫu thân hay là lang sói? Một khi sự thật được phơi bày thì tất cả cũng đều thay đổi.
Nam Cung hỏi Triệu Trinh. “Hoàng thượng, nếu đã biết thân phận của Triệu Trinh rồi thì có nên thông báo cho Vương gia không ạ?”
Triệu Trinh gật đầu, mọi người đều nhìn sang Ân Hậu.
Ân Hậu nhìn trời – Ngài lại phải làm chân sai vặt nữa rồi.
Mọi người còn đang nói chuyện thì có người đến báo là Bá Dương Vương đến Đại Lý Tự đầu thú, thành thật khai báo chuyện Tinh Nguyệt Lâu, Bạch Cơ và cả chuyện người của Tinh Nguyệt Lâu tàn sát đảo Ác Hồ. Người của Đại Lý Tự đã tập hợp thành một bản ghi chép trình lên Hoàng thượng xem.
Triệu Trinh cầm bản ghi chép xem xong cũng phải bật cười, lắc đầu ra hiệu cho người truyền tin lui xuống.
Nam Cung xem bản ghi chép mà Triệu Trinh đưa cho hắn, cau mày. “Bá Dương Vương đổ mọi tội lỗi cho những môn phái giang hồ là Tinh Nguyệt Lâu, Thiên Bảo Đường và Tứ Hà Bang cùng thuộc hạ của mình, đúng là đẩy sách tội lỗi a. Lại còn nói muốn tự mình ra tay thanh lý môn hộ, cũng phân ưu với Hoàng thượng nữa.”
Triệu Trinh lắc đầu mà chỉ Bàng Dục, cuối cùng lại phẩy tay, xoay người về thư phòng.
Mọi người chẳng hiểu mô tê gì, cùng nhìn Bàng Dục.
Bao Duyên khoanh tay hí mắt nhìn Bàng Dục – Ngươi có liên quan gì đến chuyện này hả?
Bàng Dục cũng nghiêng đầu không hiểu – Chuyện này là sao?
Trần công công than thở. “Nếu lần này Bá Dương Vương tự mình gánh chịu tất cả tội lỗi của những môn phái giang hồ và đám thuộc hạ của mình, người giang hồ rất có nghĩ khí, Bá Dương Vương lại đã già rồi thì chuyện này sẽ dễ giải quyết hơn. Dù sao thì bây giờ kẻ địch mạnh nhất chính là Mạch đại nhân kia, lúc này không phải là lúc thanh toán nợ cũ cho nên cách làm sáng suốt nhất cho Bá Dương Vương lúc này chính là giả bộ hồ đồ. Đầu tiên, Hoàng thượng có thể nể tình hắn trung thành với Tiên hoàng, cộng thêm tuổi tác hắn đã cao mà có thể xử nhẹ tay cho. Nhưng mà lần này hắn lại đổ tội cho đám người giang hồ và chúng thuộc hạ của mình như vậy, bọn họ nhất định nghĩ hắn là kẻ vong ân phụ nghĩa, sẽ cũng nhau chỉ chứng hắn, kết quả là lưỡng bại câu thương. Hơn nữa, chuyện này có liên quan đến người giang hồ nên nhất định sẽ làm càng lúc càng lớn, khiến tất cả mọi người đều biết cả, Hoàng thượng có muốn bảo vệ hắn cũng không được, nhất định Bá Dương Vương sẽ phải chết… Nếu hắn đã là trung thần thì cứ để hắn làm trung thần đi, tự mình gánh chịu tất cả những tội lỗi của Tiên hoàng luôn thể… Lần này xem ra hắn đã chơi hết mình rồi, chắc là bị người ta lừa.”
“Ai lừa hắn chứ?” Mọi người rất khó hiểu, người này cũng thủ đoạn ghê.
Trần công công nhìn Bàng Dục.
Mọi người cũng khó hiểu mà nhìn Bàng Dục, ý hỏi – Ngươi lừa hắn à? Thật có tiền đồ thế sao?
Khóe miệng Bàng Dục co giật kịch liệt, khoanh tay nhìn mọi người – Các ngươi ngu à? Ai mà có bản lĩnh đến độ có thể đùa bỡn Bá Dương Vương như thế chứ? Không những muốn hắn phải gánh toàn bộ tội lỗi lại còn biến hắn thành tên tội đồ bị chúng nhân phỉ nhỏ ngàn năm nữa? Đương nhiên là ông già nhà ta, vị Thái sư luôn giả mặt ngu ngốc kia rồi. Có khi lúc này lão Bá Dương Vương hồ đồ kia vẫn còn thiên ân vạn tạ công đức cứu mạng của Thái sư ấy chứ.
