Tích hữu giai nhân Công Tôn thị
Nhất vũ kiếm khí động tứ phương.
Quan giả như sơn sắc trở táng,
Thiên địa vi chi cửu đê ngang.
Quắc như Nghệ xạ cửu nhật lạc,
Kiểu như quần đế tham long tường.
Lai như lôi đình thu chấn nộ,
Bãi như giang hải ngưng thanh quang.
Giáng thần châu tự lưỡng tịch mịch,
Vãn hữu đệ tử truyền phân phương.
Lâm Dĩnh mĩ nhân tại Bạch Đế,
Diệu vũ thử khúc thần dương dương.
Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ,
Cảm thì phủ sự tằng uyển thương.
Tiên đế thị nữ bát thiên nhân,
Công Tôn kiếm khí sơ đệ nhất.
Ngũ thập niên gian tự phản chưởng,
Phong trần hồng động hôn vương thất.
Lê viên đệ tử tán như yên,
Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật.
Kim Túc đôi tiền mộc dĩ củng,
Cù Đường thạch thành thảo tiêu sắt.
Đại diên cấp quản khúc phục chung,
Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất.
Lão phu bất tri kỳ sở vãng,
Túc kiển hoang sơn chuyển sầu tật.
Dịch nghĩa:
Xưa có người đẹp họ Công Tôn,
Mỗi lần múa điệu kiếm khí, bốn phương rung động.
Người xem vững như núi cũng khiếp đảm.
Trời đất theo nhịp múa mà lên cao xuống thấp.
Sáng rực như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời,
Vững vàng như các chúa tiên cỡi rồng lượn.
Đến khi sấm sét thu hết cơn giận dữ,
Dừng như sông bể đọng ánh sáng trong veo.
Làm môi thắm, tay áo ngọc nay đã vắng tênh,
Về già có cô học trò để truyền nghề.
Ấy là người đẹp xứ Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế.
Múa khúc tuyệt diệu này, thần thái hiên ngang.
Cùng ta trò chuyện trong chốc lát,
Cảm thời thế nhiều ngang trái mà xót thương!
Thị nữ của tiên đế có tám nghìn người,
Kiếm khí của Công Tôn đứng hàng đầu.
Khoảng năm chục năm trôi qua tựa như trở bàn tay,
Gió bụi tơi bời tối tăm cả cung vua.
Đệ tử Lê viên tan tác như khói,
Phong tư đội nữ nhạc chỉ còn ánh nắng lạnh lẽo.
Trước gò Kim Túc, côi cối chầu hầu,
Nơi thành đá Cù Đường, cỏ xác xơ buồn bã.
Trên tiệc, khúc sáo dồn dập đã dứt
Vui xong sinh buồn, trăng mọc trời đông.
Già này chẳng biết sẽ đi về đâu,
Chân chai lê trong núi hoang theo nỗi sầu.
[Nguồn: Thi Viện] (Lam lấy luôn bài dịch trên trang này vì bản thân mình không có khả năng thơ phú, lúc đầu đọc chỗ hiểu chỗ không, may mà thơ Đỗ Phủ nổi tiếng chớ không thì để mình tự dịch thì bản dịch của mình lạc lõng rời rạc lắm)
Bài thơ “Quan Công Tôn đại nương đệ tử Lý Thập Nhị Nương múa Kiếm khí hành” do đại thi hào Đỗ Phủ (1) viết. Kiếm khí được viết trong bài thơ là bí mật truyền cho hoàng tộc nhà Đường, hầu như trên giang hồ ít người có thể nhận ra.
[Chú thích: (1) Đỗ Phủ, biểu tự Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng dã lão, Đỗ Lăng dã khách hay Đỗ Lăng bố y, là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kì nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Nguồn: Wikipedia ]
Nội cung nhà Đường, kể từ thời Nữ đế (2) bắt đầu, ngoài sáu Cục và hai mươi tư Ti, Thượng Quan Uyển Nhi (3) đã tạo ra một cục khác, cục này gọi là Tử Y Cục, độc lập với sáu Cục và hai mươi tư Ti, do hoàng hậu trực tiếp thống lĩnh. Người trong cục không nhiều, nhưng tất cả đều là những phụ nữ võ công cao cường.
