Kẻ Trộm Sách

Chương 56




š TRẬN ĐÁNH BOM XUỐNG MUNICH ›

NGÀY 9 VÀ 10 THÁNG BA

Đêm thật dài với những quả bom và việc đọc sách. Miệng nó khô khốc, nhưng kẻ trộm sách đã đọc hết năm mươi bốn trang.

Hầu hết bọn trẻ con đã ngủ thiếp đi và không nghe thấy những hồi còi báo hiệu tình trạng an toàn đã trở lại. Cha mẹ chúng đánh thức chúng dậy, hay bế chúng đi lên những bậc cấp của tầng hầm, vào một thế giới của bóng tối.

Từ đằng xa, những ngọn lửa đang cháy, và tôi vừa mới thu nhặt thêm khoảng hơn hai trăm linh hồn bị sát hại nữa.

Tôi đang trên đường quay lại Molching một lần nữa.

Phố Thiên Đàng trống trơn.

Những hồi còi báo động đã ngừng lại trong nhiều giờ đồng hồ, phòng khi có một sự đe dọa nào nữa, và để cho khói hòa vào bầu khí quyển.

Bettina Steiner là người nhận thấy đám cháy nhỏ và những cụm khói ở đằng xa, gần sông Amper. Nó bò lên trời và đứa bé gái vẫn giơ cao ngón tay của mình. “Nhìn kìa.”

Có thể con bé đã nhìn thấy nó trước, nhưng Rudy là người phản ứng lại. Một cách vội vàng, thằng bé không chịu bỏ tay ra khỏi thùng đồ nghề khi nó lao về cuối phố Thiên Đàng, qua nhiều con hẻm nhỏ và bước vào rừng cây. Liesel là người tiếp theo (con bé đành để lại những cuốn sách của mình cho một bà Rosa đang cực lực phản đối), và sau đó là mớ lưa thưa những con người từ vài căn hầm trú ẩn dọc đường đi.

“Rudy, chờ tớ đã!”

Rudy đã không chờ.

Liesel chỉ có thể thấy hộp đồ nghề của Rudy nằm trên chạc ba một thân cây trong khi thằng bé chạy về phía quầng sáng đang tắt dần và chiếc máy bay mù tịt. Máy bay bốc khói, nằm giữa khoảng đất trống bên cạnh con sông. Viên phi công đã cố đáp xuống đây.

Còn cách khoảng hai mươi mét, Rudy dừng lại.

Khi tôi đến, tôi thấy thằng bé đang đứng đó, thở hồng hộc để lấy lại sức.

Những cành cây như tan vào trong bóng tối.

Dây điện và những cây kim vung vãi đầy xung quanh cái máy bay như dầu đổ vào lửa. Bên trái chúng, ba vết cắt đã bị cháy rụi đến tận lòng đất. Tiếng tích tắc xa dần của kim loại đang nguội đi cứ nhanh dần qua từng phút từng giây, cho đến khi chúng đã đứng đó tưởng chừng như suốt nhiều giờ đồng hồ. Đám đông lớn dần lên đang tập hợp lại đằng sau chúng, hơi thở và những câu nói của họ dính chặt vào lưng Liesel.

“Nào,” Rudy nói, “Chúng ta có nên nhìn qua một chút không?”

Nó bước qua những gì còn lại của những cái cây, đến nơi mà xác chiếc máy bay đang bị gắn chặt xuống mặt đất. Mũi của chiếc máy bay ngập trong dòng nước đang chảy, và đôi cánh thì bị bỏ lại một cách xiêu vẹo đằng sau.

Rudy chậm chạp đi một vòng, từ chỗ đuôi máy bay cho đến sườn bên phải.

“Có kính vỡ đấy,” nó nói. “Mảnh kính chắn gió ở khắp nơi.”

Sau đó nó nhìn thấy cái xác.

Rudy Steiner chưa bao giờ nhìn thấy một gương mặt nào tái mét đến vậy.

“Đừng đến đây, Liesel,” nhưng Liesel đã đến.

Con bé có thể nhìn thấy gương mặt tỉnh táo và trần trụi của người phi công phe địch, trong khi những cái cây cao đứng quan sát và dòng sông thì trôi đi. Chiếc máy bay khạc ra vài tiếng ho nữa, và cái đầu người bên trong nó nghiêng từ bên trái sang bên phải. Anh ta nói một điều gì đó mà rõ ràng là chúng không thể hiểu được.