Ân Hậu đương nhiên hiểu rõ chiêu này của Thái sư rất cao tay. Đây mới đích thực là đỉnh cao của nghệ thuật nịnh hót ngấm ngầm chứ, không những vì quân phân ưu, còn không muốn quân phải lo lắng, quả nhiên là rất hiểu lòng vua a!
Triệu Trinh vốn rất khó xử, một bên là trung thần mấy đời, cho dù hắn ta có làm ra tội lỗi gì thì cũng không thể làm trái di huấn của Tiên hoàng xử chết hắn được. Dù mình có giao cho Bao Chưởng thì nhất định hắn ta cũng bị xử tử, nhưng như vậy sẽ khiến các lão thần khác dao động. Nhưng bên kia lại người của Bát Tộc, không giúp họ báo thù cũng không được. Cứ oan oan tương báo thế này thì đến bao giờ mới kết thúc được đây?
Ai mà ngờ được đúng lúc khó xử thế này lại đột nhiên vị “trung thần” kia lại nhảy ra nói: “Ta đáng chết, ta đáng chết a, để ta tự mình kết thúc tất cả ân oán này đi!” Triệu Trinh còn gì mừng hơn thế nữa chứ, cứ để Bá Dương Vương và đám người giang hồ kia tự mình thanh toán lẫn nhau đi, tốt nhất là đánh cho lưỡng bại câu thương để hắn ngồi tung lưới thu cả mẻ cả lớn là được rồi, càng dễ ăn nói với người của Bát Tộc và cả người trong thiên hạ nữa.
Mà chẳng cần đoán cũng biết, có khi Thái sư đã chuẩn bị ổn thỏa cả rượu độc và vải trắng cho Bá Dương Vương rồi cũng nên. Trước tiên cứ để Bá Dương Vương “lấy công chuộc tội”, giết hết đám người giang hồ kia đã, cứ để bọn chúng “chó cắn chó”, nháo tung cho toàn bộ người trong giang hồ đều biết cả đi. Cuối cùng hắn cũng chỉ còn mỗi con đường là tự mình chịu chết để xứng với cái danh “trung thần”, đỡ phải làm xấu mặt tổ tiên nhà hắn, khỏi thẹn với liệt tổ liệt tông mà thôi.
Nhờ thế, thù của bát tộc cũng báo xong, mà Triệu Trinh còn được tiếng là vua tốt, người của bát tộc cũng sẽ được bắt đầu một cuộc sống mới đầy ung dung tự tại ở Trung Nguyên, người người đều vui, nhà nhà đều sướng. Hơn nữa, Triệu Trinh lại chẳng phải làm gì, chỉ cần ở nhà rung đùi “cơm no rượu say” chờ tin tốt lành là được. Mặc kệ bao nhiêu thù hận, bao nhiêu máu đổ đầu rơi, cũng đâu phải là do hoàng đế hắn làm ra chứ, thiên hạ thái bình mới là điều mà Triệu Trinh hắn muốn có nhất đây này…
Thái sư quả nhiên là một thần tử tốt a! Ai làm hoàng đế mà chẳng muốn có một tên “gian thần ngu ngốc” như vậy bên người chứ?
Nhân tiện nói qua, Thái sư cũng rất sảng khoái nhá! Tên nào dám động đến nhi tử của hắn, hắn sẽ cho kẻ đó hồn phi phách tán, không chỗ dung thân! Bá Dương Vương kia cả đời là trung thần hả? Vậy cứ để cho hắn lần cuối làm trung thần luôn đi, tiện thể diễn hài kịch hiếu kính thiên hạ luôn vậy. Chiêu này đúng là quá độc, quá ngoan nha!
Mà lúc này người cười vui nhất có lẽ chính là Tiên hoàng đang nằm dưới lòng đất kia. Chọn thông gia này đúng là quá chuẩn, rất cưng con rể đấy nhá! Qủa nhiên, Bàng phi được sủng ái như vậy là có nguyên do cả, mà không chỉ có Triệu Trinh sủng ái nàng, ngay cả Thái hậu cũng vô cùng sủng ái nàng. Đâu còn cách nào khác nữa, ai kêu cha nàng lại giỏi giang như vậy chứ.
Ân Hậu vừa lắc đầu vừa đến phủ Sở Châu đưa tin cho Triệu Phổ, thuận tiện đến chơi với cháu ngoại đáng yêu của mình. Hoàng thành này, bất kể là thời đại nào đều là nơi ăn thịt người cả, chẳng thú vị chút nào.
Ân Hậu đến phủ Khai Phong, đem đại sư Vô Sa vẫn còn đang tụng kinh liệm phật trong linh đường ném đến hoàng cung để bảo vệ hoàng đế, mình thì dẫn theo Tiểu Ngũ, mượn thuyền hoa của Bạch phủ ung dung tự tại chạy đến phủ Sở Châu tìm cháu ngoại ngoan của mình.