[Chú thích: (2) Võ Tắc Thiên, cũng được đọc là Vũ Tắc Thiên, thường gọi Võ hậu hoặc Thiên Hậu, là một phi tần ở Hậu cung của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau trở thành Hoàng hậu thứ hai của Đường Cao Tông Lý Trị, về sau trở thành Hoàng đế triều đại Võ Chu làm gián đoạn nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị Hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán, Nguồn: Wikipedia
(3) Thượng Quan Uyển Nhi, còn gọi là Thượng Quan Chiêu dung, là một trong những nữ chính trị gia nổi tiếng của lịch sử Trung Quốc vì tài năng về thơ phú, thư pháp, cũng như vai trò chính trị trong thời đại nhà Đường. Nguồn: Wikipedia ]
Các thế hệ sau đều biết, Thượng Quan Uyển Nhi là một tài nữ nổi tiếng, kỳ thật, cũng là một cao thủ võ lâm. Trong cung dù có rất nhiều thị vệ võ công cao cường, nhưng trong nhiều trường hợp, hậu cung không tiện thân cận quá mức. Thượng Quan Uyển Nhi đã thành lập Tử Y Cục, nhằm đào tạo những cung nữ có võ nghệ cao cường, để bảo vệ sự an toàn của các cung nữ trong hậu cung.
Công Tôn đại nương Lý Thập Nhị Nương trong thơ cũng là Thượng cung của Tử Y Cục, nàng thông thạo kiếm pháp cùng ca múa, nếu người không hiểu võ công, đó sẽ là vũ điệu hoa lệ tinh diệu. Nhưng thực tế nếu có sát thủ đến, vũ điệu này lập tức trở thành vũ khí giết người.
Lúc này đã tám năm kể từ sự biến Cam Lộ (4) năm Đại Hòa thứ chín. Tiên đế đã qua đời, hoàng đế hiện tại ba năm trước mới đăng cơ, đó chính là Dĩnh vương Lý Triền. Ba đời hoàng đế là ba người huynh đệ, đều là con trai của Đường Mục Tông (5).
[Chú thích: (4) Cam Lộ chi biến, là một cuộc chính biến cung đình nổ ra vào ngày 14 tháng 12 năm 835, tức ngày Nhâm Tuất tháng 11 ÂL năm Thái Hòa thứ 8 thời Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc, do các đại thần Lý Huấn và Trịnh Chú khơi nguồn, được sự ủng hộ của hoàng đế Văn Tông nhằm diệt trừ nạn hoạn quan tham chính. Tuy nhiên kế hoạch thất bại, các hoạn quan Cừu Sĩ Lương và Ngưu Hoằng Chí phát giác âm mưu và tập hợp lực lượng tiêu diệt các đại thần muốn lật đổ mình, dẫn đến một cuộc thảm sát cung đình. Nguồn: Wikipedia
(5) Đường Mục Tông, tên thật Lý Hằng, là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được 4 năm. Nguồn: Wikipedia]
Đầu tiên là Kính Tông (6), con trưởng của Mục Tông, mười tám tuổi liền băng hà. Sau đó là Văn Tông, con thứ hai của Mục Tông. Hoàng đế hiện tại, là Vũ Tông đời sau vẫn biết, là em của Văn Tông, niên hiệu Hội Xương.
[Chú thích: (6) Đường Kính Tông, tên thật Lý Đam, là vị hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 824 đến năm 826, tổng 2 năm. Nguồn: Wikipedia]
Tình huống như vậy, trong lịch sử hiếm có. Đại Đường đến lúc này, rất là bấp bênh.
Chính là người ở trong cuộc, nào có thể đoán trước được tương lai. Ai cũng sống hết sức mình, nghĩ rằng có thể sống cuộc đời vinh quang vô hạn đến cuối cùng.
Ngư Băng Nhi thuở nhỏ lớn lên ở trong cung, từ khi bảy tuổi, nàng mắc một bệnh lạ, sau khi lành bệnh, liền quên hết sự việc trước kia.
