Ceasar ngồi ở vị trí gần cửa sổ, nhìn một gã mặc quân phục màu trắng dìu bà lão chống gậy đi vào khoang máy bay hình vuông, lúc này cửa khoang chính thức khép lại.
Tổng cộng hai hàng ghế ngồi lại chỉ có chưa đến hai mươi hành khách. Hành khách hôm nay rất ít, có lẽ vì có bão sắp đổ bộ vào bờ Tây.
Nữ tiếp viên xuất thân từ y tá bước vào khoang trước khi cửa khép lại, nói, “Mọi người không cần quá lo lắng về cơn bão. Chúng ta sẽ đến Oakland sau hai tiếng ba mươi phút nữa.”
Trước lúc đó, anh đã không uống ít hơn ba chai nước Evian. Chai cuối cùng bị anh xoắn chặt, ném vào khay nôn đặt dưới bàn ăn trong khoang.
Bà cụ ngồi đối diện trông thấy sắc mặt anh thì ân cần hỏi han, “Có muốn mở cửa sổ ra không?”
Anh miễn cưỡng cười lắc đầu, không nói gì.
Trong lúc nói chuyện, nữ tiếp viên cũng đi đến. Trên sàn không trải thảm nên tiếng giày cao gót vang lên rất sắc bén.
“Anh Maewell,” Nữ tiếp viên hàng không kiểm tra họ tên hành khách, chu đáo hỏi thăm, “Anh có gì không thoải mái sao?”
Cô ấy vừa nói vừa giơ tay lên, kéo cửa sổ mở ra. Đây là khoang máy bay gia áp đầu tiên của công ty Boeing, đi nhanh hơn nhiều so với máy bay chở khách của hãng hàng không Pan American thông thường. Thế nên cửa sổ được thiết kế rất nhỏ, gió chỉ có thể đi vào từ một lỗ thông khí
Cơn gió từ độ cao gần hai mươi nghìn feet bị dồn nén ùa vào, thổi tóc mái anh hất ra sau đỉnh đầu, để lộ gương mặt tái nhợt đầm đìa mồ hôi.
Nhưng trong khoảnh khắc ấy, tinh thần lại quay lại trong người anh.
Anh giống như một bệnh nhân trước lúc lâm chung, đột nhiên nhớ lại cuộc sống bình lặng của mình, nhớ lại mấy tiếng trước bản thân đã ra khỏi căn nhà kia như thế nào.
Vài mảng hồi ức rời rạc nhảy ra. Lúc trời vừa tờ mờ sáng, Thompson đi vào phòng, thu xếp lại số tiền mặt đủ để anh có thể quay về nơi nhung nhớ, tổng cộng là 1.400 đô la. Trong đĩa trứng gà luộc xuất hiện mấy miếng xúc xích, không phải là xúc xích kiểu Tây to chừng ngón tay, mà là xúc xích heo xông khói. Lúc đưa tiền mặt cho anh, trông Thompson có phần kỳ lạ. Hình như ông ấy lẩm bẩm nói, “Có phải chìa khóa két an toàn của ngài Arthur ở ngân hàng Hoa Kỳ là chiếc màu đỏ đồng không nhỉ?” Rồi ông ấy đi ra ngoài. Cho tới nay ông ấy chưa bao giờ lẩm bẩm điều gì.
Một khắc sau, anh đội mũ lưỡi trai màu đen và áo khoác Tropical cùng màu vào, được Lucinde khoác tay đi ra khỏi ngôi nhà lớn phủ đầy cây thường xuân, bước vào chiếc xe hơi đang đậu trong đêm, lái xe rời khỏi Long Island, thẳng tiến đến quận Queens… Mọi chuyện tiến hành rất suôn sẻ. Cứ như thể đang ở trong giấc mơ, anh gần như lái xe theo bản năng —— không bị đụng xe, tạ ơn trời đất!
Từ lúc ấy, ngoại trừ 1.400 đô la trên người ra thì anh gần như chẳng có gì, nhưng anh đã tự do rồi.
Anh thề với trời, anh sẽ lợi dụng sự tự do ngắn ngủi này để kiếm được tự do lâu dài hơn.
