“Anh thợ săn, anh đã vào trong cái nhà đó chứ?”
“Vâng.”
“Thế nào?”
Trương Anh Hào uống một ngụm vang: “Ý ông muốn nói gì?”
“Anh có nghe thấy tiếng thét không?”
“Có.”
Ông chủ quán ngả người ra lưng ghế, mồ hôi chợt túa ra.
“Khốn kiếp.” - Ông ta thì thào. – “Tất cả đều nghe thấy. Dân trong làng ai cũng biết. Có những người thậm chí thức cả đêm chỉ để nghe xem tiếng thét có còn tiếp tục không. Thật là chuyện mâu thuẫn. Ai cũng chờ nghe tiếng thét, mà ai cũng sợ nó.”
“Ông đã lần nào tới đó chưa?”
Người đàn ông giật mình: “Trời đất ơi, không. Không thể đòi hỏi tôi làm điều đó được. Không đời nào tôi bước chân qua ngưỡng cửa của nó. Không, tôi không làm đâu!”
“Thế người trong làng nói sao?”
“Nói là nhà đó có ma.”
“Xin lỗi, nhưng tôi chẳng nhìn thấy con ma nào cả.”
Người đàn ông nhìn Trương Anh Hào trân trân.
“Kìa anh, ma đâu có hiện hình. Anh thợ săn, anh... anh làm sao nhìn thấy chúng. Có lẽ cảm thấy...” - Người đàn ông thì thào. – “Nhưng chỉ thế thôi.”
“Ông nói cũng đúng.”
Ông chủ uống cạn cốc, đưa tay lau miệng: “Đã mấy năm nay chúng tôi tìm lời giải thích mà không tìm được. Khi ngôi nhà bị bỏ hoang là nó bắt đầu kêu.”
“Ý ông muốn nói khi giáo đường bị đóng cửa?”
“Đúng.”
“Thế trước đó thì không?”
Người đàn ông nhún vai: “Không, anh thợ săn. Tôi không nghe thấy. Tôi chẳng thể cung cấp thêm được điều gì. Tất cả chúng tôi dĩ nhiên muốn nó chấm dứt. Anh là niềm hy vọng cuối cùng của chúng tôi. Cả ông Vân Phi cũng rất tin vào anh.”
“Vân Phi là ai vậy?”
“Thái Vân Phi, ông ấy là người làng này. Ông ấy có học thần học, tôn giáo học rồi làm cảnh sát, sau đó vừa nghỉ hưu không lâu và bắt đầu dạy học ở trường cao cấp số 5 thành phố Bôn Mộc Lâm. Trước đây hai tuần, khi về làng nghỉ phép, ông ấy nghe thấy tiếng thét và nói rằng sẽ lo giải quyết chuyện này. Ông Vân Phi nói rằng ông ấy có biết một người quen xử lý những chuyện như thế.”
“Có phải là cha đạo Kinh Nam?” – Trương Anh Hào giả vờ hỏi.
“Cũng có lẽ, ông ấy không nói rõ tên. Anh cũng đã nói chuyện qua với ông Vân Phi rồi mà?”
“Nhưng ngắn quá, mà chỉ qua điện thoại vào lúc sáng.”
“Thế thì ít thật.” - Ông chủ gật đầu đồng tình.
Trương Anh Hào uống thêm một ngụm rượu vang, rồi giữ cốc trong tay và hỏi ông chủ khách sạn: “Thật ra tôi có ý định nói chuyện với ông Vân Phi. Chúng tôi hẹn gặp nhau trong khách sạn này. Ông ta đã đến chưa và có hỏi tin về tôi không?”
“Chưa, chưa đến.”
Trương Anh Hào nhìn đồng hồ: “Đã quá hẹn nửa giờ rồi.”
“Thường khi ông ấy không trễ hẹn như thế đâu.”
Trương Anh Hào nhìn ông chủ: “Ông nói nghiêm chỉnh chứ?”
“Vâng, dĩ nhiên.”
“Vậy thì bây giờ ông ấy có thể ở đâu?”
“Chuyện đó thì đơn giản. Chỉ có một khả năng thôi. Ông ấy ở trong nhà cha mẹ. Thường ngày nó không có người ở. Ông Vân Phi không chịu cho ai thuê cả. Thỉnh thoảng chỉ có một người đàn bà đến dọn dẹp vào những lúc ông Vân Phi đi vắng. Anh thử tới đó xem xem.”
“Tốt lắm. Ngôi nhà đó ở đâu?”
“Rất dễ tìm. Anh cứ đi thẳng tới nhà thờ. Phía bên phải, dọc theo bờ tường là ngôi nhà.”
“Có phải đó là nhà của cha đạo?”
