“Vượt sông mất 42 ngày, sau khi chiếm được những thành phố lớn như Nam Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, toàn bộ hai tỉnh Giang Tô, An Huy và phần lớn Giang Tây, Hồ Bắc, Phúc Kiến, để giải phóng toàn bộ Hoa Đông rồi đến Hoa Nam, tiến quân về phía Tây Nam chính là điều kiện tiên quyết.”
Khuôn viện ngập trong ánh hoàng hôn, chân trời đỏ rực, ngay cả gốc đa già xù xì cũng như bị nhuộm đỏ. Tháng sáu, trời càng lúc càng nóng, cho dù trong viện có hồ nước thì không khí vẫn rất oi bức.
“Được rồi, nói đến khô miệng luôn, mấy đứa này, chỉ biết quấn lấy tiểu thư là giỏi.” Mai Hương bưng một bát sứ đi ra, nàng mặc một bộ y phục thoải mái, ống tay xắn cao đến tận khuỷu, vừa đi vừa dài giọng rao: “Nước ô mai ướp lạnh đây, ai muốn khôôôôôôôông…”
Thanh Thanh nghe vậy liền nhỏm dậy, vỗ tay hoan hô: “Woah! Có nước ô mai uống!” Dứt lời liền vội vàng chạy vào bếp phụ bê nước ra.
“Tiểu thư, em có dùng băng trong hầm ướp lạnh, uống rất mát, người thử xem.”
Sau khi rời hỏi Đường Kinh, Sở Kiều không cho Mai Hương gọi mình đại nhân nữa, vốn muốn Mai Hương xem mình như tỷ muội mà xưng hô, nhưng nàng lại chết sống không chịu làm theo. Sở Kiều không thể làm gì khác ngoài để mặc nàng gọi mình tiểu thư.
Nắng chiều vô cùng ấm áp, Sở Kiều không giống như đám người Mai Hương, so với ngày hè ở thế kỷ 21, nhiệt độ bây giờ nhiều nhất cũng chỉ như xuân thu ở kiếp trước thôi, có điều nước ô mai Mai Hương làm quả thực rất ngon, không thể không uống.
“Tỷ tỷ, chỗ đó không phải có phi cơ sao? Tại sao không trực tiếp dùng phi cơ bay qua? Sao còn phải dùng thuyền sang sông nữa?”
Một cánh bướm bay đến, chập chờn lượn quanh khóm lan trong vườn, Sở Kiều ngồi dưới gốc đa, thân mặc áo ngắn tay màu lam nhạt, phía dưới là một chiếc váy dài màu trắng ngà, nhìn vừa thanh lịch vừa thoải mái,“Đa Cát, giải thích cho Bình An nghe đi.”
Đa Cát đăm chiêu suy nghĩ một thoáng rồi để chén nước xuống, nói với bộ dạng như rất từng trải: “Phi cơ hẳn là vật hiếm, rất quý giá. Nhưng Tưởng nguyên soái được phương Tây chống lưng nên sở hữu không quân hùng mạnh, còn Mao nguyên soái thì không có sự ủng hộ của nước ngoài, lại tác chiến trong thời gian dài, lại không chọn thành phố lớn làm căn cứ địa, không có trang bị quân sự tiên tiến là chuyện bình thường, vì vậy phe bọn họ có lẽ cũng chẳng có phi cơ hay không quân.”
Sở Kiều bưng chén hớp một ngụm, nước ô mai lành lạnh chảy qua cuống họng, mát đến tận phổi. Nàng cười nói: “Đa Cát nói rất đúng, thời điểm đó sức sản xuất không cao, Mao nguyên soái cũng không có thế lực không quân, ban đầu đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến bọn họ phải chịu thương vong cực lớn.”
Bình An đột nhiên cảm thán, “Tỷ tỷ, nước Trung Quốc mà tỷ nói, thật lợi hại, y như trong truyện cổ thần thoại vậy. Có thể bay lên trời, có đại pháo bắn một phát là oanh tạc cả một tòa nhà, nếu như bọn họ chạy tới đánh Tây Mông của chúng ta, chỉ cần cho pháo binh nã một phát cũng đủ đánh bại chúng ta. Thiết võ quân của Đại Hạ hay Hắc ưng quân của Bắc Yến gì đó đều không phải là đối thủ.”