Anh giống như một con vật không mang trôi nổi trên mặt biển vì cạn kiệt ô-xi, hoặc là mãi mãi chìm xuống đáy biển, hoặc là vớt được cọc gỗ dưới ánh mặt trời. Chỉ cần một câu nói của cô là có thể quyết định cả cuộc đời anh. Anh tháo gỡ mọi lớp ngụy trang, mặc cô xẻ thịt… Đem lại nỗi đau cũng như hạnh phúc cho anh.
Có trời mới biết anh căng thẳng thế nào.
Chỉ cần nghĩ đến cô là tâm hồn luôn dao động, lại bất tri bất giác muốn mỉm cười.
Rèm cửa sổ được kéo lên, hành khách trên máy bay quay lưng về phía mặt trời mọc, chìm vào giấc ngủ ở độ cao 2.000 feet.
Tại mục tiêu thành phố San Francisco ở phía trước, một cơn bão thổi qua từ phía Đông Nam.
Bây giờ cô đang làm gì?
Quả nhiên cơn bão đến đúng vào ngày thứ năm. Bắt đầu từ buổi trưa ngày thứ năm, gió dần dần thổi mạnh, mọi trường học đều cho tan tầm sớm.
Cơn bão ập đến, không một cửa tiệm nào mở cửa. Sau khi tan học, Hoài Chân đội gió mưa chạy đi siêu thị một chuyến. Đồ trên kệ hàng gần như đã bị cướp sạch không còn gì. Đồ dư cũng giảm đi, Hoài Chân chỉ mua được hai túi bánh mì, một hộp trứng gà, hai bó cải trắng cùng một miếng xương sườn bò dài ba tấc rưỡi, tổng cộng hết 65 cent. Trong nhà còn ít rau cải tươi, dù nấu lẩu gân bò thì cũng đủ năm người ăn đến tối mai.
Lê Hồng mua một mười chai bia Olde English 800, lúc cả hai cưỡi xe đạp đi về phố Lombard thì gió đã rất lớn, vậy là hai cô đành một người đẩy xe, một người che dù chậm rãi đi về. Vừa tới nhà đẩy cửa ra thì bên ngoài là cuồng phong bão táp, còn trong phòng ngập tràn mùi thơm của canh xương sườn, khiến hai người mắc mưa ướt nhẹp gần như chảy nước mắt vì mừng.
Tối hôm qua đã làm xong thịt viên, Hoài Chân đem thịt vào bếp xắt mỏng thịt bò, đặt vào khay ướp với hành gừng nước tương. Seol Rae đứng cạnh rửa rau cải, Lê Hồng giã nát ớt đỏ và gừng theo lời dặn của Vân Hà, vắt thêm chanh rồi cho vào nước tương. Hai cô gái da trắng thì pha chế soda gừng, bạc hà và bia OE800.
Khi đưa mọi thứ lên bàn, gió bên ngoài càng lúc càng to, làm cánh cửa sổ rung lắc đập mạnh dữ dội. Mọi người đánh chén no nê, Hoài Chân và Lê Hồng đứng dậy đi tắm nước nóng, cởi bộ đồ dính mưa rồi khô trên người ra, thay sang đồ ngủ, lúc quay về thì mâm cơm vẫn còn đấy, còn các cô gái đang vùi mình trên sofa, bị bia nồng độ cao và hỗn hợp nước trái cây làm cho chếnh choáng, đề tài ở phòng khách tiến vào một cảnh giới mới. Các cô gái ở học viện Mỹ Thuật như đang thảo luận chuyện cơm bữa bình thường vậy – bọn họ đang nói đến chuyện trong trường ai ngủ với ai, ai ngủ với cha ai, ai bị giáo viên đánh ngã…
Cùng là học cấp ba, nhưng khi nhắc tới trường cấp ba công lập Công nghệ thì Hoài Chân chỉ có thể nói đến tác phong cứng ngắc của trường học và tổ giáo vụ, không thể so sánh với học viện Mỹ Thuật được.
Tình cờ có người nhắc đến chuyện Hoài Chân xem mắt, Hoài Chân nói, có lẽ ngày mai anh ta sẽ đến bấm chuông, các cậu ra mở cửa đừng quên ăn mặc tử tế đấy.
Các cô gái mới nói, chắc chắn ngày mai ở ngoài đường sẽ rất bừa bộn, bất kể là người nào, cứ mời anh ta quét sạch cành cây gãy trong sân đã, rồi mới để anh ta đi!