Người đầu tiên nàng nhìn thấy khi mở mắt là Ngư Thượng cung, là Thượng cung của Tử Y Cục, ánh mắt dịu dàng tĩnh lặng. Thượng cung nói nàng tên là Băng Nhi, cho nên mới gọi nàng là Băng Nhi.
Sau khi có thể đứng dậy hoạt động, nàng bắt đầu học kiếm khí từ Thượng cung đại nhân. Đó là một loại vũ khí tuy rằng đẹp mắt nhưng rất khó nắm giữ. Nàng bẩm sinh thông minh, dần dần cũng hiểu được quy tắc sử dụng loại vũ khí này.
Kiếm khí thực chất là hai thanh đoản kiếm, buộc hai sợi lụa dài ở chuôi kiếm, người múa kiếm không cầm chuôi kiếm, mà sử dụng dựa vào sợi lụa kia. Lụa là kết hợp giữa loại tơ tằm tốt nhất của Giang Nam với lông tơ của Đông Hải, cho dù là đao kiếm cũng khó chém đứt. Có võ công xen lẫn trong vũ đạo, mỗi chiêu thức đều rực rỡ sắc màu, nhưng không ngờ tới chính là, chưa gây thương tích cho người khác, đã làm bản thân bị thương rồi.
Băng Nhi khi còn bé cũng bị kiếm khí cắt vài lần, mấy năm sau, hai dải lụa hình như đã nhận nàng là chủ nhân, bắt đầu thuận buồm xuôi gió.
Nàng có tính cách khá tách biệt, tuy ở trong cung, nhưng cũng không tinh ý như những người trong cung khác, cũng may là Tử Y Cục có địa vị đặc thù, Thượng cung đại nhân cũng là người tinh tế, mọi nơi đều có thể xử lý ổn thỏa, cũng đã không sợ không nguy vượt qua tám năm này.
Mười lăm tuổi, là năm cập kê, cô bé đó đã trưởng thành.
Hoa đào trong cung đang nở, Băng Nhi thích mùa xuân, thích tự do, luôn khao khát cuộc sống bên ngoài hoàng cung, nên thường không yên lòng. Một số vương công đại thần đang mở tiệc, đứng đầu là em trai của Hoàng thượng, được phong làm An vương Lý Dung (7). Sau đó là đại thái giám Cừu Sĩ Lương, tuy chỉ là hoạn quan nhưng lại nắm giữ binh quyền.
[Chú thích: (7) An vương Lý Dung là con của Dương Hiền phi với Đường Mục Tông, (tính ra trong lịch sử thì Lý Dung phải là anh trai của Lý Triền cơ, vì mình thấy ông được xếp trước Lý Triền, đoán vậy thôi). Ban đầu trước kia Văn Tông muốn để con trai của mình là Lỗ vương Lý Vĩnh làm Đông cung Hoàng thái tử, nhưng sau đó Lý Vĩnh lại qua đời vào năm 838 mà hậu cung không sinh nở tiếp nên Văn Tông không có người thừa tự. Sủng thiếp của Văn Tông là Dương Hiền phi (không biết Dương Hiền phi này có phải là Dương Hiền phi – mẹ của Lý Dung không nhưng chắc là người khác thôi) muốn lập Yên vương Lý Dung nhưng tể tướng Lý Giác phản đối. Cuối cùng, Văn Tông quyết định lập con của Kính Tông là Trần vương Lý Thành Mĩ làm tân Thái tử vào năm 839. Về sau để được lên ngôi mà Lý Triền đã giết cả Dương Hiền phi, Yên vương Lý Dung cùng Trần vương Thành Mĩ theo yêu cầu của Cừu Sĩ Lương. Tội nghiệp Lý Dung lắm Nguồn: Wikipedia. Hãy đọc kỹ chú thích về Đường Vũ Tông trong phần lên ngôi để biết chi tiết chứ Lý Dung không có đường dẫn riêng. Mấy giai đạn cuối đời Đường này các ông vua đều sống không quá thọ, đổi vua liên tục.]
