Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 31




Ban đêm, họ nghe thấy tiếng bà la hét.

Những cơn đau nửa đầu hành hạ và không cho bà ngủ. Từ giờ, ngay cả morphin cũng không thể làm dịu chúng. Bà vùng vẫy trên giường và la hét cho đến khi tắt tiếng. Vẻ đẹp ngày trước mà bà từng bỏ công gìn giữ trước sự tàn phá không ngừng của thời gian nay đã tàn lụi. Bà trở nên dễ bị tổn thương. Bà, một người từng rất để ý đến ngôn từ và ăn nói chừng mực, nay lại thành ra thô tục không tưởng tượng nổi. Bà chửi rủa tất cả mọi người. Chửi chồng, người đã chết quá sớm. Chửi con gái, đứa đã bỏ chạy khỏi bà. Và cả Chúa nữa, vì đã làm bà ra nông nỗi này.

Chỉ hắn mới xoa dịu được bà.

Hắn vào phòng bà, trói hai tay bà vào giường bằng một chiếc khăn lụa, để bà không tự làm đau mình. Bà đã rứt sạch cả chỗ tóc trên đầu, khuôn mặt đầy các vệt máu đã khô sau những lần bà chọc móng tay vào da thịt.

“Joseph”, bà gọi tên hắn khi được hắn vuốt trán. “Con hãy nói mẹ là người mẹ tốt đi. Nói đi, mẹ xin con đấy”.

Và hắn vừa nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của bà vừa nói những gì bà muốn nghe.

Joseph B. Rockford đã ba mươi hai tuổi. Hắn chỉ còn mười tám năm trước khi về chầu Diêm Vương. Ít lâu trước đó, hắn đã nhờ đến một nhà di truyền học tên tuổi để xem mình có phải chịu chung số phận với cha và ông nội hay không. Do hiểu biết hạn hẹp thời đó về sự di truyền của các loại bệnh tật, câu trả lời khá là mơ hồ: khả năng hắn bị mắc hội chứng bẩm sinh hiếm gặp đó dao động trong khoảng từ bốn mươi đến bảy mươi phần trăm. Từ lúc đó, Joseph sống với bản án tử của mình. Tất cả mọi thứ khác chỉ là những “giai đoạn” để tiến đến kết thúc. Giống như căn bệnh của mẹ hắn. Hằng đêm, ngôi nhà lớn bị rúng động bởi những tiếng la hét dị thường của bà, chúng vang dội khắp các gian phòng mênh mông. Sau nhiều tháng trời bị mất ngủ, Joseph đã quen đi ngủ với hai cái nút tai, để khỏi phải chịu cái cực hình đó.

Nhưng như vậy cũng không đủ.

Một hôm, vào khoảng bốn giờ sáng, hắn thức dậy. Hắn đã có một giấc mơ nhưng không sao nhớ lại được. Nhưng không phải chuyện đó. Hắn ngồi trên giường, cố tìm hiểu xem điều gì đã lôi hắn ra khỏi giấc ngủ.

Cả ngôi nhà chìm trong một sự im lặng lạ thường.

Joseph hiểu ngay. Hắn đứng dậy, mặc một chiếc quần dài, áo thun cổ lọ và áo khoác Barbour màu xanh lá. Sau đó hắn rời phòng, ngang qua căn phòng đang đóng cửa của bà mẹ và đi tiếp. Hắn bước xuống cầu thang đồ sộ bằng cẩm thạch, và sau đó vài phút, hắn ra bên ngoài.

Hắn đi hết lối đi dài trong khuôn viên nhà cho đến cánh cổng phía tây, là nơi thường dành cho các nhà cung cấp và các gia nhân. Thế giới của hắn giới hạn tại đây. Hồi còn nhỏ, hắn đã khám phá đến tận đây, cùng với Lara. Mặc dù nhỏ hơn hắn nhiều tuổi, Lara vẫn muốn đi xa hơn, minh chứng của một lòng can đảm đáng ghen tỵ. Nhưng Joseph luôn khước từ. Lara đã bỏ đi từ gần một năm nay. Sau khi đã đủ mạnh để vượt qua giới hạn này, em gái hắn đã bặt tăm bặt tích. Hắn thấy nhớ Lara.

Trong cái lạnh lẽo của buổi sáng tháng Mười một này, Joseph đứng yên vài phút trước cánh cổng, rồi bắt đầu leo lên. Khi bàn chân hắn tiếp đất phía bên kia cổng, một cảm giác mới mẻ tràn qua người hắn, một cái rùng mình lan từ lồng ngực ra toàn bộ cơ thể hắn. Lần đầu tiên hắn biết đến niềm vui.

Hắn bước đi dọc theo con đường trải nhựa.