“Không, không phải.” - Ánh mắt ông chủ khách sạn ngả màu thề thốt, phủ nhận. – “Tôi chẳng muốn nhận xét những người khác sau lưng họ, anh thợ săn, nhưng ông Vân Phi có tính hay quên.”
Người đàn ông vừa nói vừa gõ gõ lên trán: “Chẳng phải ông ấy kém thông minh đâu, mà do ông ấy suy nghĩ quá nhiều. Trong đầu bao giờ cũng có những chuyện khác. Chắc anh hiểu tôi nói gì, anh thợ săn?”
“Vâng, tôi cũng vậy.”
“Tôi không nói thế đâu nhé.”
“Ông đừng lo.” - Trương Anh Hào nói và đứng dậy, kéo ghế ra sau. – “Nó ở trong làng thì chắc tôi đi bộ cũng được.”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Cám ơn ông, ta sẽ gặp lại nhau sau.”
Trương Anh Hào rời khách sạn. Lúc còn ngồi trong quán Trương Anh Hào đã để ý đến ánh sáng bên ngoài. Mặt trời lúc mười một giờ hơn đã xua tan gần hết lớp sương.
Trương Anh Hào đi bộ qua một làng quê thanh vắng, lắng nghe tiếng róc rách của con suối nhỏ vẫn còn chưa bị xây bờ kè mà uốn lượn theo dòng tự nhiên của nó như từ ngàn năm trước. Trên đường, Trương Anh Hào hầu như chẳng gặp ai.
Rời con đường dẫn, Trương Anh Hào đi ngang một trường học. Mọi cửa sổ đều mở toang để đón nắng. Trương Anh Hào nghe tiếng người nói, tiếng hát. Ở xứ sở này có vẻ như cả trẻ con cũng còn rất thích tới trường.
Những bụi cây mọc cao lên dọc hai bên con đường nhỏ và tỏa những quầng lá của chúng ra như những bàn tay che chở. Qua những khoảng thưa cây, khách bộ hành có thể nhìn thấy những triền đồi trồng nho. Mùa thu hoạch nho đã bắt đầu.
Trương Anh Hào nhìn thấy khoảng tường, nhìn thấy nhà thờ với tháp chuông sơn trắng kiêu hãnh vươn lên trời cao.
Trương Anh Hào đi dọc bờ tường. Chẳng bao lâu, con đường uốn sang phải. Một bụi cây lớn thoáng che tầm nhìn của Trương Anh Hào, thế rồi xuất hiện ngôi nhà nhỏ và một khoảng sân hẹp đằng trước. Một vùng sân được lát bằng những viên đá nhỏ, xám và vuông.
Ngôi nhà khiến Trương Anh Hào thích thú. Nó hơi bị nghiêng và có vẻ rất cổ. Cả ở đây, khung gỗ cũng ánh lên lờ mờ dưới lớp cây leo phủ bên trên. Những cành nho tạo thành một lớp rèm dày, kéo lên tới mái.
Đường dẫn lên cửa ra vào là ba bậc thang bằng đá. Các bậc thang tương đối cao và đã mòn nhiều.
Cánh cửa gỗ được quét màu đỏ thẫm, nhưng lớp sơn chưa đủ dày để che hẳn màu xanh bên dưới. Một vài cành nho mọc uốn quanh góc cửa, lá che khuất nút chuông.
Một ngọn gió thổi tới, mang theo hơi thở mát lành của núi rừng.
Khi tiếng chuông nhà thờ bất chợt vang lên, Trương Anh Hào nhìn xuống đồng hồ.
Mười hai giờ trưa!
Còn có nơi nào thanh vắng hơn chỗ này?
Đã gắng nhìn qua khuôn cửa sổ nhỏ mà không kết quả, Trương Anh Hào bấm chuông. Khi tiếng chuông thứ ba chìm bẵng vào yên lặng, Trương Anh Hào bắt đầu thấy lo lắng.
Mặc dù biết Thái Vân Phi chưa lâu, nhưng nghe chuyện qua điện thoại Trương Anh Hào đã có cảm giác đó là một người đáng tin cậy. Việc ông ta thất hẹn thật khó giải thích.
Hay hắn và ông ta đã hiểu lầm nhau?
Cảm giác bất an trong Trương Anh Hào lớn thêm. Dù Trương Anh Hào thuộc người đa nghi, nghề nghiệp đã dạy cho Trương Anh Hào biết cảnh giác, nhưng hắn không có đụng đâu thì đa nghi đó. Dẫu vậy, ở trường hợp lúc này, Trương Anh Hào nâng sự đa nghi và cảnh giác của mình lên mức độ cao nhất. Trương Anh Hào không thể xua đuổi được cảm giác bất an đó, dù đang đứng giữa một miền đất thanh bình đẹp tuyệt vời.
