Kiêu Phong

Quyển 5 - Chương 166: Quản lí Lũng Hữu




Lục Thất ẩn trong hai vạn bộ quân, hành quân hơn mười ngày đã tới huyện Thành Kỷ châu trị của Tần Châu, cùng mười nghìn quân hội hợp, sau đó đóng quân lại Tần Châu.

Tần Châu là một trong những nơi sông Vị Hà chảy qua, có thể nhanh chóng đi đến Trường Giang bằng cách xuôi theo dòng sông Vị Hà, hạ hạt của Tần Châu bao gồm huyện Thành Kỷ, huyện Thượng Khuê, huyện Tần An, huyện Thanh Thủy, huyện Phục Khương, huyện Trường Đạo, ở Tây bộ Tần Châu cũng coi như là một nơi giàu có.

Lục Thất trước khi đến Tần Châu, Thứ sử Tần Châu và Huyện lệnh huyện Thành Kỷ cầu kiến mấy lần, đương nhiên không được Lục Thất tiếp kiến, quay sang hỏi quan tướng tại sao phải đóng quân ở Tần Châu, nhưng có lệnh của triều đình, quan tướng tất cả đều trả lời không biết.

Lục Thất chỉ ở lại Tần Châu một đêm, ngày hôm sau liền dẫn theo năm trăm tướng sĩ đến Lũng Tây đô đốc phủ, Lũng Châu đô đốc phủ được thiết lập ở huyện Lũng Tây Vị Châu, bên cạnh chính là Thao Châu và Dân Châu, có thể nói là tối hậu phương, mà Vị châu vốn là thuộc Bình Lương đô đốc phủ, dân chúng ở đây sống tương đối tốt, cho nên Vương Ngạn Thăng đem huyện Lũng Tây trở thành nơi đặt Đô đốc phủ, nhưng lúc so sánh với Kinh Châu và Tương Châu, châu vực Tây bộ liền bị coi là nơi nghèo khổ.

Lục Thất đi Lũng Tây đô đốc phủ, chủ yếu là tuần tra chỉnh quân, quan tâm, tăng sự ảnh hưởng đối với quan quân, nếu như mặc kệ nó lâu không để ý tới, rất có thể sẽ không khống chế được hoặc là lòng quân sinh ra sự oán hận, đây cũng là một nguyên nhân chính Lục Thất không dám đi đoàn tụ với thân nhân.

Ở lại mấy Châu của Lũng Tây sáu ngày, chợt Tiểu Điệp cho người đến thông báo, triều đình Chu quốc phái sứ giả đến, mang theo thánh chỉ tứ phong và bổ nhiệm, Lục Thất lập tức quay về Tần Châu, không ngờ lại gặp Kỷ vương.

Sau khi tiếp chỉ, Kỷ vương nói chuyện với hắn một lúc, thẳng thắn hỏi:

- Thiên Phong, ngươi sao rồi? Sao lại không quay về Kinh Triệu phủ?

Lục Thất đã nghĩ kĩ lí do thoái thác, đáp lại:

- Điện hạ, thần nhận được một bức thư cảnh cáo, nói Phan Mỹ sẽ gây bất lợi cho thần, thần nghi ngờ nên thần không thể không phòng ngừa.

- Là ai đưa thư?

Kỷ vương hỏi.

- Thần không biết, nhưng thần chỉ có thể tin.

Lục Thất trả lời.

Kỷ vương gật đầu nói:

- Thiên Phong, ta tuyệt đối sẽ không hại ngươi.

- Thần cũng thế, thần tuyệt đối sẽ không làm hại điện hạ.

Lục Thất đáp lại.

Kỷ vương gật đầu nói:

- Bây giờ nếu ngươi nghi hoặc, vậy không quay về Kinh Triệu phủ cũng được, nếu ta nhớ ngươi sẽ đến cùng ngươi uống rượu nói chuyện.

Lục Thất nghe xong lòng ấm áp, ôn hòa nói:

- Tạ ơn điện hạ thấu hiểu, điện hạ nếu đã đến thì tuyệt đối phái nhớ kĩ, ít nhất phải mang theo hai nghìn kỵ binh, đối với bất cứ quân ở bên ngoài đều không thể tùy ý tiếp cận.

Kỷ vương gật đầu, sau đó cười khổ nói:

- Đây là lãnh thổ Đại Chu, lại khiến ta cảm thấy dường như chỗ nào cũng không được yên ổn.