Hừng đông bắt đầu với một vệt sáng yếu ớt nơi chân trời. Cảnh vật xung quanh hắn giống hệt như trong khuôn viên nhà, tới mức trong một thoáng hắn tự hỏi liệu mình đã ra khỏi đó hay chưa, và phải chăng cái cổng kia chỉ là một cái cớ, vì toàn bộ thế giới khởi đầu và chấm dứt tại đó, mỗi khi hắn vượt qua giới hạn thì hắn lại quay về điểm xuất phát, không hề thay đổi, và tiếp tục như thế cho đến vô cùng. Một chuỗi vô hạn những vũ trụ song song giống hệt nhau. Sớm muộn gì thì hắn cũng sẽ trông thấy ngôi nhà của mình mọc lên trên đường, và hắn sẽ biết chắc tất cả chuyện này chỉ là một ảo tưởng.

Nhưng điều đó không xảy ra. Càng đi xa, hắn càng nhận ra mình có thể làm được.

Không có bóng người nào ở chung quanh hắn. Không một chiếc xe hơi, hay một ngôi nhà nào. Tiếng bước chân hắn trên lớp nhựa đường là dấu hiệu duy nhất của con người giữa tiếng chim hót chào ngày mới. Không có cơn gió nào lay động đám cây cối đang giương mắt nhìn hắn như một kẻ lạ mặt. Hắn cảm thấy như muốn chào chúng. Bầu không khí rất sinh động và mang hương vị của sương giá, lá khô cùng cỏ xanh.

Lúc này mặt trời đã hé rạng. Nó trượt qua thảm cỏ, trải mỏng và loang ra như một biển dầu. Joseph không rõ mình đã đi bao nhiêu cây số. Hắn chẳng có mục đích nào, nhưng như thế mới hay: hắn cóc cần. Acid lactic rần rật chảy qua các bắp thịt ở chân hắn. Hắn không ngờ cơn đau nhức lại có thể dễ chịu như thế. Hắn có năng lượng trong người và không khí để thở. Hai yếu tố đó quyết định mọi thứ còn lại. Lần đầu tiên trong đời hắn muốn không suy nghĩ gì hết. Cho đến ngày hôm nay, đầu óc của hắn vẫn luôn thắng thế và tìm ra những nỗi sợ hãi khác nhau để ngăn cản hắn. Và ngay cả khi cái sự không biết còn nằm phục đâu đó quanh đây, một chút thời gian ngắn ngủi này cũng đã đủ để hắn hiểu được rằng, ngoài nguy hiểm, nó có thể che giấu một thứ gì đó quý giá. Như là sự kinh ngạc, hoặc thán phục.

Đó chính là điều hắn cảm nhận được khi nghe thấy một tiếng động mới mẻ. Nó rất nhỏ và xa xôi, nhưng đang tiến lại gần từ phía sau hắn. Hắn nhận ra âm thanh của một chiếc xe hơi. Hắn quay người và trông thấy mui xe lộ ra sau một quả đồi nhỏ. Tiếp đó, chiếc xe thụp xuống dốc, rồi trồi lên trở lại. Đó là một chiếc break cũ màu be. Nó tiến lại gần hắn. Kính chắn gió cáu bẩn không cho phép hắn quan sát người ngồi trong xe. Joseph quyết định phớt lờ chiếc xe và bước tiếp.

Khi chiếc xe đến gần, có vẻ như nó chạy chậm lại.

- Ê!

Hắn ngập ngừng không muốn quay đầu lại. Biết đâu ai đó đến để chấm dứt chuyến phiêu lưu của hắn. Phải rồi. Mẹ hắn đã thức giấc và gào thét tên hắn. Không tìm thấy hắn trên giường, bà sai đám gia nhân truy tìm hắn cả bên trong lẫn bên ngoài khuôn viên nhà. Có thể người đàn ông vừa gọi hắn là một trong số các thợ làm vườn. Ông ta dong xe đi tìm hắn, hau háu trước món tiền thưởng.

- Ê, em giai, đi đâu đấy? Có muốn đi nhờ xe không?

Câu hỏi làm hắn yên tâm. Đây không thể là một người trong nhà. Chiếc xe giảm tốc độ. Joseph không thể nhìn thấy người cầm lái. Hắn ngừng bước. Chiếc xe hơi cũng dừng lại.

- Tôi đi lên phía bắc. - Người lái xe nói. - Tôi có thể cho cậu đi nhờ một đoạn. Chỉ vài cây số thôi, nhưng cậu sẽ không có nhiều cơ may trong khu vực này đâu.

Không thể xác định được tuổi của anh ta. Anh ta có lẽ tầm bốn mươi, hoặc ít hơn. Anh ta có một bộ râu màu hung dài và xồm xoàm. Tóc anh ta cũng dài, chải lật ra sau và rẽ ngôi giữa. Anh ta có đôi mắt xám.

- Thế cậu định thế nào? Lên xe chứ?

Joseph suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Vâng, cám ơn anh.

