Khom Lưng

Chương 125




Công Tôn Dương nói: “Chúa công bớt giận. Nữ quân đâu dám bất kính với chúa công? Cũng vì người có nỗi khổ tâm trong lòng. Như vừa rồi người nói, chúa công là phu quân của Nữ quân, nhưng Bỉ Trệ cũng không phải người ngoài, đứng ở vị trí của Nữ quân, sao người muốn nhìn thấy hai nhà tranh đấu chứ. Cho nên nếu có hành động vô lễ cũng có thể thông cảm được. Mong chúa công bỏ quá một hai”.


Ngụy Thiệu trầm mặt: “Sao quân sư phải nói chuyện thay nàng? Lúc nãy nàng ấy mới nói gì với ông? Tố cáo ta phải không?”


Công Tôn Dương đã có kinh nghiệm rồi, mỗi khi Quân hầu thấy bất mãn với mình, ngài ấy sẽ chuyển từ xưng hô “tiên sinh” đổi thành “quân sư”, nói vậy là biết đã chạm vào vảy ngược của hắn.


Ông vội nói: “Quân hầu chớ hiểu lầm. Vừa rồi Nữ quân tới tìm chỉ nói với ta là mình đã chọc giận Quân hầu, Quân hầu không cho phép người nói, để hóa giải hiểu lầm, Nữ quân đành phải chuyển thư Bỉ Trệ tới cho ta. Mong Quân hầu bớt giận. Ta đã làm quân sư được nhiều năm, trận chiến Linh Bích cũng không phải là việc nhà chúa công, vì vậy ta mới cả gan nhận thư này”.


“Quân sư không cần nhiều lời, chuyện Linh Bích ý ta đã quyết, sao có thể vì một phụ nhân mà thay đổi?”


Công Tôn Dương nhìn hắn.


Hai mắt trừng trừng nhìn thẳng về hướng cửa vẻ mặt quái lạ, hơn nữa mặc dù giọng điệu vừa rồi như đông cứng, nhưng hình như không thấy tức giận được bao nhiêu.


Nhất thời Công Tôn Dương cũng đoán không ra Quân hầu đang nghĩ gì lúc này. Ông bèn dâng phong thư mà Nữ quân đưa tới, tới trước mặt Ngụy Thiệu: “Đây là thư của Bỉ Trệ. Mong chúa công xem thử.”


Ngụy Thiệu quay sang liếc nhìn một cái nhưng không tiếp.


Công Tôn Dương bèn mở bức thư ra, trầm bổng du dương đọc hết qua một lượt. Sau khi đọc xong, ông mới nói: “Trận chiến Linh Bích có đáng đánh hay không, trước kia ta đã từng phân tích, từ trước đến nay chúa công vẫn sáng suốt anh minh,  chuyện nào quan trọng chuyện nào không, đương nhiên ngài càng rõ ràng hơn ta nữa. Lần này ta cũng không dám nói gì với chúa công. Chỉ xin phép được nói về Bỉ Trệ.”


“Bỉ Trệ xuất thân là tên cầm đầu lưu dân, nhưng lại có thể khiến cho Tiết Thái bỏ mình, hai lần đánh bại được Dương Tín, là một đại tướng rất có tài, điều này không cần phải nghi ngờ gì cả. Trong thư mà hắn gửi, Bỉ Trệ chưa từng nhắc đến thân phận là huynh đệ cột chèo với chúa công, qua những hàng chữ đó chỉ thấy rõ một tấm lòng thành khẩn, hắn tự nói hình như chúa công có gì đó hiểu nhầm, xin chúa công hãy rộng lòng bao dung. Hắn chủ động cầu hoà với chúa công, nếu như thế, sao chúa công không nhận lấy điều này? Tâm năng chế nghĩa viết độ, chiếu lâm tứ phương viết minh[1]. Cao Đào thời xưa thường lấy Chín đức nói với Vũ[2], viết: Khoan dung mà sợ hãi, nghiêm khắc mà ôn nhu, cường mà nghĩa, tắc chương quyết hữu thường, may mắn quá chăng[3]!”


[1] trích trong Tả Truyền, Chiêu công nhị thập bát niên: Theo như Tặc hiểu thì tấm lòng có thể tạo nên lễ nghĩa, bao dung, bốn phương đã chứng minh rõ ràng như thế.


[2] Vũ: vua Vũ, vua đầu tiên thời Hạ ở TQ.


[3] Trích trong sử ký: Hạ bản kí


Ngụy Thiệu trầm mặc.