Gió bên ngoài có khuynh hướng càng lúc càng lớn, không biết bão đã tới hay là đi rồi.
Các cô gái nằm vắt vẻo trên ghế sofa, để Hoài Chân một mình ôm chăn từ trong phòng ra, phủ thêm cho mọi người.
Cuối cùng, cô trông thấy cái đầu rồng chống nước khảm răng cá mập vẫn còn đặt trên bệ cửa sổ, cô ngẫm nghĩ một lúc rồi đẩy cửa sổ ra, cầm chiếc ghế đẩu đi đến, dẫm lên nó trèo lên cửa sổ, cầm đầu dây diều buộc quanh tay cầm cửa sổ, sau đó ném đầu rồng ra ngoài.
Làm xong xuôi tất thảy, cô đưa tay đóng chốt cửa sổ lại.
Đúng lúc này cô lại nghe thấy tiếng phụ nữ hét lớn trong mưa gió. Thế nhưng cẩn thận lắng nghe thì lại không còn nữa. Hạt mưa đập lên cửa kính kêu lộp độp, cô ngước mắt nhìn lên, thấy con diều sặc sỡ kia như võ sư luyện tuyệt kỹ, đang bay lên giữa cuồng phong.
Trong chớp mắt ấy, cô bừng tỉnh nhớ lại, A Phúc từng nói, trong phong thủy Trung Quốc, diều đầu rồng răng cá mập có thể xua mưa trấn sát, nhưng sẽ gây bất lợi cho nhà ở đối diện. Mới đầu cô cảm thấy, ở đây toàn là người da trắng, sẽ không ai để ý đến chuyện này thật đâu. Nhưng rồi cẩn thận nghĩ lại, rồng Trung Quốc là tượng trưng cho thế lực tà ác trong thần thoại phương Tây, nếu có người nhìn thấy thì sẽ cảm thấy không vui.
Nghĩ đến đây, cô bèn giẫm lên ghế đẩu nhìn sang đối diện qua cửa sổ.
Đối diện không có người, cũng không có khách mới dọn vào ở.
Thở phào nhẹ nhõm, rồi bất giác trong lòng cô lại nặng nề.
Thì ra cô không muốn có người thay thế anh, chiếm cứ bất kỳ nơi nào thuộc về anh.
Bước xuống khỏi ghế, Hoài Chân thấy có lẽ mình uống nhiều rồi, bởi vì chóng mặt nên mới thấy vật nhớ người.
Tắt đèn vôn-fram quay về phòng, cô lảo đảo ngã xuống đệm giường, ôm chăn cuốn chặt nhưng vẫn không ngăn được cơ thể run lên.
***
Máy bay đáp xuống Oakland lúc rạng sáng, gió mạnh lại còn kèm theo mưa lớn, mọi cửa tiệm đều đóng chặt cửa.
Có một chiếc xe taxi lẻ loi đậu bên ngoài sân bay, anh đi lên hỏi mới biết, tài xế cũng như anh: một vị khách sốt sắng muốn về nhà, còn một người lại không có ai đón, thế là ngẫu nhiên đi với nhau, cùng đi chuyến phà cuối cùng, chở anh trở về nội thành.
Taxi đến phố Sacramento vào lúc 0 giờ 30 phút.
Phố người Hoa vẫn chưa được thị chính cấp thoát nước, chỉ cần một trận mưa hơi lớn thôi thì trên đường đã ngập úng thành sông rồi.
Tài xế nói, “Đường xuống dốc đến phố tài chính có thể đi được, nhưng đường ngang như phố Grant Ave ngập lắm rồi, xe chạy không khác gì chèo thuyền, không vào được.”
Ceasar trả 10 đô la tiền xe rồi đẩy cửa đi xuống.
Quả nhiên cảnh tượng như tài xế nói, nước đọng quá sâu, dòng nước chảy từ đường ngang cho tới con dốc, nước chảy rất nhanh. Anh đưa mắt nhìn một cái, rồi lập tức không chút do dự lội nước mà đi.
Tài xế ở đằng sau gọi với, dừng xe lại rồi đẩy cửa ra đuổi theo, hô hoán ở phía sau: “Cậu gì ơi, cho cậu thứ này che mưa này.”
Anh dừng lại, nhận lấy cây dù đi mưa rồi cám ơn anh ta.