Hắn ngồi vào ghế bên cạnh người lạ mặt và chiếc xe liền lăn bánh. Ghế ngồi được bọc nhung nâu, đôi chỗ bị sờn để lộ lớp vải bên dưới. Trong xe có một mùi kỳ quặc, hỗn hợp của những túi thơm khử mùi tiếp nối nhau qua năm tháng nơi chiếc gương chiếu hậu. Ghế sau đã được gập xuống để chừa chỗ cho các thùng giấy, túi xách, đủ thể loại dụng cụ và can nhựa. Tất cả được sắp xếp rất gọn gàng. Bảng đồng hồ bằng nhựa sẫm màu có mấy vết băng dính cũ. Máy nghe nhạc cổ lỗ sĩ dùng băng cátxét đang phát nhạc đồng quê. Người lái xe bật nhạc to lên sau khi đã vặn nhỏ âm thanh để bắt chuyện với hắn lúc nãy.

- Cậu cuốc bộ lâu chưa?

Joseph tránh không nhìn anh ta, vì sợ bị phát hiện mình sắp nói dối.

- Lâu rồi ạ, từ hôm qua.

- Sao cậu không vẫy xe đi nhờ?

- Có chứ. Em được một tài xế xe tải cho đi nhờ, nhưng rồi anh ta rẽ sang hướng khác.

- Thế, cậu định đi đâu?

Hắn bị bất ngờ trước câu hỏi, và nói thật luôn.

- Em không biết nữa.

Người đàn ông bật cười.

- Nếu không biết thì tại sao cậu không ngồi lại trên xe tải?

Joseph quay sang nhìn người lái xe, tỏ vẻ thật nghiêm túc.

- Tại ông ta hỏi quá nhiều.

Người đàn ông cười phá lên.

- Chúa ơi, tôi thích cái kiểu bí hiểm của cậu rồi đấy, cậu em ạ.

Chiếc áo gió đỏ của người lái xe có tay rất ngắn. Anh ta mặc một chiếc quần tây màu nâu nhạt, một chiếc áo len chui đầu có các môtíp trang trí hình thoi và đôi giày công nhân có đế cao su được gia cố. Anh ta cầm lái bằng hai tay. Cổ tay trái của anh ta đeo một chiếc đồng hồ rẻ tiền.

- Này, tôi không biết cậu định thế nào, tôi cũng không muốn ép cậu nói ra, nhưng nếu cậu muốn thì, nhà tôi ở gần đây, cậu có thể ghé vào ăn sáng. Cậu thấy thế nào?

Joseph đã định từ chối. Hắn đã quá khinh suất khi đồng ý trèo lên xe, bây giờ hắn sẽ không đi theo anh ta đến một chỗ nào đó để bị trấn lột hoặc tệ hơn. Nhưng rồi hắn nhận ra đó chỉ là một nỗi sợ hãi khác trong vô số sự sợ hãi của mình. Tương lai chỉ bí ẩn, chứ không đe dọa. Hắn vừa mới phát hiện ra điều đó trong buổi sáng sớm này. Và để thưởng thức thành quả của nó thì phải đánh liều thôi.

- Được ạ.

- Trứng, thịt muối và cà phê đấy nhá. - Người lạ mặt hứa hẹn.

Hai mươi phút sau, hai người rời con đường lớn để rẽ vào một con đường đất. Họ chạy xe rất chậm qua các ổ gà ổ trâu trước khi đến một ngôi nhà gỗ mái dốc. Màu sơn trắng đã bị hư hỏng nhiều chỗ. Cánh cửa ở trong một tình trạng thảm hại và các khe ván đã bị cỏ dại mọc lung tung. Họ đậu xe cạnh nhà.

Tay này là ai mới được? Joseph tự hỏi trong khi quan sát nơi ở của người lạ mặt, nhưng đối với hắn lời đáp cho câu hỏi đó không thú vị bằng việc được khám phá thế giới của anh ta.

- Mời vào. - Người đàn ông nói khi cả hai băng qua ngưỡng cửa.

Gian phòng đầu tiên có kích thước trung bình. Đồ đạc chỉ có một cái bàn và ba chiếc ghế, một tủ buýpphê thiếu vài ngăn và một cái trường kỷ cũ mèm rách nát nhiều chỗ. Trên một bức tường có treo một bức tranh phong cảnh vớ vẩn thiếu khung.

Bên cạnh ô cửa sổ độc nhất là một lò sưởi bằng đá nhem nhuốc bồ hóng với các súc củi đen nhẻm lạnh tanh. Trên một khúc cây thế chỗ cho ghế đẩu có một chồng xoong chảo dính đầy mỡ cháy. Ở cuối phòng là hai cánh cửa đóng kín.

- Tôi xin lỗi, ở đây không có nhà vệ sinh. Nhưng ngoài kia cây cối đấy. - Người lạ vừa nói vừa cười.

Điện nước cũng không có, nhưng tay chủ nhà đã dỡ từ trên xe xuống mấy chiếc can mà Joseph đã trông thấy trước đó.

Nhờ vài tờ báo cũ và mớ củi nhặt được bên ngoài, anh ta châm lửa trong lò. Sau khi đã đánh sạch hết mức một cái chảo, anh ra thắng bơ rồi bắt đầu chiên trứng cùng với thịt muối. Chỗ thức ăn tầm thường đó tỏa ra thứ mùi thật ngon lành.