Công Tôn Dương bỗng ho khan vài tiếng, khuôn mặt Ngụy Thiệu hơi động đậy, hắn đang định đứng lên thì Công Tôn Dương đã khoát tay áo ngừng ho: “Tới giờ ta vẫn còn nhớ rõ, năm chúa công mười bảy tuổi đã tự mình dẫn quân, lão phu nhân từng gọi ta tới bảo, lúc đó bà đã cảm khái mừng rỡ tới mức nào. Lão phu nhân từng hỏi Dương thấy bà như thế nào. Dương nói, lão phu nhân giống một cơn sấm lướt nhanh, hành sựquyết đoán, không thua gì các đấng mày râu. Vậy mà lão phu nhân lại đáp lời một câu, đến bây giờ ký ức đó vẫn chưa hề phai nhạt.”


“Lão phu nhân nói, lòng người nói nhỏthì rất nhỏ, mà cũng rộng lượng đến bao la[4], cũng giống như trăm sông nghìn núi, dẫu chăng có ích được cho đời. Nhớ lại nửa cuộc đời gian khổ đã trôi qua, có thể có được ngày hôm nay, đây cũng là điều duy nhất mà bà từng cảm khái”.  


[4] Phỏng theo câu Quân tử chi tâm bất thẳng kỳ tiểu, nhi khí lượng hàm ích nhất thế [Thanh – Kim Anh]


Ngụy Thiệu vẫn trầm mặc như trước.


Công Tôn Dương cũng không lên tiếng nữa.


Chốc lát sau, Ngụy Thiệu lạnh lùng nói: “Ý của tiên sinh là muốn ta buông tha cho cái tên cầm đầu lưu dân kia, nếu không ta chính là kẻ lòng dạ nhỏ nhen sao?”


Công Tôn Dương cười nói: “Sao chúa công lại nói như thế được? Nếu chúa công chỉlà người nhỏ mọn, sao dưới trướng có thể có nhiều tướng tài hết lòng nghe theo lệnh của ngài?”


Ánh mắt Ngụy Thiệu rơi xuống cánh cửa phía đối diện, xuất thần một lúc, rốt cuộc hắn mới nói: “Viết thư cho Dương Tín, lui binh.”


Công Tôn Dương mừng rỡ, vội trả lời: “Tuân mệnh.”


Ngụy Thiệu đứng dậy đi ra ngoài.


Công Tôn Dương cũng đi theo tiễn hắn.


Ngụy Thiệu đi tới cạnh cửa thì chợt nhớ ra, hắn hỏi: “Bao giờ Quách Thuyên sứ giả sẽ đến Tín Đô?”


Quách Thuyên Tể Bắc Hầu, tiếp giáp với Thanh Châu của Viên Giả, sau khi Ngụy Thiệu bình định phía Tây xong, uy thế càng lúc càng tăng cao, Quách Thuyên cũng vô cùng ngưỡng mộ. Nếu như Dương Tín cũng đã quy phục rồi, hắn tự thấy bản thân không có khả năng tranh thiên hạ, thay vì bị Viên Giả chiếm đoạt, không bằng nương nhờ vào Ngụy Thiệu. Biết được tin bây giờ hắn đang ở Tín Đô, Quách Thuyên tỏ ý cũng nguyện lòng góp sức.


Công Tôn Dương nói: “Tính thời gian đi đường thì cũng sắp tới rồi.” Tiễn hắn xuống dưới bậc cầu thang, nhớ tới Nữ quân, ông lại nói: “Lúc nãy Nữ quân đến đây trông có vẻ lo lắng lắm. Chúa công đi vềthông báo tin đó cho Nữ quân đi, chắc nàng rất vui mừng.”


Ngụy Thiệu ngừng bước: “Quân sư à, mặc dù hôm nay tên cầm đầu lưu dân kia gửi thư cầu hòa, nhưng ai mà biết được sau này hắn sẽ không đối địch với ta? Ta bỏ qua cho hắn là vì ông can gián, chứ không hề liên quan tới ý định của ta hay ý của phu nhân. Nàng vui hay không thì sao chứ?”


Công Tôn Dương ngẩn ra, ông vội nghiêm mặt nói: “Chúa công nói rất có lý. Chúa công nghe theo ý của ta, cũng vì lo lắng cho chúng dân Hoài Viễn. Cuộc chiến Linh Bích vốn chỉ là hiểu lầm, nay hiểu lầm đã tiêu tan, chúa công cũng chấp nhận mong muốn cầu hòa của Bỉ Trệ, chuyện này là thiên kinh địa nghĩa! Sao mà liên quan tới ý của phụ nhân được đây?”