“Lạy các đấng Jesus, Maria và Joseph,” Rudy thì thào. “Anh ta còn sống.”

Cái thùng đồ nghề va mạnh vào sườn máy bay và mang theo cùng với nó âm thanh của nhiều tiếng người nói và tiếng chân người bước hơn.

Sức nóng của đám cháy đã không còn nữa, và buổi bình minh thật tĩnh lặng và đen tối. Chỉ có khói vẫn đang trên đường bò lên trái, nhưng ngay cả nó nữa, cũng sẽ sớm kiệt sức.

Bức tường cây giữ cho sắc màu của một thành phố Munich đang bốc cháy có màu hồng. Lúc này, đôi mắt của thằng nhóc đã quen với không chỉ bóng tối, mà cả với gương mặt của viên phi công nọ nữa. Đôi mắt anh ta như những vệt cà phê, và những vết cắt chạy chằng chịt trên má và cằm của anh. Một bộ đồng phục nhếch nhác ngồi đó, một cách ngang ngạnh, trên ngực của anh ta.

Mặc cho lời khuyên của Rudy, Liesel vẫn bước đến gần hơn, và tôi có thể hứa với bạn rằng chúng tôi đã nhận ra nhau ngay khoảnh khắc ấy.

Ta biết cháu, tôi nghĩ thầm.

Có một cái xe lửa và một thằng bé trai đang ho. Có tuyết và một đứa bé gái quẫn trí.

Cháu đã lớn rồi, tôi nghĩ thầm, nhưng ta vẫn nhận ra cháu.

Con bé không lùi lại hay cố gắng đánh tôi, nhưng tôi biết có điều gì đó đã nói cho nó biết rằng tôi đã ở đó. Liệu con bé có thể ngửi được hơi thở của tôi không? Liệu nó có thể nghe được tiếng trái tim bị nguyền rủa của tôi đang đập đều đều, đang xoay tròn như bản thân tội ác trong bộ ngực chết chóc của tôi chăng? Tôi không biết, nhưng con bé biết tôi, và nó nhìn thẳng vào mặt tôi mà không nhìn đi chỗ khác.

Khi bầu trời bắt đầu sáng lên bởi những nét vẽ bằng than, cả hai chúng tôi đều tiếp tục. Cả hai chúng tôi đều quan sát thằng nhóc khi nó lại thò tay vào thùng đồ nghề của mình một lần nữa và lục lọi qua vài khung ảnh để rồi lôi ra một món đồ chơi nhỏ nhồi bông màu vàng.

Một cách thận trọng, nó bò tới chỗ người đàn ông đang hấp hối.

Nó cẩn thận đặt con gấu bông đang cười lên vai của người phi công. Tai con gấu chạm vào cổ họng anh ta.

Người đàn ông đang hấp hối ấy hít con gấu vào. Anh ta cất tiếng nói. Bằng tiếng Anh, anh nói. “Cảm ơn.” Những vết cắt trên mặt anh mở ra khi anh nói, và một giọt máu nhỏ xiêu vẹo lăn xuống cổ họng anh.

“Cái gì kia?” Rudy hỏi anh ta. “Was hast du gesagt? Anh nói gì?”

Tiếc thay, tôi đã đánh bại anh ta trước khi anh ta có thể trả lời. Thời điểm của anh ta đã tới, và tôi đang vào trong khoang buồng lái. Tôi từ từ hút linh hồn của người phi công ấy ra khỏi bộ đồng phục nhăn nhúm, và cứu anh ta thoát khỏi cái máy bay vỡ nát. Đám đông chơi đùa với sự im lặng khi tôi đi qua họ. Tôi chen lấn xô đẩy họ để thoát ra.

Bên trên tôi, bầu trời có hình bán nguyệt – chỉ là một khoảnh khắc cuối cùng của bóng tối – và tôi thề rằng tôi có thể nhìn thấy một biểu tượng màu đen có hình thù một chữ thập ngoặc. Nó lôi thôi lếch thếch lảng vảng ở bên trên chúng tôi.