Mở dù lên, chiếc dù đen to lớn làm nổi bật bộ quần áo đen xơ xác và sắc trời âm tu, đều bị gió mưa làm cho ướt nhẹp.
0 giờ 40 phút, anh bấm cửa chuông ở tiệm giặt A Phúc.
Sau năm phút chờ đợi, bên trong cửa tiệm mới vang lên tiếng động. Bước chân vội vã đi đến, nhấc tấm ván ra, kéo cửa hé ra một khe nhỏ. Người đàn bà lùn tịt lim dim đôi mắt, cẩn thận quan sát một lúc mới nhận ra anh.
Anh nhớ người đàn bà Trung Quốc này nói tiếng Anh rất tốt, bèn lễ phép hỏi, “I’m here looking for May may. Is she home?”
(Tôi đến tìm em gái. Cô ấy có ở nhà không?)
Lời vừa thốt ra, anh phát hiện giọng mình run run.
Người đàn bà kia không hề đổi sắc. Sau hai giây, bà ta lạnh nhạt nói, “She’s out.” (Con bé không có ở đây.)
Anh giơ tay chặn lại cánh cửa sắp đóng.
Người đàn bà sợ hãi kêu lên, “What are you doing? It’s midnight!! I’ll call the police, I promise!”
(Đêm hôm khuya khoắt cậu làm gì đấy?! Tôi sẽ báo cảnh sát!)
Anh thỉnh cầu lần nữa, “Would you mind telling me where she is?”
(Có thể cho tôi biết cô ấy đang ở đâu không?)
Trong nhà vang lên giọng đàn ông, hỏi bằng tiếng Quảng: “La Văn, ai đấy?”
La Văn bất động nhìn anh chằm chằm. Chắc hẳn người thanh niên da trắng này đã đi trong mưa rất lâu, tóc tai gò má ướt sũng, mặt tái nhợt đến đáng sợ.
Bà thở dài, “Em gái đi học rồi, tối mai mới về. Cậu… tối mai rồi hẵng đến.”
Ceasar gần như không biết mình quay về phố Sacramento thế nào.
Chiếc xe từ Oakland đến vẫn còn đậu nơi đó, vừa thấy anh, tài xế vội vã hạ cửa kính xuống hỏi: “Còn đi xe không?”
Anh dừng bước, để mặc nước chảy mở cửa ngồi vào.
Tài xế nói, “Tôi thấy cậu chỉ có một mình, tối khuya lại đến phố người Hoa thì e chắc không phải về nhà, nên quyết định chờ cậu mười phút. Vốn định đi rồi, may mà cậu nhanh chóng đi ra… Đi đâu đây?”
“Phố Lombard.” Anh nói.
Khi từ dốc phố Lombard đi xuống, anh mới sực nhớ chìa khóa đều ở chỗ Thompson cả rồi. Có điều anh nhớ hàng rào thông với vườn hoa nhà hàng xóm rất thấp, có thể trèo vào từ nơi đó, rồi đi vòng vào nhà để xe để lên tầng trên.
Nhưng anh không ngờ hàng rào gỗ đã lâu không được sửa sang, giờ còn ướt đẫm cơn mưa, vừa đè lên thì đã mục nát đổ sập xuống. Anh nhanh chóng lao qua hàng rào nhảy xuống sân, phòng mình ngã xuống vũng bùn.
Tiếng hàng rào đổ đã đánh thức nữ chủ nhân nhà hàng xóm —— người đàn bà Do Thái om sòm đến tuổi mãn kinh kia. Bà ta cầm xẻng lao vào sân, khiến con chó becgie Đức bà ta nuôi cũng chồm dậy, cùng lao đến bóng đen tự ý xông vào trong đêm mưa kia, nhưng anh đã nhanh chóng lắc mình né tránh, lại trở tay chụp lấy tay bà ta.
Anh thấp giọng nói: “Bình tĩnh lại đi bà Hazel, là tôi đây, Ceasar.”
Cám ơn trời đất, cuối cùng người đàn bà cũng thôi la hét, ngạc nhiên xua hai con chó về phòng, tránh cắn bị thương người hàng xóm cũ tôn quý tuấn tú này.
Anh nhân đó đi vào nhà kho, đạp gãy khóa đồng đã gỉ sét ở nhà để xe, dọc theo cầu thang đi lên tầng một.