Joseph bối rối quan sát người đàn ông và đặt cho anh ta hàng đống câu hỏi, hệt như những đứa trẻ thắc mắc với người lớn khi chúng đến tuổi tò mò tìm hiểu thế giới. Nhưng người lạ mặt có vẻ không bực bội, mà ngược lại, anh ta thích trò chuyện.

- Anh ở đây từ bao lâu rồi?

- Từ hơn một tháng nay, nhưng căn nhà này không phải của tôi.

- Anh nói vậy là sao?

- Nhà thực sự của tôi ở ngoài kia. - Anh ta vừa nói vừa chỉ vào chiếc xe hơi đậu bên ngoài. - Tôi thích đi chu du thiên hạ.

- Vậy sao anh dừng lại?

- Vì tôi thích nơi này. Một ngày nọ, tôi đang đi trên đường thì trông thấy lối mòn này. Tôi rẽ vào và đi đến đây. Căn nhà đã bị bỏ hoang từ bao lâu không biết nữa. Có lẽ nó là của đám nông dân vì đằng sau nhà có một cái chòi cất dụng cụ.

- Chuyện gì đã xảy ra với bọn họ?

- Tôi không biết. Rõ ràng là họ đã hành động giống như nhiều người khác: khi khủng hoảng gia tăng, họ bỏ đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn trên thành phố. Trong vùng này có không ít trang trại bỏ hoang đâu.

- Tại sao bọn họ không tìm cách bán đất?

- Ai mà mua một chỗ như thế này? - Người đàn ông mỉm cười đáp. - Chỗ đất này chẳng đáng giá một xu, em ạ.

Anh ta ngừng nấu nướng và trút thức ăn từ chảo vào thẳng hai cái đĩa đặt trên bàn. Không chần chừ, Joseph cắm ngay nĩa vào chỗ thức ăn màu vàng ươm. Hắn đang rất đói. Thức ăn ngon tuyệt.

- Cậu thích chứ, hả? Cứ từ từ, muốn ăn bao nhiêu cũng được.

Hắn ăn ngấu nghiến. Rồi khi trong mồm vẫn đầy thức ăn, hắn hỏi:

- Anh sẽ ở lại đây lâu chứ?

- Tôi định cuối tuần này sẽ đi: mùa đông vùng này khắc nghiệt lắm. Tôi tích trữ lương thực và đi quanh các nông trại bỏ hoang với hy vọng nhặt nhạnh được mấy món đồ vẫn còn dùng được. Sáng nay tôi tìm thấy một cái máy nướng bánh. Chắc nó hỏng rồi, nhưng tôi có thể sửa lại.

Joseph ghi nhận lại mọi thứ, tuồng như muốn làm một cuốn cẩm nang tổng hợp: từ làm thế nào chuẩn bị một bữa sáng ngon lành chỉ với trứng, bơ và thịt muối, cho đến làm sao tìm được nước uống. Hắn nghĩ có lẽ nó sẽ có ích cho mình trong một cuộc đời mới sau này. Cuộc sống của người lạ mặt khiến hắn háo hức. Mặc dù khắc nghiệt và khó khăn, nó vẫn làm hắn hài lòng hơn hẳn so với những gì hắn đã sống cho đến hiện tại.

- Cậu có biết chúng ta vẫn chưa giới thiệu tên cho nhau không?

Joseph khựng lại, cái nĩa lơ lửng trong không khí.

- Nếu cậu không muốn cho tôi biết tên, cũng chẳng sao. Dù sao thì cậu cũng rất dễ mến.

Joseph tiếp tục ăn. Người lạ không nài ép, nhưng hắn cảm thấy cần phải bù đắp cho anh ta bằng cách này hay cách khác, vì anh ta quá hiếu khách. Hắn quyết định tự mình tiết lộ một điều gì đó.

- Em sẽ chết vào năm năm mươi tuổi, đó là điều gần như chắc chắn.

Sau đó hắn giải thích lời nguyền đã đè nặng lên những người đàn ông trong gia đình mình. Người lạ mặt lắng nghe chăm chú. Tuy không để lộ tên tuổi, Joseph nói với anh ta hắn giàu có và kể lại nguồn gốc tài sản của mình. Hắn nhắc đến người ông nội táo bạo và có tầm nhìn xa, người đã gieo mầm cho một gia sản khổng lồ, rồi cha hắn, người đã biết cách làm cho di sản đó nhân lên nhiều lần nhờ năng khiếu kinh doanh. Cuối cùng hắn nói về mình, về việc hắn không còn mục tiêu gì, bởi tất cả đều đã đạt được. Hắn ra đời chỉ để truyền lại hai thứ: một gia tài đáng kể và một cái gen chết người.

- Tôi hiểu căn bệnh đã giết chết cha và ông nội cậu là không thể tránh khỏi, nhưng với tiền bạc thì ta luôn có một giải pháp: tại sao cậu không từ bỏ sự giàu có của mình nếu như cậu không cảm thấy đủ tự do?