Trương Anh Hào đặt tay lên nắm đấm cửa, trong lòng thừa biết người dân ở những làng quê nhỏ ít khi đóng cửa nhà. Họ đã quen như vậy từ xa xưa và không ai nghĩ tới chuyện thay đổi thói quen đó.
Cả cửa ra vào của ngôi nhà này cũng mở.
Đầu ngón chân Trương Anh Hào đẩy nó vào trong. Chầm chậm, cánh cửa mở ra, để lộ một khoảng hành lang hẹp với những bức tường thẫm màu. Mùi Trương Anh Hào ngửi thấy là mùi ngôi nhà thường bị để vắng. Nó là cái mùi tiêu biểu của khoảng không gian không được lấp đầy bằng sự sống, một cái mùi rất khó định nghĩa, nhưng rõ ràng hiện hữu và dai dẳng thấm vào từng viên gạch trên tường. Cũng có lẽ một phần bởi nó lạnh. Nhiều nhà xứ này bây giờ đã bắt đầu đốt lò vì nhiệt độ về đêm đã khá thấp.
Phía bên phải là một dãy phòng với những khuôn cửa thấp. Trương Anh Hào phải rụt đầu khi bước qua ngưỡng cửa. Những ván gỗ lát sàn kêu lên dưới chân Trương Anh Hào. Gỗ đã cũ và mềm. Ở một vài chỗ có bốc nhẹ mùi xà phòng đánh bóng sàn.
Trương Anh Hào bước vào căn phòng đầu tiên.
Đó là nhà bếp.
Nó không được trang hoàng hiện đại, mà để nguyên như từ thời cũ. Một phong cách đã trở thành mốt mấy năm trở lại đây. Bếp vẫn còn được đun bằng than. Cái tủ được làm bằng gỗ thẫm màu, chao đèn trên trần phòng có những đường hoa văn mềm mại.
Không thấy Thái Vân Phi đâu.
Ngôi nhà thở.
Nó thở ra một vẻ tĩnh lặng nặng nề, bất bình thường. Sự tĩnh lặng như đang tỏa ra từ mỗi khoảng tường và tóm lấy Trương Anh Hào.
Khi ra lại hành lang, Trương Anh Hào đi đến bên cầu thang, đứng lại.
Những bậc thang hẹp dẫn lên trên. Khúc cuối hành lang lầu một có khuôn cửa sổ nhỏ. Một chút ánh mặt trời đang hắt qua đó vào nhà. Rồi chỉ một thoáng sau đó, khuôn cửa thoắt chìm trong ánh lờ mờ. Chắc mặt trời ngoài kia lại bị mây che khuất.
Trương Anh Hào ở lại dưới tầng trệt, đi ngang qua cầu thang, nhìn thấy một cánh cửa khác.
Cửa mở hé.
Trương Anh Hào mở rộng nó ra. Xuất hiện một căn phòng tối. Sau đó vài giây, mắt Trương Anh Hào mới nhận ra những dãy kệ thật cao, đựng đầy sách vở. Rèm bên hai khuôn cửa sổ đều được kéo kín.
Đứng ở ngoài, Trương Anh Hào thấy căn phòng không có người. Phòng còn có một bàn viết, nó cũng được làm bằng một thứ gỗ thẫm màu, trông rất đồ sộ và được kê đứng trước các kệ sách.
Trương Anh Hào đi thẳng về hướng cái bàn.
Mặt bàn để ngổn ngang sách và giấy viết. Trương Anh Hào đi vòng sang phía trái bàn, nhìn thấy một chiếc ghế có lưng dựa rất cao. Đúng lúc đã bật đèn pin, chuẩn bị xem chỗ sách trên bàn thì Trương Anh Hào khựng lại.
Phía bên kia có cái gì đang nhô lên từ nền phòng.
Hai vật thể thẫm màu, trông lờ mờ trong bóng tối. Chỉ khi tiến thêm một bước về hướng nó, Trương Anh Hào mới nhìn được rõ hơn.
Đó là hai chiếc giày dựng đứng. Và trong giày là hai bàn chân người.
Chúng là chân của người đàn ông đang nằm ngửa trên nền phòng, bất động.
Thái Vân Phi.
Tia sáng nhỏ như cây bút chì từ ngọn đèn pin của Trương Anh Hào đập gay gắt vào khuôn mặt cứng đờ với hai hốc má lõm vào, đôi mắt kinh hoàng mở to và cái miệng há hốc, trông như một cái hang được khoét vào giữa khuôn mặt nhợt.