- Cho dù là ở Khai Phong phủ, cũng có khả năng xảy ra ám sát, ở Tây bộ này, cũng có nhiều quân lực căm thù ẩn nấp, thần cũng cẩn thận không dám sơ suất, điện hạ quay về, mang theo một nghìn hộ vệ, chính là tướng sĩ hộ vệ điện hạ trước kia.

Lục Thất ôn hòa nói.

Kỷ vương gật đầu nói:

- Thiên Phong cảm ơn ngươi.

- Điện hạ, nếu thành Trường An xảy ra chuyện gì, nhớ rõ phải cầu viện Tần Châu, hoặc là chạy tới Tần Châu, nhưng trên đường nhất định phải cẩn thận quân Phượng Tường.

Lục Thất dặn dò.

- Phượng Tường quân? Phượng Tường quân từng là quân do Thẩm Dật Luân đại nhân thống soái, chắc có lẽ sẽ không phản loạn.

Kỷ vương hoài nghi nói.

Lục Thất lắc đầu nói:

- Thẩm đại nhân là Tiết độ sứ của Phượng Tường quân, nhưng Thẩm đại nhân vẫn luôn ở thành Trường An, hẳn là không có lực ảnh hưởng gì đối với Phượng Tường quân. Đô Ngu hầu của Phượng Tường quân, thần không biết có thân cận gì với Triệu Khuông Dẫn không, thế lực thân cận với Triệu thị rất nhiều, mà ở phía đông Khai Phong phủ, thế lực thân cận của Trương Vĩnh Đức cũng rất nhiều.

- Trương Vĩnh Đức? Dượng chắc sẽ không có ác ý.

Kỷ vương phản bác nói.

- Có ác ý hay không thì rất khó nói, điện hạ hẳn phải tự mình cẩn thận.

Lục Thất ôn hòa nói.

Kỷ vương gật đầu, Lục Thất lại nói:

- Điện hạ, nếu Khai Phong phủ truyền lệnh đến bảo điện hạ quay về, điện hạ tốt nhất nên thông báo cho thần trước, không nên vội vàng rời khỏi thành Trường An.

Kỷ vương ngẩn ra, nói:

- Thiên Phong, ý của ngươi là, có người dám dùng lệnh giả để lừa gạt ta?

Lục Thất lắc đầu nói:

- Thần cảm thấy, bệ hạ để điện hạ đảm nhiệm việc đóng giữ ở Kinh Triệu phủ, một trong những nguyên nhân chính chính là sợ Khai Phong phủ sẽ có biến.

Kỷ vương im lặng, Lục Thất lại nói:

- Thần nói đều là lời quan tâm, thần đề nghị điện hạ, có thể viết cho Hoàng đế bệ hạ một bức thư, ước định một cái ám kí để phân biệt thật giả, giống như một cái vé có một ước định.

Kỷ vương gật đầu nói:

- Ta chấp nhận đề nghị này, sẽ gửi tin đến cho phụ hoàng.

Lục Thất mỉm cười nói:

- Điện hạ cùng thần đi uống vài chén rượu, ngày mai hẵng quay về.

Kỷ vương gật đầu, cùng Lục Thất đi vào trong thành huyện Thành Kỷ uống rượu.

Kỷ vương đi rồi, Lục Thất lại quay về Lũng Tây đô đốc phủ, tiếp tục tăng mạnh việc khống chế Lũng Tây và Hà Hoàng, một bên chỉnh đốn quân lực, một bên tiến hành khôi phục đời sống cho nhân dân, mở rộng đồn điền.

Lúc trước hắn đóng quân ở Tần Châu, trên thực tế là một loại thăm dò từng chút một, xem Chu Hoàng đế có thể nhượng bộ hay không, nếu Chu Hoàng đế không chịu nhượng bộ, hắn cũng sẽ không chiếm đoạt Tần Châu. Kết quả Chu Hoàng đế đã nhượng bộ, lại còn đưa thêm cho Thành Châu và Giai Châu, Lục Thất đoán dụng ý của Chu Hoàng đế là kiềm chế Quân Chu ở Ba Thục, thì ra là không tín nhiệm tướng soái Chu quân ở Ba Thục.

Lục Thất đã biết Triệu Khuông Nghĩa bị điều đi Nhuận Châu, việc làm của Chu Hoàng đế chính là kéo dài việc xua hổ nuốt sói, muốn cho Triệu thị huynh đệ tiếp tục chiến đấu với Tấn quốc, nhưng cách làm của Chu Hoàng đế cũng không hoàn toàn là nội đấu, mà là chỉ có Nhuận Châu mới đột phá Giang Nam, Kinh Châu và Ba Thục ở thượng du Đại Giang cũng khó mà bị đột phá, Đại Giang trở thành nơi trở ngại hiểm yếu, binh lực không đủ cũng là sự thực, ba trăm nghìn quân lực lại đi phòng ngự ở Đại Giang, có tính cơ động chỉ có hơn mười vạn quân lực.