Thái giám có binh quyền, có lẽ là điều hiếm thấy chỉ có Đường triều mới làm được. Trên thực tế có rất nhiều chuyện chỉ có thể xảy ra ở Đường triều, vốn là một triều đại tràn ngập kích thích mãnh liệt.
Những đại thần khác, Băng Nhi có biết Tể tướng Lý Đức Dụ (8), có người mơ hồ gặp qua, có người chưa từng thấy. Nàng đứng ở một bên, nhìn những cung nữ giăng đèn. Nhưng lại thấy một người cung nữ, đang cầm ly rượu đưa đến trước mặt Cừu Sĩ Lương.
[Chú thích: (8) Lý Đức Dụ 李德裕 (787-850) tự Văn Nhiêu 文饒, quê Triệu Quận, con quan tể tướng Cát Phủ 吉甫. Ông được bổ làm chức Hiệu thư lang, kiêm Giám sát ngự sử. Mục Tông tại vị, ông được bổ làm Hàn lâm học sĩ, lại được tiến cử làm chức Trung thư xá nhân, rồi làm đến chức Ngự sử trung thừa. Ngưu Tăng Nhụ 牛僧孺, Lý Tôn Mẫn 李宗閔 truy oán Cát Phủ, đẩy Đức Dụ về làm quan sát sử ở Chiết Giang. Năm Nguyên Hòa thứ ba, ông được gọi về bái Binh bộ thị lang. Sau Lý Đức Dụ làm đến chức Tể tướng (Đồng bình chương sự) được phong Vệ Quốc công, danh tiếng một thời. Khi Tuyên Tông lên ngôi, ông lại bị bãi chức và làm Tiết độ sứ ở Kinh Nam. Bạch Mẫn Trung 白敏中, Lệnh Hồ Đào 令狐綯 câu kết với nhau, biếm ông đi làm Tư hộ tham quân ở Nhai Châu. Trước tác của ông có “Hội Xương nhất phẩm tập” 會昌一品集 (12 quyển), “Biệt tập” 別集 (10 quyển), “Ngoại tập” 外集 (4 quyển), biên thành 1 quyển trong “Toàn Đường thi”.(Nguồn: Một trăm bài thơ Đường, NXB Đồng Nai, 2002). Nguồn: Zaidap.com ]
Cừu Sĩ Lương cầm chén rượu lên muốn uống, một con chim đột nhiên bay qua đầu Cừu Sĩ Lương. Một mảnh lông chim, rơi vào chén của Cừu Sĩ Lương. Đây cũng không phải là chuyện lớn, lông chim đã làm bẩn rượu, chỉ cần đổi một ly khác. Nhưng chiếc lông vũ rơi vào chén rượu, đột nhiên một làn khói bốc lên.
Cừu Sĩ Lương đã trải qua không biết bao nhiêu lần sinh tử trong cuộc đời, nhìn thấy làn khói bốc lên kia, trong lòng cũng biết có chuyện. Lão nhanh chóng ném chén rượu đi, chén rượu rơi xuống đất, rượu trào ra ngoài. Rượu rơi trên phiến đá xanh, chỉ nghe có tiếng “xèo xèo” rất nhỏ, thậm chí phiến đá xanh còn bị độc tính của rượu ăn mòn.
Cừu Sĩ Lương sửng sốt, vỗ bàn đứng lên: “Rượu có độc!”
Lão ta chưa kịp nói gì, thì cung nữ đang cầm chén rượu đã thuận tay rút một thanh đoản kiếm từ trong tay áo ra, thanh kiếm xuyên qua trái tim của Cừu Sĩ Lương.
Đám cung nhân đồng thanh kêu lên, nhưng đều giật mình tại chỗ, thị vệ ở phía xa, muốn cứu cũng đã muộn.
Mắt thấy đoản kiếm sắp chạm đến trái tim của Cừu Sĩ Lương, đột nhiên từ đâu có một dải lụa đỏ bay ra, dải lụa đỏ quấn quanh cổ tay cung nữ kia, cung nữ đó liền không còn cử động được nữa.