- Bởi vì em đã lớn lên cùng với nó và em không biết cách tồn tại mà không có tiền, dù chỉ là một ngày. Như anh thấy đấy, dù lựa chọn thế nào thì rốt cuộc em cũng sẽ chết cả thôi.

- Tào lao! - Người lạ mặt nói rồi đứng dậy đi rửa bát.

Joseph cố thử giải thích rõ hơn cho anh ta:

- Em có thể có được mọi thứ mình muốn. Nhưng cũng chính vì thế mà em không còn biết ham muốn là gì nữa.

- Vớ vẩn! Tiền không mua được tất cả.

- Ngược lại, nó mua được đấy. Anh cứ tin em đi. Nếu em muốn anh chết, em có thể trả tiền cho người khác để bọn họ giết anh mà không ai hay biết.

- Cậu đã từng làm thế rồi hả? - Người lạ hỏi, đột ngột trở nên nghiêm trọng.

- Làm gì cơ?

- Cậu từng trả tiền cho ai đó để họ giết người thay mình hả?

- Em thì chưa, nhưng bố và ông em thì có đấy. Em biết mà.

Im lặng bao trùm.

- Nhưng còn sức khỏe, cậu không thể mua được nó.

- Phải. Nhưng khi biết trước mình sẽ chết, vấn đề sẽ trở nên nhẹ nhàng. Anh thấy không: những người giàu có cảm thấy bất hạnh vì họ biết rằng sớm muộn gì họ cũng sẽ phải từ bỏ những gì mình sở hữu. Nào có ai mang được của cải xuống mồ đâu. Còn em thì ngược lại, em không cần phải mất thời gian nghĩ đến cái chết của mình, nó đã được thu xếp hộ em rồi.

Người lạ mặt dừng lại suy nghĩ.

- Cậu nói cũng phải. Nhưng không ham muốn gì hết thì buồn chết. Chắc chắn phải có gì đó thực sự làm cậu thỏa mãn chứ? Vậy ta hãy bắt đầu từ đó.

- Ờ thì... em thích đi bộ. Từ sáng nay, em cũng thích ăn trứng với thịt muối. Và em thích bọn con trai.

- Cậu muốn nói là cậu...

- Em không biết, thật đấy. Em đi với chúng, nhưng không thể nói là thật sự ham muốn.

- Vậy tại sao cậu không thử với phụ nữ?

- Chắc có lẽ em phải thử. Nhưng trước hết em cần phải ham muốn điều đó, anh hiểu không? Em không biết phải giải thích thế nào.

- Tôi hiểu mà. Tôi thấy cậu đã giải thích rất rõ ràng rồi đó.

Anh ta gác cái chảo cùng với những thứ khác lên chiếc ghế đẩu, rồi nhìn đồng hồ đeo tay.

- Đã mười giờ rồi. Tôi phải vào thị trấn. Tôi cần các món phụ tùng để sửa cái máy nướng bánh.

- Vậy em cũng đi đây.

- Không, sao phải thế? Cậu cứ ở đây và nghỉ ngơi chút đỉnh, nếu muốn. Tôi sẽ về sớm, nên ta có thể cùng ăn và tán gẫu thêm một chút. Cậu rất dễ thương, cậu biết không?

Joseph quan sát cái trường kỷ cũ rách. Trông nó đầy vẻ mời gọi.

- Thôi được. - Hắn nói. - Em sẽ ngủ một chút, nếu anh không phiền.

Người đàn ông bật cười:

- Tuyệt!

Rồi anh ta nói thêm khi chuẩn bị ra khỏi cửa:

- Mà này, cậu muốn thứ gì cho bữa tối?

- Em không biết. - Joseph nhìn anh ta. - Làm em ngạc nhiên đi.

Một bàn tay nhẹ nhàng lay hắn. Joseph mở mắt và nhận ra trời đã tối.

- Mệt quên đời, hả! - Người bạn mới vừa cười vừa nói với hắn. - Cậu đã ngủ suốt chín tiếng đồng hồ đấy.

Joseph ngồi dậy duỗi người. Đã lâu rồi hắn không cảm thấy thư giãn như thế. Dạ dày hắn đang kêu réo.

- Đã đến giờ ăn tối rồi ạ? - Hắn hỏi.

- Tôi bắt đầu làm bữa tối: đùi gà nướng than dùng với khoai tây. Cậu thấy thực đơn ổn chứ?

- Tuyệt hảo. Em chết đói đến nơi rồi đây.

- Trong khi chờ đợi, cậu lấy bia mà uống. Ở trên bậu cửa sổ ấy.

Joseph chưa bao giờ uống bia, ngoại trừ chỗ bia mà mẹ hắn bỏ vào trong món punch Giáng sinh. Hắn lấy một lon từ trong lốc sáu và mở nắp, rồi kề môi vào gờ nhôm của nó tu một hơi dài. Món đồ uống lành lạnh nhanh chóng chạy xuống thực quản hắn. Cảm giác thật dễ chịu và mát mẻ. Sau khi làm hơi thứ hai, hắn ợ một cái.