“Đó đều là thần thoại thôi.” Thanh Thanh bĩu đôi môi đỏ ửng vì nước lạnh, vừa tiếp tục nhâm nhi nước ô mai vừa nói: “Thế giới chúng ta sao có vật đáng sợ như vậy chứ?”
Sở Kiều không nói mà chỉ lẳng lặng mỉm cười, Mai Hương rót thêm một chén nước ô mai đưa đến, nàng đón lấy cầm trong tay, cảm nhận hơi lạnh xuyên qua đầu ngón tay lan ra toàn thân, vô cùng dễ chịu.
“Chưa chắc.” Đa Cát lắc đầu, hoài nghi nói: “Ba trăm năm trước, đại lục Tây Mông chúng ta còn chưa có thuyền to, hải phận chưa từng xuất hiện chiến tranh. Nhưng bây giờ đại lục đã có thương đội có thể gióng thuyền đến tận chỗ người phiên xa xôi. Chưa kể đến đồ sắt, năm trăm năm trước, tổ tiên chúng ta đánh giặc đều dùng vũ khí bằng đồng, đao kiếm gì đó đều rất mềm, lúc đó làm gì có ai nghĩ đến chuyện rèn ra kiếm sắt như hôm nay? Đó là chưa nói đến những thứ như giấy và vải vóc, trước kia con người đều dùng đá khắc chữ, dùng trúc cuốn lại thành sách, dùng da thú làm y phục, còn bây giờ thì sao? Cho nên phải nói, kỹ thuật luôn phát triển không ngừng, có lẽ qua mấy trăm năm nữa, hoặc mấy ngàn năm nữa, chưa biết chừng sẽ thật sự xuất hiện phi cơ có thể bay lên trời như tiểu thư nói, có thể có đại pháo bắn một phát làm nát vụn một gian phòng.”
Sở Kiều nghe nói thì vui vẻ nhìn Đa Cát, khen ngợi, “Vẫn là Đa Cát biết nhìn xa.”
Đa Cát thường ngày luôn trầm tĩnh như ông cụ non, nhưng hễ đối mặt với Sở Kiều liền xấu hổ đỏ mặt. Cậu gãi đầu, ngây ngô cười nói: “Tiểu thư, có mấy chỗ Đa Cát vẫn chưa rõ lắm.”
Sở Kiều hứng thú nhìn cậu, “Nói nghe thử xem.”
“Đầu tiên, ta cảm thấy nguyên lý của đại pháo và đạn hỏa tỷ tỷ chế ra lúc còn ở Bắc Yến có chỗ tương đồng, cũng rất giống pháo trúc bán ở chợ. Không biết chúng có liên quan gì không?”
Sở Kiều càng thêm vui mừng, gật đầu xác nhận rồi mỉm cười nói: “Đa Cát thật thông minh, đích thực là có điểm chung, pháo trúc là hỏa lực dạng thô sơ nhất, nguyên lý cũng giống như đạn hỏa. Chỉ có điều, đạn hỏa mượn sức của mảnh băng khi nổ nên mới có uy lực lớn hơn, còn muốn đạt đến trình độ của đại pháo thì cần kỹ thuật chế tác tỉ mỉ cực cao, với kỹ thật rèn sắt hiện giờ của chúng ta thì rất khó làm được.”
Bình An và Thanh Thanh rõ ràng nghe không hiểu nhưng cũng gật đầu hùa theo. Đa Cát im lặng suy nghĩ một lát rồi lại ngước lên hỏi: “Tiểu thư kể về những loại vũ khí này, ta vẫn cảm thấy không giống như thuận miệng kể chuyện thần thoại mà thôi, hẳn là có nguyên do gì đó, chỉ là tạm thời vẫn chưa nghĩ ra.”
Cậu chau mày, dáng vẻ vô cùng đăm chiêu thực giống một ông cụ non, đột nhiên lại hỏi: “Tiểu thư, hôm qua người bảo chúng ta trở về suy nghĩ nguyên nhân thất bại và thắng lợi của Tưởng nguyên soái và Mao nguyên soái, ta cũng có vài ý kiến, không biết có đúng hay không?”