Cổ tay của cung nữ bị cuốn bởi một dải lụa, nhưng nàng ta vẫn không cam tâm từ bỏ kế hoạch ám sát Cừu Sĩ Lương. Thanh kiếm được chuyển sang tay trái, lại một kiếm hướng Cừu Sĩ Lương đâm tới.
Cùng lúc đó, một dải lụa màu đỏ khác bay tới, cuốn lấy tay trái của cung nữ, hai dải lụa nhẹ nhàng kéo lại, cung nữ bị kéo lộn ngược bay ra ngoài.
Lúc này, thị vệ đã đến, thanh gươm không vỏ, đặt ở giữa cổ cung nữ. Cung nữ đó biết không thể giết chết Cừu Sĩ Lương, trên mặt không khỏi lộ ra vẻ sợ hãi.
Nàng ta quay đầu nhìn Băng Nhi đang cầm dải lụa, cười chói tai nói: “Có phải là không nên phá vỡ chuyện này hay không?”
Băng Nhi im lặng, ở trong cung đã lâu, nàng đương nhiên biết rằng Cừu Sĩ Lương tuyệt đối không phải người tốt. Tuy nhiên nhiệm vụ của Tử Y Cục là phải bảo vệ an toàn cho hậu cung, rõ ràng có người ám sát Cừu Sĩ Lương, làm sao nàng có thể bỏ qua được.
Khi cuộc khủng hoảng kết thúc, Cừu Sĩ Lương chế nhạo nói: “Tiện tì, là ai sai ngươi tới giết ta?”
Cung nữ giễu cợt: “Không ai sai ta cả. Ta là con gái của Trịnh Chú (9) người tám năm trước bị ngươi giết chết, hôm nay ta tới đây, chỉ là để báo thù cho cả nhà.”
[Chú thích: (9) đại phu Trịnh Chú, vốn là người từng chữa bệnh cho Văn Tông cũng được trọng dụng. Lý Huấn và Trịnh Chú khi trước vốn có quan hệ mật thiết với Vương Thủ Trừng. Văn Tông nghĩ rằng Lý Huấn và Trịnh Chú vốn được Vương Thủ Trừng tiến cử nên các hoạn quan sẽ không nghi ngờ hai người này, bèn bí mật liên lạc với họ và bàn kế diệt trừ hoạn quan. Vào mùa hạ năm 835, Lý Huấn và Trịnh Chú đề nghị lên Văn Tông một kế hoạch để yên định đất nước, gồm ba giai đoạn: Lúc đầu là tiêu diệt hoạn quan trong triều, sau đó là thu phục lại những vùng đất cũ bị người Thổ Phiên xâm chiếm, và thứ ba là tiêu diệt các Tiết độ sứ đang nắm quyền ở Hà Bắc. Nguồn: Wikipedia. Đọc ở chú thích sự biến Cam Lộ sẽ thấy ha mọi người.]
Cừu Sĩ Lương khẽ giật mình, mồ hôi lạnh toát ra sau lưng, tám năm trước, lão đã giết hơn một trăm đại thần, Trịnh Chú là người bày ra sự biến Cam Lộ, sau khi sự biến Cam Lộ thất bại, cả nhà đều bị lăng trì xử tử.
Tiếng cười của cung nữ càng thêm nghiêm nghị: “Vì ta không còn có thể giết ngươi, sống cũng vô dụng. Cha! Mẹ! Con gái tới tìm hai người đây!”
Cung nữ nói xong, trong miệng tuôn ra một tia máu, cắn lưỡi tự sát tại chỗ.
Cừu Sĩ Lương sững sờ đứng trước thi thể của cung nữ, không biết vì lý do gì mà chuyện cũ tám năm trước lại hiện ra từng cảnh một. Khuôn mặt đẫm máu của các quan đại thần khi họ chết, cả những thi thể không hoàn chỉnh đều hiện rõ trước mắt.
Lão cũng không phải là người coi trọng quỷ thần, sẽ không vì giết người mà cảm thấy khó chịu. Nhiều năm qua, số người bị giết cũng không đếm xuể, đây là lần đầu tiên ảo giác bị quỷ đuổi tới hỏi tội xuất hiện.