Ngụy Thiệu bảo ông cứ dừng chân, hắn nhanh chóng bước ra ngoài nha môn, tinh thần hơi hoảng hốt, đột nhiên có một thủ vệ quỳ gối nghênh đón hắn, tâu: “Bẩm Quân hầu, vừa rồi Giả tướng quân sai người tới truyền lời, Nữ quân đã đi rồi ạ. Giả tướng quân hộ tống nên sai người tới báo lại một tiếng”.


Ngụy Thiệu sững sờ: “Đi đâu?”


Thủ vệ há miệng, mờ mịt lắc đầu.


Ngụy Thiệu lại ngẩn người một lúc, sắc mắt thoắt đổi, hắn bước nhanh ra cửa lớn nha môn, bước vài bước lớn qua bậc thang bằng đá, đến chỗ buộc ngựa rồi xoay người leo lên. Người qua đường nhìn thấy một con ngựa phi nhanh về phía cửa Nam thành trì, họ nhận ra bóng người đó giống như của Quân hầu, vội vàng dừng bước nhìn lại thử.


Ngụy Thiệu đuổi theo một mạch tới cửa Nam, hắn dừng ngựa nhìn theo con đường dài dằng dặc, nhưng lác đác trên đường chỉ vài người qua lại, cho đến cuối tầm mắt là bụi bay mù mịt, vẫn không nhìn thấy bóng dáng của ngựa xe. Hắn quát với người trông giữ thành: “Vừa rồi có thấy Giả Tư hộ tống xe ngựa ra khỏi thành không?”


Quân hầu vội vàng phi ngựa tới chỗ này, vẻ mặt lạ kì lại giận như nổ phổi. Thủ quan giật mình vội đáp: “Hôm nay thuộc hạ vẫn canh giữ chỗ này, chưa từng thấy Giả tướng quân rời thành”.


Ngụy Thiệu quay đầu vội vàng chạy về phía Tín cung, bước nhanh tới gian phòng của hai người bên trong Xạ Dương cư.


Cả phòng trống rỗng không có bóng một người, ngay cả đồ đạc cũng ít hơn phân nửa. Tất cả đồ dùng hằng ngày của nàng đều không thấy.


Ngụy Thiệu hét lên gọi người tới, mấy vú già hấp tập chạy sang.


“Nữ quân đâu?” Ngụy Thiệu lớn tiếng.


Vú già sợ hãi, nhỏ giọng đáp: “Bẩm Quân hầu, Nữ quân đi về Ngư Dương rồi ạ”.


Bóng người Ngụy Thiệu như bất động.


Phu thê Quân hầu ân ái vô cùng, so với khi họ mới thành hôn thì chẳng khác nào chênh lệch trời và đất, mấy vú già trong Xạ Dương cư đều hiểu rõ chuyện này. Nhưng không biết gây gổ nhau thế nào, Nữ quân lại bỏ lại Quân hầu, tự mình về Ngư Dương. Mấy người đứng chờ ngoài cửa một lúc lâu. Một người thông minh hơn một chút, to gan ngẩng đầu lên, can đảm nói: “Lúc Nữ quân đi vẫn còn sáng, bây giờ trời lại bỗng tối sầm, có lẽ sắp trở trời. Nữ quân cũng mới đi không lâu, nếu đuổi theo chắc là còn kịp…”


Nói chưa hết câu đã nhìn thấy vẻ mặt âm trầm của Quân hầu, hai ánh mắt lạnh lùng quăng tới, người kia đành nín thinh.



Qua giờ ngọ, mặt trời đã biến mất hoàn toàn, trên bầu trời Tín Đô là mây mù giăng kín, mù mịt như thể trời đã tối. Còn chưa tới giờ Dậu, bên trong phòng đã phải thắp đèn lên.


Một mình Ngụy Thiệu trong thư phòng. Cửa ngoài đóng chặt. Gió lách qua khe cửa rồi làm ánh nến trên đài cũng chập chờn sáng tối.


Lòng hắn thấy không yên. Quyển binh thư trong tay dừng lại ở một tờ khá lâu. Rốt cuộc nó cũng bị ném đi. Ngụy Thiệu đi tới trước cửa Bắc, đẩy ra.


Gió rít quất vào mặt, cuốn lấy góc áo hắn tung bay phần phật, làm ánh nến phía sau cũng đồng loạt tắt hết.


Ngụy Thiệu phóng tầm mắt đến chân trời ở phương Bắc xa xăm, mây đen rợp kín, chớp giật như muốn rách cả mây, tiếng sấm ầm ầm rền vang như vọng tới.