- Chúc sức khỏe! - Người đàn ông hô to.

Bên ngoài trời khá lạnh, nhưng ở trong nhà ngọn lửa tỏa ra một hơi ấm dễ chịu. Ánh sáng từ cây đèn bão đặt trên bàn nhè nhẹ chiếu lên căn phòng.

- Ông già bán đồ đồng nát bảo là cái máy nướng bánh có thể sửa được. Ông ta thậm chí còn chỉ cho tôi vài chỗ. Càng tốt, tôi có thể sửa rồi bán lại nó ngoài chợ.

- Vậy ra anh sống bằng nghề này?

- Ừ, thỉnh thoảng cũng nhờ đến nó. Người ta vứt đi khối thứ còn dùng được. Tôi đi nhặt chúng, sửa chữa rồi bán kiếm tiền. Tôi cũng giữ lại vài món, chẳng hạn như bức tranh này...

Anh ta giơ tay chỉ bức tranh phong cảnh không có khung treo trên tường.

- Tại sao là bức tranh này? - Joseph hỏi.

- Tôi không biết, tôi thích nó. Tôi nghĩ nó nhắc tôi nhớ đến nơi tôi sinh ra, hoặc có thể là nơi tôi chưa từng đến, ai có thể dám khẳng định là mình đã đi hết...

- Anh đã đi nhiều đến thế kia à?

- Ừ, nhiều lắm. - Nói đoạn anh ta trầm ngâm suy nghĩ, trước khi tiếp lời. - Món gà của tôi rất đặc biệt. Rồi cậu sẽ thấy. À mà này, tôi có một bất ngờ dành cho cậu.

- Bất ngờ á? Bất ngờ nào?

- Không phải bây giờ. Để sau bữa tối cái đã.

Hai người ngồi vào bàn. Món gà và khoai tây được nêm nếm rất vừa miệng. Joseph lấy thức ăn hết lần này đến lần khác. Người đàn ông - từ bây giờ đó là cách Joseph gọi anh ta trong đầu - ăn không ngậm miệng và uống ba lon bia. Sau bữa tối anh ta rút cái tẩu đẽo bằng tay và gói thuốc lá ra. Trong khi nhồi tẩu, anh ta nói:

- Cậu biết không, tôi đã nghĩ rất nhiều đến điều cậu nói ban sáng.

- Điều gì cơ?

- Những gì cậu nói về “ham muốn” ấy. Nó làm tôi rất ấn tượng.

- Thật ạ? Tại sao?

- Cậu biết đấy, tôi thì tôi không nghĩ việc biết chính xác thời điểm chết của mình là một điều tồi tệ. Ngược lại tôi thấy đó là một đặc quyền.

- Sao anh có thể nói như vậy được?

- Dĩ nhiên, nó tùy thuộc vào cách cậu nhìn nhận sự việc. Cái ly vơi một nửa hay đầy một nửa. Tóm lại: cậu có thể làm bảng liệt kê những thứ mình thiếu. Hoặc cậu có thể ấn định phần còn lại của đời mình theo hạn định đó.

- Em chưa hiểu.

- Tôi cho rằng việc biết mình sẽ phải chết lúc năm mươi tuổi khiến cậu nghĩ cậu không có chút quyền lực nào trên cuộc đời của bản thân. Nhưng đó chính là chỗ cậu nhầm đấy, bạn ạ.

- Anh định nghĩa chữ “quyền lực” thế nào?

Người đàn ông lấy một nhánh củi trong lò và châm tẩu. Anh ta rít một hơi dài trước khi trả lời:

- Quyền lực và ham muốn luôn đi với nhau. Chúng được hình thành từ cùng một chất liệu đáng nguyền rủa. Cái sau phụ thuộc vào cái trước, và ngược lại. Đó không phải là một thứ triết lý vớ vẩn đâu, mà chính là thiên nhiên đã định đoạt như vậy. Sáng nay cậu đã nói rất đúng: chúng ta chỉ có thể ham muốn thứ mà chúng ta không có được. Cậu nghĩ cậu có đủ quyền lực để có mọi thứ nên cậu chẳng ham muốn gì nữa. Nhưng điều đó là do quyền lực của cậu bắt nguồn từ tiền bạc.

- Vậy còn có những dạng quyền lực khác sao?

- Dĩ nhiên, quyền lực của ý chí chẳng hạn. Để hiểu được thì cần phải đặt nó vào trong thử thách. Nhưng tôi sợ cậu không muốn làm điều đó...

- Sao anh lại nói như thế? Em có thể làm được.

Người đàn ông quan sát hắn.

- Cậu chắc chứ?

- Chắc.

- Tốt. Trước khi dùng bữa tối, tôi đã nói là có một bất ngờ dành cho cậu. Thời điểm tiết lộ nó đã đến. Cậu đi với tôi.