Sở Kiều khích lệ cậu, “Nói thử ta nghe xem nào.”
Đa Cát yên lặng một lúc lâu như đang do dự gì đó, cuối cùng lấy hết dũng khí mới mở miệng nói: “Ta cảm thấy Mao nguyên soái có thể chiến thắng, chủ yếu là vì được dân chúng ủng hộ.”
Cậu vừa dứt lời thì Bình An lập tức phản đối, “Không đúng, không đúng. Phải do gã Tưởng nguyên soái kia quá ngu mới đúng, thuộc hạ đều ôm tâm tư riêng, quân đội đông nhưng lại chia năm xẻ bảy, cuối cùng đều phản bội ông ta, bằng không ông ta đã không thua.”
Sở Kiều quay sang nhìn Bình An, lẳng lặng hỏi: “Vậy em có nghĩ vì sao thuộc hạ của Tưởng nguyên soái lại phản bội ông ta không?”
“Bởi vì…” Bình An thoáng ngẩn ra, vốn định nói vì Tưởng nguyên soái quá ngu ngốc, nhưng nghĩ kỹ thì lại thấy có gì không đúng, ấp úng một hồi mới nói: “Bởi vì bên phe của Mao nguyên soái đông đúc, bọn họ sợ nên mới làm phản.”
“Vậy tại sao bên Mao nguyên soái lại trở nên đông như vậy? Phải biết rằng lúc chiến tranh vừa bắt đầu, quân số giữa hai bên cách biệt rất lớn.”
Bình An nhất thời á khẩu, quanh co một hồi vẫn không nói được nguyên do.
Đa Cát ở bên cạnh đỡ lời: “Ta cảm thấy, có vài chuyện Mao nguyên soái đã làm thật sự vô cùng anh minh.”
Cậu thành thật phân tích tiếp: “Mao nguyên soái đã sử dụng phương thức tác chiến cực kỳ cao minh. Lúc mới bắt đầu chiến tranh, ông ta liền bỏ thành lớn trở về nông thôn, hơn nữa còn tiến hành cải cách ruộng đất, phân đất cho người dân. Làm như vậy, dân chúng tự nhiên sẽ ủng hộ ông ta, cũng hy vọng ông ta có thể làm hoàng đế, nên sẽ đồng loạt chạy đến đầu quân, dần dần quân đội của ông ta trở nên càng lúc càng đông, còn của Tưởng nguyên soái thì càng ngày càng ít. Cho dù vũ khí lạc hậu nhưng nhờ có nhiều người, qua thời gian dài tất nhiên sẽ chiếm ưu thế. Chưa kể, Mao nguyên soái trị quân nghiêm minh, tuyệt đối không cho phép binh lính làm hại dân chúng, trong quân đoàn kết một lòng, tất cả đồng tâm hiệp lực cho nên mới có sức mạnh lớn như vậy. Còn về phần thuộc hạ của Tưởng nguyên soái, đa phần đều là tham quan, quân kỷ không nghiêm, nội bộ hỗn loạn, cấp dưới không ngừng tranh quyền đoạt thế. Quân đội như vậy, ban đầu có thể có ưu thế nhờ vào trang bị và số lượng, nhưng về sau sớm muộn gì cũng sẽ thất bại.”
Đa Cát nói xong, thấy Sở Kiều không nói gì thì nhất thời có hơi lo lắng, tưởng mình nói gì sai nên vội vàng bổ sung: “Ta cũng cảm thấy, hai người bọn họ không phải chỉ đối kháng về mặt quân sự, mà còn là đối đầu về tư tưởng, đại diện cho hai giai cấp, một là quan viên quý tộc, còn lại là bá tính thường dân. Cũng… cũng giống như cuộc chiến giữa Bắc Yến vương và Đại Đồng Hành vậy.”