Lão không khỏi lùi về phía sau một bước, vô thức lấy tay áo lau mồ hôi lạnh trên trán. Nhưng lại nghe An vương Lý Dung cười nói: “Cừu đại tướng quân, ngươi vẫn ổn chứ?”
Lão vội vàng nói: “Tiểu thần có chút không thoải mái, xin về phủ trước.”
Lý Dung cười nhẹ: “Cứ tự nhiên.”
Hắn nhìn bóng lưng của Cừu Sĩ Lương biến mất trong cung, cúi đầu nhìn xuống thi thể của Trịnh nữ, trong lòng không khỏi thầm than: Đúng là vẫn chưa giết được lão!
Khi nghĩ đến kẻ đã phá hoại kế hoạch của mình, trong lòng không khỏi tức giận, nhìn người phụ nữ mặc áo màu tím kia, chỉ là một cô gái mười bốn, mười năm tuổi, vẫn còn đang ngẩn người đứng, tấm lụa đỏ trong tay cô nàng đã biến mất từ lâu.
Là thị nữ của Tử Y Cục, nếu không sẽ không có thân thủ tốt như vậy.
Hắn ta đi về phía Băng Nhi, Băng Nhi ngẩng đầu lên rụt rè. Nàng biết An vương, bởi vì ba đời hoàng đế đều là anh em, hơn nữa An vương là em trai của hoàng đế hiện tại, ở trong cung liền không thể không đoán, tương lai An vương chỉ sợ sẽ phải kế thừa sự nghiệp này. Cho nên, tuy rằng hoàng đế chưa từng có hạ lệnh, người trong cung đều nịnh nọt An vương như nịnh nọt hoàng đế.
Nàng chỉ là một cung nữ bình thường, lúc trước nhìn thấy An vương, nàng luôn nhìn từ xa, đây là lần đầu tiên nàng ở gần An vương như vậy. Hơi thở của nàng không thể không tăng lên gấp gáp, không biết vì sao, mặt nàng đỏ bừng.
Lý Dung trầm mặc nhìn Băng Nhi, nàng là một mỹ nữ. Chỉ là trong cung có quá nhiều mỹ nữ, người có chút tư sắc đều muốn trở thành phi tần, luôn dùng đến mọi thủ đoạn, lúc nào cũng muốn thu hút sự chú ý của hoàng thượng hoàng tử. Cô nàng này tuy đẹp, nhưng cũng không phải là tuyệt sắc khiến người ta vừa gặp đã yêu.
Đáng ghét hơn nữa là, nàng thật sự phá hỏng kế hoạch của hắn, Ngư Thượng cung của Tủ Y Cục vẫn luôn khó dò, nghe nói người có thể trở thành Thượng cung, tất có chỗ bất phàm. Lại càng thêm trùng hợp, từ hai mươi năm trước khi được thăng lên làm Thượng cung, nàng liền an vị chức phận Thượng cung, ngày thường thận trọng, ít khi phạm phải sai lầm. Cô nàng này đến tột cùng là người của ai?
Hắn khẽ cười nói: “Võ công của ngươi rất tốt, liền chuyển đến Thập Lục Trạch hầu hạ ta đi!”
Mặc dù cười nói những lời này, nhưng Băng Nhi không hiểu sao lại cảm thấy nụ cười đó thật sự không có ý tốt. Nàng tự rùng mình một cái, nhìn chăm chú vào bóng dáng rời đi của Lý Dung. Nét đỏ trên mặt liền biến mất, không biết vì sao nàng cảm thấy được ánh mắt chăm chú của An vương nhìn nàng có chút ghê tởm cùng thù hận đan xen?
Nàng đã làm gì sai?
Trời đã về khuya, Băng Nhi vẫn đang thu dọn quần áo. Cánh cửa khẽ mở, Ngư Thượng cung nhẹ nhàng bước vào. Thượng cung khinh công tuyệt diệu, đi đường giống như tiên tử lướt đi vậy. Băng Nhi thường nghĩ, thời trẻ Thượng cung đại nhân nhất định là một mỹ nữ khuynh đảo chúng sinh.
Nàng được Thượng cung đại nhân nuôi dưỡng, hai người yêu thương nhau như mẹ con.
