KỈ NIỆM CONGPONG THOM
Mùa
mưa năm 1981… không thể nhớ là tháng mấy vì mưa đã bắt đầu, hai bên đường từ F
bộ F307 qua Phnom Tabeng… qua đường 12… hai bên đường cỏ đã xanh rì… không còn
cảnh hoang tàn chết cháy của mùa khô rừng khộp…
Qua
ranh giới giữa tỉnh Preah Vihear và tỉnh Congpong Thom vài giờ xe chạy… đã nhìn
thấy những cánh đồng xanh với những cánh cò bay lả bay la… không khí yên bình lần
đầu tiên được chứng kiến, sau hơn hai năm lặn lội dọc theo dãy Dangrek.
Ngỡ
ngàng như trong mơ… và cảnh mơ nhưng thật
Khoảng
năm giờ chiều, chiếc xe chở phái đoàn của F307 về Congpong Thom dự cuộc họp của
MT719 bắt đầu vào thị xã. Chưa vượt qua chiếc cầu bắc qua sông Xen về phía bên
phải… là giờ tan trường của một trường cấp ba. Màu trắng và xanh ngợp cả một
góc trời. Nữ sinh mặc áo sơ mi trắng, thật trắng và xà rông xanh da trời, nam
sinh cũng áo trắng và quần xanh…
Có
lẽ do hoàn cảnh chiến tranh, hầu hết học sinh trường này đã quá tuổi quy định.
Xe chạy chầm chậm… lướt qua những nhóm học sinh. Những nữ sinh đã đến tuổi trưởng
thành, trên thân thể lộ rõ nét xuân và tràn trề nhựa sống. Con gái K vùng này
khác xa trên Preah vihear… da trắng trẻo hơn, gương mặt khả ái, và ngay cả dáng
đi cũng dễ làm xiêu lòng người. Những người lính f307 cũng đắm đuối nhìn những
nữ sinh mang dáng thiếu nữ đang tung tăng cười nói dọc hai bên đường.
Có
vài nhóm học sinh cũng vẫy tay chào những người lính tình nguyện Việt Nam… với
những bàn tay trắng nõn nà và những nụ cười quyến rũ trên đôi môi hồng.
Xe
vượt qua chiếc cầu và rẽ phải theo dọc bờ sông… hai bên bờ những hàng dừa trĩu
quả, và phía bên kia là chợ đã thưa thớt bóng người.
Qua
một ngã tư có hình đầu thần quay bốn hướng, chiếc xe đỗ lại một khu nhà sang trọng,
với mái ngói đỏ và vườn cây xanh bao bọc. Tư lệnh và bộ phận TM của F xuống xe,
bước đến vọng gác nói phiên hiệu của đơn vị với anh vệ binh, và có một vị Trung
tá ra đón. Tôi giao ba lô đựng bản đồ tác chiến của toàn sư đoàn cho Trưởng ban
trinh sát F, và theo mấy anh vệ binh về vị trí quy định của MT719.
Đêm
đó dù có mấy anh Vệ binh rủ đi chơi, nhưng vì chưa có lệnh của Thủ trưởng nên
chúng tôi ở lại khu vực quy định.
Sau
giờ cơm sáng, đích thân Tư lệnh đến giao nhiệm vụ, nói rõ những quy định và
quán triệt một số vấn đề. Chúng tôi được phép đi chơi, không mang súng theo và
có một nửa lực lượng ở nhà chờ công tác (thực ra thì chả có công tác gì cả, ở lại
giữ đồ đạc và vũ khí cho anh em).