Cậu vừa nói xong thì lập tức nhận ra mình vừa lỡ lời. Mai Hương đang bóc vỏ hạt sen, nghe nói thì vội vàng quay sang ra dấu với cậu. Nhưng Bình An bên cạnh lại không nhận được ám hiệu, còn thuận miệng hỏi tới:“Vậy tại sao bên Ô tiên sinh lại thua?”
Sở Kiều nhìn Đa Cát, hơi ngây người. Nàng vẫn biết Đa Cát thông minh nhưng lại không ngờ cậu lại thông minh đến bậc này. Nàng chỉ chẳng qua kể một chuyện xưa mà cậu lại có thể qua đó nhìn thấu bản chất của chiến tranh.
Sở Kiều kinh ngạc gật đầu, quay sang nói với Đa Cát: “Mặc dù không hoàn toàn chính xác, nhưng em có thể nghĩ đến mấy điểm này đã là rất giỏi rồi.”
Nàng như không hề bận tâm đến việc Đa Cát nhắc đến Yến Tuân, ngược lại còn tỉ mỉ giải thích: “Bất đồng chiến thuật hay tư tưởng chiến đấu đều bắt nguồn từ thế cuộc và sức sản xuất của xã hội thời đó. Đại Đồng Hành không thể so sánh với chính quyền của Mao nguyên soái, Đại Đồng không có tầng lớp lãnh đạo kiên định, nội bộ chưa nhất quán thì không thể xác định tư tưởng và đường hướng, lại không nhiều người có tầm nhìn về chiến lực quân sự. Ngoài ra, Bắc Yến không giống như Hoa Hạ*, không kể đến sức sản xuất thấp, Bắc Yến chưa từng trải nghiệm việc bị dị tộc xâm lược, nội bộ chính quyền vẫn chưa tan rã hoàn toàn, thể chế xã hội vẫn còn đó, dân trí chưa được khai sáng, người dân vẫn chưa biết cách mạng là gì, cũng không biết bản thân có thể đứng dậy đối kháng áp bức đè xuống đầu mình, cho nên bọn họ dĩ nhiên sẽ không toàn tâm toàn ý ủng hộ Đại Đồng Hành. Đa Cát nói rất hay, cuộc chiến trong chuyện ta kể, ngoài mặt là sự tranh đấu quyền lãnh đạo giữa hai thế lực, trên thực tế chính là sự đối kháng giữa hai tư tưởng. Dân chúng Bắc Yến, bản thân bọn họ còn chưa hề có ý thức về tự do thì làm sao có thể mượn lực dân chúng đối đầu với Bắc Yến vương? Vì vậy, thất bại là kết cục đã sớm được định trước của Đại Đồng Hành rồi.”
*Hoa Hạ là tên cũ chỉ đất nước Trung Quốc
Ba người nghe nói thì liên tục gật đầu, mặc dù Thanh Thanh và Bình An căn bản chẳng hiểu gì cả.
Đa Cát cẩn thận suy ngẫm, tựa như muốn ghi tạc từng lời Sở Kiều nói vào lòng. Một lúc lâu sau, cậu đột nhiên trở nên mất tinh thần, chán nản hỏi Sở Kiều: “Tiểu thư, theo như lời người nói thì, thể chế mà Mao nguyên soái muốn thành lập, căn bản không thích hợp với xã hội hiện tại của chúng ta, có đúng không?”
“Ừ.”
“Vậy tự do bình đẳng gì đó đều chỉ như mộng ước phù du mà thôi.”
Nhìn thấy dáng vẻ như đưa đám của cậu thiếu niên, Sở Kiều khẽ cười, dịu dàng nói: “Cũng không hẳn, lưu truyền tư tưởng không phải là chuyện một sớm một chiều. Tất cả đều cần một người mở đường, hôm nay em không thể khích lệ toàn bộ người trong thiên hạ cùng em hoàn thành nó, nhưng em vẫn có thể thử ảnh hưởng một nhóm người, truyền bá tư tưởng này ra ngoài. Giống như một mồi lửa dần dần lan ra, lửa lan trên đồng cỏ, một ngày nào đó sẽ khiến cả cánh đồng bốc cháy.”
Đa Cát thoáng sững sờ rồi buột miệng hỏi: “Tiểu thư, những lời này của người, có thể viết thành sách không?”