Bật tắt cầu chì hai lần, không có động tĩnh —— trong phòng tối đen, cung cấp điện đã đến hạn, dĩ nhiên điện thoại cũng không gọi được.
Trong phòng đầy mùi bụi bặm. Ceasar lên đến cửa sổ tầng hai, kéo toang rèm cửa sổ ra, nương theo đèn đường, vừa hay nhìn thấy một bóng người nho nhỏ ở cửa sổ tầng hai nhà đối diện đang đẩy cửa sổ ra, treo một con thú mặt xanh răng nanh trong bão táp.
Trong màn đêm, tiếng gió mưa ngày càng trở nên dữ dội, làm cửa sổ rung động ầm ĩ.
Anh mệt đến nỗi ngủ thiếp đi trong bầu không khí động tĩnh kịch liệt và ướt át, rồi choàng mở mắt trong tiếng gió thảm thiết.
Con diều đầu rồng!
Trời đã tảng sáng, cửa sổ bị một lực tác động mạnh đẩy mở toang. Ceasar mở tủ quần áo ra, tròng vội chiếc áo sơ mi tay ngắn vào rồi đi chân trần đến bên cửa sổ.
Cơn gió từ đêm qua đã phá hỏng mọi cây cối, quật khóm đỗ quyên trong luống hoa bật gốc, bùn đen quét đến tận con đường dốc.
Nước mưa cũng đã gột rửa nhà cửa sạch sẽ, đem lại sắc vàng cho cả thành phố. Dưới bầu trời trắng xóa, mọi thứ trở nên sạch sẽ tới mức chói mắt.
Trong ánh sáng rực rỡ bên ngoài, một lần nữa anh nhìn thấy con diều giấy răng xanh treo ở cửa sổ đối diện, từng nét sổ nét ngang đều giống y hệt tranh vẽ phác họa trên tường Trung Quốc.
Đột nhiên con tim anh nảy lên một cách khó hiểu.
Trong chớp mắt đấy, anh nhìn thấy một người đàn ông Trung Hoa mặc âu phục hai hàng nút, xách hai túi giấy, do dự đứng dưới con diều giấy đầu rồng kia, sau khi nhìn rõ số nhà thì khom lưng bấm chuông.
Ceasar chợt luống cuống, bước nhanh đến gần cửa sổ hơn.
Sau mấy phút, cánh cửa kia bật mở, một cô gái da trắng lim dim kéo lê dép đi ra.
Thế là anh lại thở phào, đứng cạnh giường bình tĩnh nhìn sang.
Hình như cô gái ấy hỏi gì đó.
Người đàn ông xách bữa sáng đáp lại một câu.
Cô gái da trắng bật cười, quay đầu nói gì đó vào bên trong. Một cô gái da trắng khác cầm ki hốt rác chạy ra, nhét vội vào tay người đàn ông kia, rồi lại tự nhiên đón lấy bữa sáng trong tay anh ta.
Hai cô gái giành giật bữa sáng, cùng đi vào nhà.
Người đàn ông chẳng hiểu gì, bật cười, tốt tính cúi người hốt đất bùn, cành cây gãy và xác đỗ quyên trước cửa.
Mấy phút sau cửa lại bật mở, một cô gái người Hoa ở bên trong chạy ra, giật lấy ki hốt rác trong tay anh ta, luôn miệng nói xin lỗi.
Ceasar đột ngột sững sờ, cả người như bị đóng đinh bên cửa sổ, không tài nào nhúc nhích được.
Anh hoài nghi mình nhìn nhầm.
Cô gái chỉ thoáng xuất hiện ngoài cửa rồi lại đi vào nhà.
Chàng trai gốc Hoa mặc âu phục đứng dựa vào cửa, từ lúc ấy cứ mãi nhìn vào bên trong, như thể đang chờ ai đó.
Hai phút sau, người anh ta chờ bước ra.
Hai người thấp giọng nói gì đó ở cửa, rồi cùng sóng vai đi dạo trên con dốc.
Lần này Ceasar thấy rất rõ.
Người mà gã đàn ông kia chờ mặc sườn xám màu xanh da trời, bên ngoài khoác thêm áo khoác đồng phục, tết tóc thành đuôi sam; ôm cặp sách, mặt mũi trắng nõn, vóc dáng nhỏ nhắn.
Cũng là người anh chờ đợi.