“Thượng cung đại nhân, người còn chưa ngủ sao?”
Thượng cung thở dài, vừa xem xét quần áo của Băng Nhi vừa nói: “Ta vẫn cảm thấy không ổn. Thập Lục Trạch là nơi các hoàng tử ở, ngoài trừ An vương và Quang vương, còn có mấy vị hoàng tử cũng ở đó. Tính cách của con dễ đắc tội với người khác, trước kia ở Tử Y Cục thì không sao, giờ phải đến Thập Lục Trạch, nhỡ đâu không cẩn thận đắc tội mấy vị hoàng tử, chỉ sợ ngay cả chết như thế nào cũng không biết. Gần vua như gần cọp, trong cùng này, càng xa quân vương, mới có thể càng an toàn.”
Băng Nhi mỉm cười, lao vào vòng tay của Thượng cung: “Con biết. Con sẽ cẩn trọng từ lời nói và hành động của mình, sẽ không bao giờ nhiều lời, mọi chuyện sẽ nhẫn nhịn xuống, đại nhân không cần lo lắng cho con. Hơn nữa điều con đến đó là do An vương điện hạ tự mình hạ chỉ, ai có thể bắt nạt con?”
Ngư Thượng cung thở dài: “Nếu là Quang vương thì không sao, ai cũng biết An vương là ma vương trong cung này.” Nàng chỉ nói một câu này rồi không nói tiếp, từ trước đến nay nàng luôn thận trọng, chưa bao giờ nói bất cứ điều gì không nên nói. Câu này đối với nàng mà nói, là lần đầu tiên.
Băng Nhi cười nói: “Con biết. An vương là em của hoàng đế đương thời, luôn được sủng ái nhất. Người trong cung sợ hắn, đương nhiên con cũng sợ. Con sẽ hầu hạ chu đáo, cho dù có chuyện gì xảy ra, tuyệt không liên lụy đến Thượng cung đại nhân.”
Ngư Thượng cung cau mày: “Ta không sợ liên lụy, chỉ sợ con thôi.”
Băng Nhi cũng ý thức được không ổn, vội vàng nói: “Con nói bậy, đại nhân ngàn vạn lần đừng trách con. Người yên tâm, con sẽ thường xuyên tới thăm người, đem mọi chuyện con đã làm đều kể hết cho người nghe.”
Ngư Thượng cung bất đắc dĩ gật đầu nói: “Nếu xảy ra chuyện, lập tức tìm người thông báo cho ta. Nhớ kỹ, Tử Y Cục sẽ luôn là nhà của con.”
Băng Nhi chua xót trong lòng, hai mắt có chút đỏ lên, trong cung này, người duy nhất thực sự quan tâm đến nàng là Ngư Thượng cung. Không biết cha mẹ ruột của nàng là ai, nàng luôn coi Ngư Thượng cung như mẹ đẻ của mình.
Tuy rằng cùng ở trong cung, nhưng tương lai nàng sẽ là người hầu ở Thập Lục Trạch, không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy Ngư Thượng cung, làm sao không buồn khi phải chia tay chứ.
Hay vì nhân lúc đang buồn trong nỗi buồn chia ly này, nàng đã thốt lên một bài thơ:
“Vĩnh hạng trọng môn tiệm bán khai,
Cung quan trứ tỏa cách môn hồi.
Thùy tri tằng tiểu tha nhân xử,
Kim nhật tương thân tự nhập lai.”
(Dịch môn na:
Cánh cửa nặng nề lâu nay dần mở ra,
Quan viên khóa cánh cửa quay về.
Ai ngờ đã từng cười nhạo người khác,
Hôm nay sẽ tự mình bước vào.)
Bài thơ vừa ngâm xong, Ngư Thượng cung đột nhiên thay đổi sắc mặt, thất thanh nói: “Làm sao con biết bài thơ này?”
Băng Nhi giật mình, bài thơ này làm sao mà có được? Nàng nghe ở đâu vậy? Nàng thậm chí còn không nhớ được.
Chỉ là một bài thơ, tại sao Ngư Thượng cung lại hoảng sợ như vậy?