Anh ta đứng dậy và tiến đến một trong số những cánh cửa khép kín ở cuối phòng. Joseph loạng choạng đi theo.

- Nhìn này.

Hắn bước qua ngưỡng cửa vào trong bóng tối và nghe thấy thứ gì đó trong phòng đang thở gấp. Hắn nghĩ ngay đến một con thú và lùi lại.

- Can đảm lên. - Người đàn ông nói. - Nhìn cho kỹ vào.

Joseph mất vài giây để quen với bóng tối. Ánh sáng yếu ớt từ ngọn đèn bão ở trên bàn chỉ vừa đủ rọi sáng khuôn mặt của thằng bé. Nó đang nằm trên giường, tay và chân bị trói vào thành giường bằng những sợi thừng to. Nó mặc một cái áo sơmi kẻ ô và quần jean, chân trần. Một cái khăn tay buộc ngang miệng làm cho nó không nói được, nên chỉ phát ra những âm thanh khó hiểu giống như tiếng kêu của động vật. Chỗ tóc trên trán nó ướt đẫm mồ hôi. Thằng bé vùng vẫy như một con thú bị nhốt, mắt nó mở to đầy sợ hãi.

- Ai đây? - Joseph hỏi.

- Một món quà tặng cậu.

- Em phải làm gì với nó đây?

- Bất cứ điều gì cậu muốn.

- Nhưng em không biết nó là ai.

- Tôi cũng thế. Nó bắt xe quá giang, tôi cho nó lên xe trong khi quay về đây.

- Ta nên cởi trói và tha cho nó.

- Nếu đó là điều cậu muốn.

- Tại sao em phải muốn chuyện gì khác kia chứ?

- Bởi vì đây là minh chứng cho cái gọi là quyền lực, và việc nó liên quan như thế nào với ham muốn. Nếu cậu muốn thả tự do cho thằng nhóc thì cứ việc. Nhưng nếu cậu muốn điều gì khác từ nó, cậu có toàn quyền lựa chọn.

- Ý anh là chuyện tình dục, đúng không?

Người đàn ông lắc đầu ra vẻ thất vọng.

- Tầm nhìn của cậu hạn hẹp quá. Cậu đang nắm trong tay một sinh mạng người, tạo vật vĩ đại và đáng kinh ngạc nhất của Chúa trời, vậy mà điều duy nhất cậu nghĩ đến là chuyện ấy...

- Em phải làm gì với một mạng người trong tay?

- Hôm nay cậu chẳng đã nói rồi đấy thôi: nếu cậu muốn giết một ai đó, cậu chỉ cần trả tiền cho một người khác để ra tay hộ mình. Nhưng cậu thực sự tin là việc đó đem lại cho cậu quyền cướp đi sinh mạng của người khác à? Tiền của cậu có cái quyền đó, chứ nào phải cậu. Chừng nào cậu còn chưa tự mình làm chuyện đó, thì cậu còn chưa biết được nó có ý nghĩa như thế nào.

Joseph lại nhìn thằng bé đang hoảng hốt thấy rõ.

- Nhưng em không muốn biết. - Hắn nói.

- Tại vì cậu sợ. Sợ hậu quả, sợ bị trừng phạt hoặc sợ cảm thấy có tội.

- Có sợ những chuyện đó thì cũng bình thường thôi mà.

- Không, không phải vậy, Joseph à.

Hắn thậm chí không nhận ra người đàn ông vừa gọi tên mình: hắn còn đang mải lia mắt nhìn từ anh ta sang thằng nhóc.

- Vậy nếu như tôi bảo cậu có thể làm việc đó, việc tước đi sinh mạng của một người mà không ai hay biết thì sao?

- Không à? Vậy còn anh?

- Tôi là người đã bắt cóc thằng bé và mang nó về đây, cậu quên rồi sao? Ngoài ra tôi cũng sẽ là người chôn cái xác.

Joseph cụp mắt xuống.

- Sẽ không có ai biết việc này chứ?

- Nếu tôi bảo là cậu sẽ không bị trừng phạt, liệu như thế có khơi lên ham muốn thử làm chuyện đó trong cậu không?

Joseph nhìn hai bàn tay mình một lúc lâu, nhịp thở của hắn tăng dần trong lúc hắn thấy khoái cảm trong mình dâng lên, một điều hoàn toàn mới mẻ đối với hắn.

- Em muốn một con dao. - Hắn nói.

Người đàn ông đi vào trong bếp. Trong lúc chờ đợi, Joseph nhìn thằng nhóc đang khóc lóc van xin mình qua ánh mắt. Hắn nhận ra mình vô cảm trước những giọt nước mắt câm lặng kia. Sẽ chẳng có ai khóc thương cho cái chết của hắn khi căn bệnh của cha và ông nội mang hắn đi vào năm năm mươi tuổi. Đối với mọi người, hắn vẫn luôn giàu có và không cần sự thương xót dưới bất kỳ hình thức nào.