Là cô gái của anh…
Ceasar xoay người chạy xuống lầu. Trong khoảnh khắc giật tung cửa ra, anh nhìn thấy gương mặt tái nhợt và mái tóc rối bời của mình ở trong gương.
Thế nhưng anh chẳng chút bận tâm, xỏ vội đôi dép, đẩy cửa xông ra ngoài.
Đây là lần thứ hai anh đuổi theo cô trên con dốc phố Lombard chết tiệt này.
Ceasar nhìn theo bóng chiếc xe cáp chạy đi, đứng tần ngần bên đường một lúc lâu, rồi giơ tay bắt một chiếc xe taxi từ bãi biển..
Xe taxi còn chưa kịp đuổi theo mục tiêu, thì sau hai trạm, chiếc xe cáp đã dừng ở con hẻm ngoài trường cấp ba công lập Công nghệ.
Hai người cười nói bước xuống xe, cùng nhau đi vào con hẻm.
Trong chớp mắt đó, anh gần như mất đi dũng khí gọi tên cô.
Ceasar trả tiền xe, bảo tài xế dừng xe ở ven đường rồi đi theo vào trong hẻm, từ đằng xa nhìn thấy cô chào tạm biệt gã đàn ông người Hoa mặc âu phục, cùng các học sinh mặc đồng phục màu đen bước vào sân trường.
Anh men theo bóng lưng đuổi theo, nhưng lại bị giáo vụ ngăn lại ngoài cửa.
Trong con hẻm, đối diện cánh cổng to lớn là một quán ăn nhỏ. Sau khi bị trường chặn lại lần thứ hai và cảnh cáo sẽ gọi điện cảnh sát, anh đành giơ tay đầu hàng, thỏa hiệp xoay người đi vào quán ăn kia, ngồi xuống vị trí sau cửa sổ gần cổng chính, gọi một tách hồng trà nóng
Anh ngồi ở trong góc của quán ăn, tầm mắt nhìn cổng trường không được tốt cho lắm, bởi vì vị trí tốt nhất đã bị kẻ khác chiếm đóng rồi. Người này vừa vào nhà ăn đã cởi áo khoác ra, chỉ mặc mỗi chiếc áo len. Nếu như anh nhớ không nhầm thì chính là gã mặc âu phục kia. Anh ta gọi một chiếc bánh Croissant, ba miếng bánh rán Churro cùng một nước lọc, nom bộ dạng có vẻ ăn rất ngon miệng.
Hơn nữa cũng rất nhạy cảm. Ceasar nhìn anh ta chưa được bao lâu thì anh ta đã ngẩng đầu lên, đối mặt với anh.
Ánh mắt đầy kiên nghị, sắc bén. Trong khoảnh khắc anh, anh xác nhận chí ít gã người Hoa này từng nhập ngũ.
Nhưng rõ ràng anh ta vẫn bình tĩnh hơn Ceasar nhiều. Ăn sáng xong, dọn dẹp rác rưởi giấy vụn vào trong đĩa thức ăn, anh ta mới gọi phục vụ người Tây Ban Nha cầm báo đến, dựa vào cửa sổ nhàn nhã đọc báo.
Nhìn vẻ mặt tự đắc của anh ta, chắc chắn biết có người đang nhìn lén mình.
Ceasar cũng không có ý định né tránh.
Hai tiếng đồng hồ, anh không hề động đến tách hồng trà, cũng gần như quên mất đã gần mười tám tiếng mình chưa ăn uống.
Anh cứ ngồi đấy không làm gì, chỉ chú ý quan sát nhất cử nhất động ở cổng trường và nhà ăn.
Cách đó không xa vang lên tiếng dương cầm sơ cấp vui vẻ, mấy phút sau, toán học sinh mặc áo khoác đen lục tục từ trong sân trường ùa ra con hẻm, vài ba tốp cười đùa đi vào quán ăn, đứng trước quầy dùng từ Tây Ban Nha quen thuộc mua bánh mì tròn.
Trong tiếng Tây Ban Nha ồn ào ấy, gã mặc âu phục kia cẩn thận gấp đôi tờ báo lại rồi đứng lên – mẹ nó nhất định gã ta bị chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế chết tiệt – lúc ấy anh đã nghĩ như vậy.
Sau đó anh thấy nhìn cô gái của anh đứng bên ngoài cửa kính, gõ cửa kính gọi gã bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế chết tiệt này.