Theo
yêu cầu của MT719 thì tất cả phải đeo quân hàm khi ở trong khu vực. Khổ nỗi
trên ve áo chúng tôi chưa có hai cái móc để đeo quân hàm, lại đi mượn kim chỉ của
vệ binh…
Việc
đầu tiên là tôi đi tìm tiệm thuốc Tây để mua một ít thuốc chữa chứng đau thần
kinh tọa, vì đi một ngày đường ê ẩm cả lưng. Hỏi thăm mãi mới có một tiệm thuốc
Tây, ngay bên cạnh rạp chiếu bóng… Vòng qua vòng lại thấy có một quán cà phê viết
bằng tiếng Việt hẳn hoi “Hoa Anh Đào.”
Mấy
anh em bước vào quán.
Chủ
quán là một phụ nữ Việt chừng hơn ba mươi tuổi, nhan sắc cũng còn mặn mà, có bốn
em người Campuchia giúp việc. Trong quán mở toàn nhạc Chế Linh – Thanh Tuyền
trước năm 1975. Hầu hết khách trong quán là bộ đội mình, và bộ đội của bác Hun.
Người
mang cà phê ra là một thiếu nữ Campuchia trạc tuổi chúng tôi. Không đẹp nhưng rất
có duyên với cặp mắt đẹp quyến rũ.
Ngôn
ngữ bất đồng… chỉ nhìn nhau cười.
Tôi
đảo mắt nhìn xung quanh quán, dè chừng đường rút khi có tình huống xấu.
Mấy
anh em ngồi uống cà phê và nghe nhạc…thả hồn trong tiếng nhạc du dương của những
bài nhạc vàng…
Bất
chợt quay vào trong… thấy đôi mắt em đang nhìn chúng tôi. Có gì đâu mà nhìn hởi
cô thiếu nữ Campuchia duyên dáng kia ơi?
Thì
ra trang phục của chúng tôi khác xa với anh em QK7 và QĐ4 có mặt ở đây. Đa số
là anh em bên ngành hậu cần và kĩ thuật, quần áo tươm tất và tiền rủng rỉnh
trong túi.
Phía
trong quán các cô đang nói và cười điều gì đấy, nhưng những cặp mắt có ánh lửa
kia vẫn không rời những gương mặt của anh em chúng tôi. Tôi cũng nhìn lại đáp lễ
và nhoẻn miệng cười.
Hết
hai mặt của cuộn băng cassette C90 chúng tôi kêu chủ quán tính tiền. cô chủ
quán đến chào hỏi rất lịch sự xưng các anh ngọt như mía lùi. Thời đó chúng tôi
không có tiền Riels và phải dùng tiền Việt với tỉ lệ đổi là 1R/ 2.5 VNĐ.
Khi
chúng tôi bước ra khỏi quán, các cô cũng nhìn theo và vẫy tay chào chúng tôi.
Chiều
tối hôm đó, chúng tôi theo mấy anh vệ binh của MT719 đi vòng quanh thị xã. Khi
ngang qua rạp chiếu bóng tôi nghe bài hát “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn (nhạc
phim Việt Nam).
Do
không thể vào rạp xem phim, tôi cùng hai anh vệ binh người thành phố Hồ chí
Minh ghé vào quán. Vì quán nhỏ, không có điện nên ban đêm họ không bán. Chúng
tôi vào ngồi chung với cô chủ quán và những cô bán phụ ngay trước quán.
Do
không biết tiếng K, nên tôi chỉ ngồi nghe họ nói chuyện. Có lẽ họ đang bàn tán
về tôi vì là người lạ, thỉnh thoảng các cô lại cười.
Sau
đó cả nhóm kéo ra ngay tượng con voi ngồi nói chuyện phiếm. Tôi như người từ một
thế giới khác… chỉ nghe… nhìn các cô…và cười.
Do
chân đế của bức tượng nhỏ nên cả bảy người phải chen nhau ngồi. Tôi ngồi cạnh
em, một thiếu nữ Campuchia… tiết trời mùa mưa hơi se lạnh… nhưng tôi cảm thấy
hơi ấm tỏa ra từ em… vì đã lâu rồi tôi không còn cảm nhận hơi ấm ấy nữa.