Người đàn ông quay lại với một con dao sắc. Anh ta đặt con dao vào trong tay hắn.

- Không có gì vui sướng cho bằng việc tước đi một mạng sống. - Anh ta nói với hắn. - Không phải của một người đặc biệt như kẻ thù hoặc người đã hại cậu. Mà là của một người bất kỳ. Điều đó cho cậu quyền lực như Chúa trời.

Anh ta để mặc hắn ở đó và bước ra ngoài, khép cửa phòng lại sau lưng.

Ánh trăng sượt qua những khe cửa chớp đã hỏng, làm con dao trong tay hắn sáng loáng. Thằng nhóc cựa quậy, và Joseph cảm thấy sự lo lắng, nỗi sợ hãi của nó thông qua cả tiếng động phát ra lẫn mùi cơ thể của nó. Hơi thở chua nồng, mồ hôi dưới nách nó. Hắn tiến lại gần giường, chậm rãi, để mặc ván sàn kêu cọt kẹt dưới chân, nhằm làm cho thằng nhóc ý thức được điều đang diễn ra. Hắn chạm lưỡi dao vào ngực nó. Liệu hắn có phải nói gì không đây? Trong đầu hắn trống rỗng. Một cơn rùng mình chạy qua cơ thể hắn và một điều hắn không ngờ tới đã xảy ra: hắn cương lên.

Hắn nhấc con dao lên vài centimet, rồi chầm chậm rê nó dọc theo thân người xuống đến bụng thằng nhóc, và dừng lại. Hắn hít một hơi rồi chầm chậm ấn đầu nhọn của con dao qua lớp vải áo sơmi, cho đến khi nó chạm vào da thịt. Thằng nhóc cố hét lên, nhưng những gì phát ra chỉ là sự mô phỏng khốn khổ của một tiếng thét đau đớn. Joseph ấn con dao thêm vài centimet, lớp da toạc ra như thể bị xé rách. Hắn nhận ra màu trắng của lớp mỡ. Nhưng vết thương chưa chảy máu. Vậy nên hắn ấn dao mạnh hơn, cho đến khi cảm thấy máu ấm trên tay mình và mùi hăng từ trong ruột xộc lên. Thằng nhóc ưỡn người, vô tình làm cho công việc của hắn thuận lợi hơn. Hắn ấn nữa, cho đến khi cảm thấy lưỡi dao chạm vào xương sống. Thằng nhóc giờ chỉ còn là một mớ cơ và xương căng cứng dưới tay hắn. Nó giữ nguyên tư thế ưỡn người trong vài giây. Rồi nó nặng nề rơi trở xuống giường, như một đồ vật vô tri.

Và đúng lúc đó, chuông báo động...

... bắt đầu kêu toáng lên. Bác sĩ và y tá chạy bổ đến bên cạnh người bệnh cùng với thiết bị cấp cứu đặt trên xe đẩy. Bà Nicla cúi gập người, cố lấy lại hơi thở: cú sốc từ những gì trông thấy đã lôi bà ra khỏi trạng thái lên đồng. Mila đặt tay lên lưng Nicla, cố giúp bà thở. Bằng một động tác dứt khoát, bác sĩ mở phanh áo ngủ của Joseph B. Rockford ngay chỗ lồng ngực, làm các cúc áo bay tung tóe trên sàn. Boris suýt nữa thì ngã nhào khi anh lao đến giúp Mila. Tay bác sĩ đặt hai tấm điện cực mà y tá vừa đưa lên ngực bệnh nhân, rồi hét lớn: “1... 2... 3!” trước mỗi lần sốc điện. Goran tiến lại gần Mila.

- Chúng ta đưa bà ấy ra khỏi đây thôi. - Ông nói trong lúc giúp cô đỡ bà tu sĩ dậy.

Trong khi họ cùng Rosa và Stern rời khỏi phòng, Mila quay lại nhìn một lần cuối Joseph B. Rockford. Toàn thân hắn rung chuyển theo từng hồi sốc điện, nhưng bên dưới tấm chăn, cô nhận thấy hình như hắn đang cương cứng.

Đồ khốn nạn, cô nghĩ bụng.

Tiếng bíp của máy theo dõi nhịp tim kéo thành một hồi dài liên tục. Đúng vào lúc đó, Joseph B. Rockford mở mắt. Đôi môi hắn mấp máy nhưng không thốt ra tiếng. Các dây thanh quản của hắn đã bị tổn hại khi bị người ta mở khí quản để giúp thở dễ hơn.

Hắn đã chết. Mớ thiết bị xung quanh cho biết hắn chỉ còn là một đống thịt vô hồn không hơn. Thế nhưng hắn vẫn cố nói. Tiếng lào phào của hắn nghe giống như một người chết đuối đang cố gắng hít không khí một lần cuối.

Việc đó không kéo dài.

Rốt cuộc, một bàn tay vô hình lại lôi hắn đi, và linh hồn của Joseph B. Rockford như bị chiếc giường nuốt chửng, bỏ lại một thân xác trống rỗng.