Ngay lúc đó mọi thứ trong nhà hàng vừa mơ hồ lại rõ ràng.
Mọi thứ xảy ra quá nhanh.
Ceasar thề, hai phút sau đó nhất định là hai phút tệ hại nhất cuộc đời anh.
Buổi trưa hôm đó, hễ ai từng đến quán ăn Sobrino de Botin trong khuôn viên trường, thì sẽ nhìn thấy một người da trắng sắc mặt sa sầm, tóc tai rối bời, áo quần nhăn nhúm gạt đám đông ra, lúc định đi đến cô gái mà anh ngày nhớ đêm mong suốt nửa mùa hè và một mùa thu, thì gã mặc âu phục kia đã nhận ra ý đồ của anh, bèn đưa tay ra ngăn anh lại.
Ceasar dừng bước, ánh mắt rơi vào trên mặt anh ta. Đưa tay ra, chỉnh lại hai viên nút cài bị lệch trên cổ gã người Hoa.
Anh ngẩng đầu, đối mắt với ánh mắt hơi ngạc nhiên của gã đàn ông Trung Hoa, chậm rãi bật cười.
Rồi bất thình lình, anh vung tay nhắm thẳng vào cằm anh ta!
Người đàn ông đưa tay chặn cánh tay anh lại, đồng thời mở lớn hai mắt.
Sau một tiếng kêu đau, người đàn ông Trung Hoa ôm bụng, gập người lại.
Ceasar khom lưng nói với anh ta, “SHE IS MY GIRL!”
Dứt lời, anh lập tức xoay người lại, đột ngột bắt gặp đôi mắt màu đen kia.
“How could it be…” Sau một giây đối mặt, một cơn chua xót dâng lên từ đáy lòng, anh nghe thấy giọng mình run rẩy, dùng âm thanh chỉ hai người có thể nghe, thấp giọng hỏi cô, “At last paid me $8000 for a lovely night, dating with another guy just after three months?”
(Tại sao có thể, trả anh 8000 đô la cho một đêm tuyệt vời, rồi ba tháng sau lại hẹn hò với gã đàn ông khác?)
Vừa dứt lời, cô bước lùi về sau một bước, quay đầu bỏ chạy.
Gần như cùng lúc, có người ở phía sau níu tay Ceasar, ngăn anh đuổi theo cô.
Anh xoay người lại vung tay lên lần nữa!
Nhưng lần này nắm tay đã bị chặn.
Người thanh niên Trung Hoa mỉm cười, nói, “Xin lỗi, có chuyện này tôi cần nói với anh trước. Cha cô ấy hy vọng chúng tôi có thể hẹn hò, sáng sớm hôm nay là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Nhưng câu đầu tiên cô ấy nói với tôi sau khi chào hỏi là, ‘xin lỗi làm phiền anh rồi, nhưng trước lúc này tôi muốn nói với anh, mỗi ngày cuối tuần tôi sẽ về nhà đợi điện thoại, dù tôi vẫn không đợi được. Mặc dù tôi không biết tôi có đợi được đến ngày hôm ấy không, nhưng chỉ cần anh ấy xuất hiện, tôi nghĩ tôi sẽ không chút do dự đi đến phía anh ấy.’ Nên anh biết không, đây chỉ là một cuộc hẹn hò thất bại. Có điều chúng tôi đã đạt được nhận thức chung: nếu tôi đã nghe theo yêu cầu của cha cô ấy và thím tôi, xuất hiện ngoài cửa nhà trọ cô ấy, thì cũng có nghĩa vụ đưa cô ấy về nhà sau khi tan học…”
Đầu óc Ceasar chợt trống rỗng trong một chớp mắt.
Sau đó con tim đột nhiên đập thình thịch.
Anh buông người thanh niên kia ra, xoa xoa cổ tay, lập tức xoay người sải bước đi ra khỏi hẻm.
Mười hai giờ không có xe cáp.
Anh đuổi theo dọc đường tìm kiếm theo bản năng, mấy phút sau, trông thấy bóng dáng bé nhỏ kia ở bên đường.
Thân cây bị gió thổi đêm qua nằm la liệt trên đường phố. Mỗi lần đi trên đường, cô phải dè dặt dùng cả tay chân trèo qua thân cây.