Chỉ là, Ân Hậu vừa mới lên thuyền thì lại có tám người rơi xuống theo.
Thần Tinh Nhi và Nguyệt Nha Nhi cũng đi theo Ân Hậu xem náo nhiệt, rất tò mò nhìn tám người đột nhiên chạy đến đi cùng này.
Người đứng đầu tám người kia nói với Ân Hậu, họ cũng muốn đến Sở Châu.
Ân Hậu hỏi: “Đi báo thù à?”
Lão Tam lắc đầu. “Thủ hạ dưới trướng của Mạch đại nhân còn rất nhiều cô nhi của Bát tộc, đều là quân chủ lực giao chiến với Triệu Phổ lần này, hơn nữa vẫn còn rất nhiều trẻ nhỏ còn chưa lớn cũng bị bắt luyện võ.”
Ân Hậu gật đầu. “Hiểu rồi, chắc là cũng giống các người, trong người có độc.”
Tám người đều im lặng.
Ân Hậu nghĩ như vậy cũng tốt, tiện thể để Công Tôn giải độc cho họ luôn.
***
Lúc này, trên quân thuyền trên biển, Triệu Phổ mang toàn bộ suy đoán về Mạch đại nhân kia kể cho bọn Công Tôn nghe. Cha của Mạch Lặc là một cầm sư, lúc nào cũng ôm một cây đàn hình đuôi cá rất kỳ lạ, Triệu Phổ nhớ hắn đã từng đàn bản nhạc này.
Công Tôn đương nhiên đã từng nghe qua về nước Tây Lưu, hai người tính toán thời gian một chút cũng đã hiểu sơ sơ ngọn ngành rồi.
“Những cô nhi của bát đảo bên kia bị lợi dụng cũng rất nhiều, nếu cứ thế giao chiến với họ chẳng phải sẽ trúng kế Mạch đại nhân đó sao?” Công Tôn nổi giận. “Nói đi nói lại thì kẻ đáng ghét nhất chính là Bạch Cơ, đúng là hậu họa khôn cùng.”
Triệu Phổ biết Công Tôn vẫn lo lắng Bạch Cơ sẽ làm hại Tiểu Tứ Tử, bèn chọc hắn. “Yên tâm, lần này bắt sống lột da hắn luôn.”
Công Tôn hí mắt. “Nhất định!”
Triệu Phổ cười xấu xa. “Đương nhiên!”
Công Tôn nhìn Triệu Phổ thoải mái như vậy, chọc hắn. “Ta bảo này, ngươi đừng có khinh người ta từng thua ngươi đấy!”
Triệu Phổ vui vẻ, vòng tay qua bả vai Công Tôn, ôm hắn đi lên trước, đưa tay chỉ mặt sông. “Lão tử đánh giặc chẳng thèm quan tâm đối thủ là ai, điều khiến lão tử bất mãn nhất trước đây chính là, nếu bọn họ thực sự là những cô nhi của Bát tộc đến báo thù thì có vẻ như họ mới là người có lý còn lão tử thì không vậy. Nhưng bây giờ thì tốt rồi! Tên họ Mạch kia là phường bại hoại, đánh bại hoại lão tử thích nhất, ha ha ha ha!”
Trong boong thuyền bên dưới, Long Kiều Quảng ngẩng mặt lên thấy Triệu Phổ đang một tay ôm Công Tôn, tay kia chống nạnh cười ngứa mắt đến nỗi muốn đấm một phát vào mặt hắn mà bất lực than thở.
Công Tôn cũng cảm thấy điều cười này của Triệu Phổ đúng là quá bỉ ổi rồi.
Tiểu Tứ Tử khoanh tay ngồi ở phía sau, bất mãn nhìn Triệu Phổ và Công Tôn đã quên béng mất mình, còn Tiểu Lương Tử lại vô cùng sùng bái. “Sư phụ ta đẹp trai nhất! Đến vẻ mặt đê tiện cũng đẹp trai như vậy!”
Mấy ngày sau, đoàn thuyền hùng tráng của Thủy quân đã vào đến phủ Sở Châu, Trâu Lương dẫn người ra nghênh đón, hơn nữa còn mang đến cho Triệu Phổ một lễ gặp mặt – Đã bắt sống được Bạch Cơ rồi! Hơn nữa còn mang về được cả thuyền vàng bạc và long cốt của Hình Thiên Hào vẫn còn nguyên vẹn nữa.
Triệu Phổ sướng rơn… Đánh giặc phải như vậy mới được chứ, đúng là thiên thời địa lợi nhân hòa mà!