NGÀY MỒNG MỘT XUÂN TÂN DẬU 1981.
Tết
năm 1981 Tết của yên bình và dư thừa vật chất.
Lần
đầu tiên từ ngày qua K, toàn sư đoàn có chủ trương giải quyết chính sách phục
viên, phép cho cán bộ từ năm 1977 chưa đi phép.
Ngày
30 Tết, từ F bộ, nhận được cú điện thoại của anh Diệp Ngọc Chinh, nhập ngũ năm
1972, là tá cyủa C1D1E95 quê An Khánh - Đại Từ - Bắc Thái thông báo: Sau tết phục
viên. Mời “con rể” mồng Một lên “khướt” (chả hiểu nó nghĩa gì, nhưng đại khái
hiểu là ăn nhậu).
“Tình
nghĩa anh em khi còn ở biên giới, đã nhiều lần vượt tường lửa đánh ra đường 19…
Có một đứa con gái sinh năm 1976 kết quả của chuyến phép cùng năm… Chỉ mới năm
tuổi mà cứ tuyên bố gả cho những thằng nào biết điều với bố. Tính ra ở khu vực
D1 vị y tá này đã tuyên bố gả con gái cho hơn một trăm anh em… Có giá thật.”
Trưa
ngày mồng Một, bám càng xe của Phòng Chính trị sư đoàn lên chúc tết anh em D1,
do anh Tuyên trợ lí thanh niên của F dẫn đầu.
Khi
xe cách chùa chừng vài kilômét, là chốt của C1, nhảy xuống xe… đã thấy một số
anh em đã có chút men, đang đứng dưới những gốc cây bằng lăng đực thẳng tắp xỉa
răng nhóp nhép… Chả hiểu có ông nào la lớn “Ông Hà lên kìa bố Chinh ơi!”
Một
dáng người xiêu vẹo, bước ra khỏi nhà của Nuôi quân và ngả nghiêng nói “Đ… chị cậu!
Tớ đ… gả con cho cậu nữa”… đôi mắt mang hình viên đạn… và ngã ầm trên giường của
anh nuôi quân.
C
trưởng C1 Nguyễn văn Siêu nắm tay, kéo vào nhà BCH C1… nhìn hai hàng ghế tre… đầy
đủ quan văn bá võ của cả D1 và D3. Trên bàn thịt gà… rượu chuối… rượu Bayon… còn
đầy rẫy…
D
phó D3 Thượng úy Thìn dõng dạc tuyên bố “Phải cho C phó trinh sát này chết tại
chỗ hôm nay, không cho thoát”… những tiếng đồng tình phụ họa theo.
Một
bát rượu đầy (loại 4 tấn) do Chính trị viên C1 Thân văn Chấn (Hà Bắc) rót và
mang tới… Cha mẹ ơi! Từ nhỏ đến giờ…
D
phó D1 Thông (Thông liều) đến đứng phía sau kiểm tra độ cạn của chén rượu.
Buộc
phải một hơi… nước chạy đến đâu… hơi nóng lan tỏa đến đó.
Tranh
thủ húp vội chén cháo gà chống vả, nhưng cũng không kịp đến bát thứ hai… Đất trời
nghiêng ngả…tất cả là màu vàng… cây lá… bầu trời… anh em bên cạnh… màu vàng tất
tật… Vào cõi thiền…
Tỉnh
dậy… nằm trên võng dưới rừng cây bằng lăng. Trong nhà BCH vẫn còn rôm rả… Xuống
bếp kiếm nước uống cho đỡ khát, tìm cách ra khỏi trận địa bằng cách vòng quanh
qua các B…
Tất
cả anh em các B đang tranh thủ viết thư về nhà. Đợt này C1 có ba người rời khỏi
đơn vị. Anh Chinh (Y tá) Anh Hòe (Quản lí) ra quân. Anh Siêu (C trưởng) về nước
đi học.
Dù
không nói ra nhưng tất cả anh em đều mang một tâm trạng… Buồn.
Chiến
tranh sẽ không biết về đâu. Năm dài tháng rộng nơi chiến trường… Nghĩa vụ ba
năm rồi về, nay có người đã đủ niên hạn (anh em 1977)… hoàn cảnh của từng con
người đều có chung những khó khăn, vài người vừa viết thư nước mắt vừa chảy rơi
trên trang giấy, những đôi mắt ngấn lệ.
Nghĩ
lại chính mình…
Gia
đình đã vào Nam, không được nhập hộ khẩu, không có địa chỉ để viết thư trực tiếp,
nơi xứ lạ lấy địa chỉ một người khác để viết thư là chuyện khó thực hiện.
Thời
gian dài quá rồi… xuân sắc của người con gái được ví như mọi loài hoa… nở -
tàn, tin dữ từ chiến trường truyền về quê qua những cánh thư… Đợi (95) hi sinh ở
428, Thu (29) hi sinh ở Kulen, Nhị (c14 -95) hi sinh ở Kamtuot và nhiều anh em
là thương binh, đã về đến nhà an dưỡng. Sự chờ đợi nhau là ảo tưởng, sức ép của
gia đình, bạn bè…và cơ bản hơn là có còn để về không? Ngày trở về có còn nguyên
vẹn hay không? Câu hỏi vẫn chưa có lời đáp một cách chính xác.
Những
cánh thư ít dần, ít dần theo năm tháng… Đến một ngày, nhận được tin không vui “khôn
ba năm, dại một giờ.” Lời thề non hẹn biển của ngày xưa, đâu là gì so với nghịch
cảnh của chiến tranh. Giao ước thì thầm trong bóng đêm ngày xưa ta trao cho
nhau, đã không thể biến thành giao ước giữa cuộc đời, nơi thanh thiên bạch nhật.
Thôi
cố quên và nuốt nó vào lòng. Hãy tha thứ cho nhau vì những điều không ai muốn.
Vị
tha cho nhau… để ngày mai viên đạn anh bắn đi… sẽ vì hạnh phúc của mọi người… trong
đó có cả hạnh phúc mà mình vừa vuột khỏi tầm tay.