Hắn lại xuất thần một lúc lâu.


Một giọt mưa lớn chừng hạt đậu bỗng hắt lên đập vào gò má hắn.


Bên trên đỉnh ngói vang lên tiếng tí tách rền vang.


Hắn thấy trời se lạnh.


Vào thu.



Màn đêm thăm thẳm, mưa càng lúc càng to.


Ngoài cửa sổ lại ánh lên tia chớp. “Ầm”, một tiếng sấm rung trời rung đất, như muốn phá vỡ cả tâm hồn người ta.


Ngụy Thiệu mở mắt ra, xoay người nhìn khoảng không bên gối.


Nàng ấy nhát gan lắm, đến mức không dám nghe tiếng sấm. Nếu bây giờ vẫn nằm cạnh bên mình, nhất định nàng sẽ chui vào lòng mình muốn được hắn chở che.


Trong tim Ngụy Thiệu trống rỗng như bị người ta khoét đi một miếng.


Lại một tia chớp xé rách trời đêm đen như mực, làm nửa thành trì Tín Đô rực sáng như ban ngày.


Trong tiếng sầm rầm rầm không dứt, nhịp tim của hắn cũng thình thình nhảy loạn, bỗng nhiên hắn xoay người xuống đất, vội vàng mặc xiêm y, lấy cái áo tơi, nón lá treo ở gian ngoài, đẩy cửa đi ra. Lúc đôi giày chạm xuống bậc cầu thang, bọt nước vang tung tóe, Ngụy Thiệu sải bước nhanh ra ngoài.



Tiểu Kiều ra cửa khoảng gần trưa, sắc trời vẫn còn tốt. Ai ngờ qua giờ ngọ, mặt trời lại bị mây che khuất.


Còn chưa tới giờ Dậu, bầu trời xám xịt giống vào đêm, bắt đầu đổ cơn mưa.


Mưa càng ngày càng lớn, mưa tầm tã như trút. Dọc đường đi, mưa gió vần vũ suốt khoảng hơn mười dặm, rốt cuộc cũng chạy tới dịch xá, họ vội bước chân vào.


Dịch thừa đã chuẩn bị một gian phòng tốt nhất mời Tiểu Kiều vào nghỉ.


Xuân Nương trải chăn đệm lên giường, bà cũng biết Tiểu Kiều rất sợ sấm nên đêm nay định ở lại cùng nàng.


Tuy vậy Tiểu Kiều vẫn không thể ngủ yên. Nàng nhắm mắt lại, rúc đầu giữa ổ chăn.


Mãi đến quá nửa đêm, tiếng sấm dần thưa bớt, cuối cùng mới từ từ thiếp được.


Xa xa lại bỗng vang lên một tiếng sầm rền.


Tiểu Kiều giật mình tỉnh giấc, tim đập thình thịch, nàng mở choàng mắt ra, nghe thấy tiếng hít thở ngủ say quen thuộc của Xuân Nương, nhịp tim mới từ từ chậm lại.


Miệng khô khốc lại có hơi khó chịu. Nàng không muốn làm Xuân Nương tỉnh giấc nên nhẹ nhàng xuống giường, đi tới bên cạnh bàn, tự rót cho mình nửa ly nước rồi uống vào mấy ngụm. Sau khi để xuống, Tiểu Kiều đi tới bên cửa sổ, đẩy một cánh bị nước mưa thấm ướt.


Gió đêm mang theo hơi thở mát mẻ ùa vào trong, tràn ngập về phía nàng.


Không biết mùa thu năm nay đã tới tự bao giờ.


Trong phòng vang lên tiếng ồn ào náo động làm Xuân Nương bật dậy.


Tiểu Kiều đóng cửa, quay trở lại giường mình.


Đang lúc nửa tỉnh nửa mê, Xuân Nương với tay chạm vào cơ thể mềm mại của Tiểu Kiều, thấy nàng hơi lạnh nên kéo lại góc chăn.


Rốt cuộc Tiểu Kiều cũng thấy mệt. Nàng nhắm mắt lại nghe tiếng mưa không dứt tí tách trên mái ngói, dần ngủ thiếp.


Không biết qua bao lâu, bỗng nhiên cảm thấy có người đang nhẹ nhàng đẩy mình.


Nàng mơ màng mở mắt, trong căn phòng đã thắp một chiếc đèn, không biết Xuân Nương đã dậy từ bao giờ, bà hơi cúi người thấp giọng gọi nàng.


“Nữ quân, Nam quân tới”.


Tiểu Kiều nghe thấy bà nói vậy. Giọng điệu cẩn thận từng li từng tí một.