Mấy lần sợ cô ngã trật chân, Ceasar bước nhanh đuổi theo nhưng không lập tức lại gần cô, bởi vì anh sợ nếu đến gần, cô lại chạy mất.
Anh đã từng nghĩ đến vô số lần, không phải bây giờ thì còn có thể là lúc nào nữa?
Hai mươi năm ư? Hai mươi năm nữa thì anh đã bốn mươi tuổi rồi, bốn mươi tuổi đầu tóc muối tiêu, chống gậy xuất hiện ngoài cửa nhà em, trông thấy một người phụ nữ gốc Hoa xinh xắn nhưng không dám tiến lên theo đuổi?
Đến lúc đó, em có đồng ý không?
Anh không biết gì về chữ tình, chỉ biết tình yêu đi ngược với logic. Trên đời này có nhiều người là thế, vậy mà anh lại gặp phải em.
Đời người dài đằng đẵng, tất cả không gì hơn ngoài chính bản thân. Nhưng đôi khi, trong một cuộc đời dài đằng đẵng ấy, có người sẵn sàng nắm tay bạn, cùng chống lại thế giới khủng khiếp này, chẳng lẽ không tốt ư?
Có lẽ ý thức được người sau lưng đuổi kịp, hoặc có lẽ chỉ vì gặp phải con dốc, mà cô chậm rãi dừng chân.
Ceasar từ từ đuổi theo sau, đứng sau lưng cô mấy mét, thấp giọng nói với cô, “I saw the news about the exclusion law on Coastal Daily about you. You want go there, right?”
(Anh thấy tin tức của em trên Nhật báo Coastal. Em muốn đến đó đúng không?)
Không người trả lời.
Anh nói tiếp, “I lost my last chance back N. Y. C to be a Muhlenberg this morning.”
(Vào sáng nay, anh đã đánh mất cơ hội cuối cùng quay về New York, làm một Muhlenberg rồi.)
Cô vẫn im lặng.
Ceasar hít sâu một hơi, chậm rãi nói, “I just wanna ask, if you would like to go Columbia with a nobody, like me?”
(Anh chỉ muốn biết, em có muốn đến thành phố Columbia với một người không là gì như anh không?)
“If you would like to against the fuckin world, together with me?”
(Em có muốn cùng anh chống lại thế giới chết tiệt này không?)
Anh nghe thấy giọng mình ngày càng nhẹ đi, “And do you still love me…”
(Và, em có còn yêu anh không…)
Cô gái vẫn cứ đi thẳng về trước, còn Ceasar đã chậm rãi dừng lại.
Anh nhìn theo bóng lưng cô, trong chớp mắt ấy, anh cảm thấy xung quanh dường như bị bầu không khí ẩm ướt đậm đặc bao phủ, cả người ủ rũ, cho tới khi sắp nhấn chím đỉnh đầu.
Ngay trong thời khắc anh gần như tuyệt vọng, cô gái của anh đột nhiên xoay người lại, chạy như bay về phía anh.
Nhào thẳng vào lòng anh.
Trong chớp mắt ấy anh nhìn thấy cô khóc sưng cả mắt, dụi đầu vào ngực anh, nghẹn ngào chỉ trích, “Why you came so late.”
(Vì sao bây giờ anh mới đến.)
Khoảnh khắc đó, Ceasar cảm thấy con tim mình gần như nhảy ra khỏi lồng ngực.
Anh ôm ghì cô vào lòng, khẽ ngước đầu lên thở dài, “Sorry, my babe…”
Hoài Chân bất giác bật cười vì cái giọng điệu rất Mỹ của anh.
Cô nghe thấy anh hỏi nhỏ ở bên trên, “Can you kiss me?”
Cô gật đầu, ngẩng lên ở trong ngực anh, nhón chân trúc trắc hôn lên môi anh.
Cô há miệng, dùng sức cắn lấy môi dưới anh.
Ceasar hít hà một tiếng.
Hoài Chân lại bật cười vì được như ý.
Một giây sau, cô bị ôm ngang đè lên thân cây cọ bị gãy ở đằng sau.
Hoài Chân bị anh làm cho giật mình.
Bao tiếng nghẹn ngào bị lấp trong chiếc hôn.
Vào giờ khắc này, như thế là đủ lắm rồi, anh sẵn sàng chết đi trong giây phút này