Đúng như dự đoán của Chu Hoàng đế, Lục Thất sau khi tiếp quản Hà Hoàng không thể tránh khỏi có dân số lưu động quay ngược lại, đa số người Hà Hoàng bị ép dời đến Cam Châu Hà Tây, liên tiếp có sáu vạn người quay về. Nhưng là Lục Thất cho phép quay về, Hà Hoàng cần nhân khẩu để khôi phục sinh khí, có càng nhiều nhân khẩu mới có thể khiến Hà Hoàng phồn vinh, sau đó sẽ khiến cho tướng sĩ trấn thủ Hà Hoàng càng an tâm, không người nào nguyện ý trấn thủ một vùng đất hoang vu, không chỉ buồn tẻ, càng thiếu đi cảm giác sứ mệnh, cũng chính là cảm giác không đáng.

Lục Thất không chỉ cho người ở Hà Tây quay về Hà Hoàng, còn chuyển một chút tá điền không có đất của Hội Châu đi Lũng Tây và Hà Hoàng, dùng hình thức bán mượn đất vườn để phân chia cho tá điền, tận lực khiến cho càng nhiều đất vườn kịp gieo trồng vụ xuân.

Thời gian bận rộn qua rất nhanh, nhoáng một cái đã hai tháng trôi qua, ngày hôm nay, Lục Thất đột nhiên nhận được tin cầu viện từ Hán Trung, tin là do Tào Bân gửi tới, nói Tấn quốc phái bốn trăm nghìn đại quân vượt qua Đại Giang ở Vạn Châu Ba Thục và Trung Châu phát động tiến công Hán quốc ở Ba Thục, nghe nói đã tiến công đến Du Châu (Trùng Khánh), Hợp Châu, quân tiên phong dũng mãnh một đường thẳng tiến thành đô.

Bởi vì Tấn quốc phát động tiến công Hán quốc Ba Thục rất đột nhiên, ngược lại với trước đây luôn quan sát xem xét, cho nên Chu quân nhất thời không thể tập kết đại quân, chỉ có thể phòng ngự canh gác, nhưng cũng có thể tìm cơ hội công phá Kiêm Các. Vấn đề chính là hậu kì không có lực lượng, cho nên Tào Bân gửi thư cầu viện, ý chính là một trăm nghìn quân lực của y một khi công phá Kiếm Các, sẽ cùng Tấn quốc tranh đoạt Ba Thục, Hán Trung ở phía sau cần Lục Thất xuất binh viện trợ.

Lục Thất nhìn thư xin viện trợ nhíu mày, Tấn quốc phát động chiến tranh với Hán quốc sớm hơn với điều hắn mong muốn, lúc hắn ở Trường Sa phủ, đã từng nói với Cố Thái úy và Quan Xung, thực lực quốc gia của Hán quốc Ba Thục đã hao tổn rất nhiều, đã chỉ còn hơi tàn, trong tình thế bị Chu quân và Tấn quân đe dọa, không bao lâu sau sẽ lựa chọn đầu hàng.

Lúc này mới hơn hai tháng, quân Tấn liền phát động chiến tranh đánh Ba Thục, trong lòng Lục Thất hiểu rõ, tám phần là chuyện hắn đang ở Lũng Hữu khiến cho thân nhân và tướng soái của Tấn quốc có chút sốt ruột, hai tháng, sau khi Tấn quốc đi sứ chiêu hàng thất bại lập tức xuất binh tiến đánh Ba Thục.

Lục Thất cũng không cho rằng Tấn quân vội vàng tiến đánh là sai lầm, thực ra sau khi chiếm cứ Ba Thục, sẽ khiến cho Chu quốc rơi vào hoàn cảnh xấu, Ba Thục là vùng thượng du của Đại Giang, chỉ cần có được một số lượng lớn chiến thuyền là có thể phát động chiến tranh từ Ba Thục xuôi theo sông Giang, có thể đánh bất ngờ Kinh Châu, đúng như câu “Triều từ Bạch Đế thái vân gian, thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn. (*)”

(*) 2 câu đầu trong bài thơ Há Giang Lăng của Lý Bạch. Theo bản dịch của Viên Thu:

Sớm rời Bạch Đế rạng tầng mây, nghìn dặm Giang Lăng tới một ngày.