“Heil Hitler,” tôi nói, nhưng lúc đó tôi đã lẩn vào những cái cây rồi. Đằng sau tôi, một con gấu bông đang ngồi trên vai của một xác chết. Một cây nến màu vàng chanh đứng bên dưới những cành cây. Linh hồn của người phi công đang ở trong vòng tay tôi.

Hẳn là sẽ công bằng khi nói rằng trong tất cả những năm tháng mà Hitler cai trị, không ai có thể phục vụ cho ngài Quốc trưởng trung thành như tôi. Một con người không thể có một trái tim như trái tim của tôi. Trái tim của con người là một đường thẳng, trong khi tim của tôi là một đường tròn, và tôi có một khả năng bất tận là có mặt ở đúng nơi vào đúng lúc. Những hậu quả của điều này là tôi luôn tìm thấy con người vào những lúc họ tuyệt vời nhất cũng như tồi tệ nhất. Tôi nhìn thấy sự xấu xí và vẻ đẹp của họ, và tôi tự hỏi rằng làm sao mà một thứ như vậy lại có thể mang cả hai thuộc tính này. Dù vậy, họ vẫn có một điều làm tôi ghen tỵ. Loài người, nếu không gì khác, có một cảm giác rất tốt về cái chết.

VỀ NHÀ

Đó là một quãng thời gian của sự đổ máu, những cái máy bay dúm dó và những con gấu bông, nhưng quý một năm 1943 sẽ kết thúc với một yếu tố tích cực cho kẻ trộm sách.

Vào đầu tháng Tư, cục bột băng của Hans Hubermann được tháo đến đầu gối, và ông đáp một chuyến tàu về Munich. Ông sẽ được dành cho một tuần nghỉ ngơi và giải trí ở nhà trước khi gia nhập hàng ngũ của đội quân làm công việc cạo giấy ở trong thành phố. Ông sẽ giúp làm công việc bàn giấy trong quá trình dọn dẹp những nhà máy, hộ dân cư, nhà thờ và bệnh viện ở Munich. Thời gian sẽ nói xem liệu ông có bị gửi ra ngoài để làm công việc sửa chữa hay không. Tất cả sẽ phụ thuộc vào cái chân của ông và tình trạng của thành phố.

Lúc ông về đến nhà thì trời đã tối. Ông về nhà muộn hơn một ngày so với mong đợi, vì xe lửa đã bị hoãn lại trước nguy cơ sẽ có một cuộc không kích khác xảy ra. Ông đứng trước cửa nhà số 33 phố Thiên Đàng và gõ cửa.

Bốn năm trước, Liesel đã được dỗ ngọt để đi qua ngưỡng cửa đó khi con bé xuất hiện lần đầu tiên. Max Vanderburg đã đứng đó với một cái chìa khóa đang cắn vào lòng bàn tay anh. Bây giờ đến lượt Hans Hubermann. Ông gõ cửa bốn lần và kẻ trộm sách ra mở cửa.

“Bố, Bố ơi.”

Hẳn là con bé đã phải nói câu ấy hàng trăm lần khi nó ôm chầm lấy ông trong nhà bếp và không chịu buông ra.

Sau đó, khi họ đã dùng bữa xong, họ ngồi tại cái bàn trong bếp cho đến tận đêm khuya, và Hans kể cho vợ mình và Liesel Meminger nghe mọi chuyện. Ông giải thích về đơn vị LSE, những con đường ngập ngụa khói và những linh hồn khốn khổ, lạc lối, đi lang thang. Và về Reinhold Zucker. Cái gã Reinhold Zucker tội nghiệp và ngu ngốc ấy. Ông kể trong nhiều giờ đồng hồ.

Lúc một giờ sáng, Liesel lên giường ngủ, và Bố đi vào để ngồi cùng với nó, như ông vẫn thường làm thế. Con bé thức dậy vài lần để kiểm tra xem ông còn ở đó không, và ông đã không làm nó thất vọng.

Đêm thật yên ả.

Cái giường của con bé thật ấm áp và êm ái với sự hài lòng.

Phải, đêm hôm đó thật là tuyệt để được làm Liesel Meminger, và sự yên ả, ấm áp và êm ái ấy sẽ kéo dài thêm khoảng ba tháng nữa.

Nhưng câu chuyện của con bé thì kéo dài sáu tháng.