Sở Kiều vỗ vỗ đầu cậu, cười nói: “Trẻ con rất dễ dạy .”
Đa Cát vui vẻ hoan hô một tiếng, cậu rất ít khi có hành động trẻ con như vậy, hết sức kích động nói: “Ta hiểu rồi, chiến tranh chỉ là mồi dẫn, cách mạng cần nền tảng, xã hội muốn tiến bộ thì đầu tiên phải truyền bá tư tưởng trước.”
Mai Hương tiến đến đưa cho cậu chén nước ô mai, nhướng mày nói: “Xem em cao hứng chưa kìa, đầu đầy mồ hôi. Trước khi bắt đầu truyền bá tư tưởng thì uống nước ô mai đi đã, không nước hết lạnh thì uổng phí tâm huyết của ta.”
Tất cả nghe nói thì đồng loạt cười thành tiếng, khuôn mặt tuấn tú của Đa Cát hơi đỏ lên, ngượng ngùng ngồi xuống.
Trời tối hẳn, Sở Kiều trở về phòng, bọn Bình An chơi đùa thêm một lúc mới trở về đi ngủ.
Đêm khuya có mưa nhẹ, Sở Kiều tựa bên cửa sổ nhìn ra màn mưa lất phất bên ngoài, thấy phòng Đa Cát vẫn còn sáng đèn thì không khỏi mỉm một nụ cười.
Nháy mắt mà một năm rưỡi đã trôi qua.
Ngày đó sau khi rời khỏi Đường Kinh, nàng đi chưa được bao xa đã bị ba đứa nhóc vốn đang ở trong Mật Hà cư đuổi kịp, bất đắc dĩ phải dẫn bọn họ theo cùng.
Bởi vì tay chân đùm đề trẻ con như vậy, Sở Kiều đành từ bỏ mơ ước phiêu bạc tứ phương của mình. Nàng đến phía nam Biện Đường, tìm một thành trì nhỏ yên tĩnh nhưng có phong cảnh xinh đẹp lưu lại. Nơi này khí hậu ấm áp, cuộc sống yên bình, bởi vì gần với hoàng lăng ở Mi Sơn nên trị an rất tốt, ít có cường đạo thổ phỉ.
Hơn nữa nơi này còn là quê hương của lão tiên sinh Nho giáo nổi danh thông thái khắp Biện Đường là Thẩm Mặc Bạch, nên thường xuyên có thư sinh tìm đến bái kiến Thẩm tiên sinh, thuận đường thăm thú cảnh sắc sơn thủy tựa tranh vẽ của tòa thành nhỏ bé này.
Qua một thời gian dài, thành trì này liền được đổi tên thành thành Học Phủ.
Sau khi Sở Kiều dẫn nhóm Mai Hương vào thành liền mua một khách điếm bắt đầu kinh doanh.
Một là để che giấu tai mắt người đời, dù sao thì một nữ nhân mang theo một nha hoàn cùng ba đứa trẻ mà sống thoải mái thật sự có hơi nổi bật. Hai là cũng để có việc làm tìm vui, nếu cả ngày chỉ ăn với ngủ thì quả thực sẽ chán chết.
Mặc dù kiếm tiền không phải là mục đích chính nhưng nhờ phương thức quản lý mới lạ, điều kiện vệ sinh ưu việt và vị trí đắc địa mà khách điếm Học Tử của Sở Kiều dần trở nên nổi tiếng. Phàm là du khách từ bên ngoài vào thành sẽ chọn khách điếm của nàng làm nơi dừng chân đầu tiên, nhất là hai mùa thi xuân thu, luôn chật ních người, làm ăn hết sức phát đạt.
Thời gian trôi qua như bay, có một hôm chải tóc khi vừa tỉnh dậy, Sở Kiều đột nhiên phát hiện thái dương có tóc bạc. Mai Hương càu nhàu nói là vì nàng không ăn ngủ tử tế. Sở Kiều mỉm cười, quay sang nhìn tóc mai bên còn lại, cũng có vài sợi bạc.
Thân xác già yếu là chuyện không ai tránh được, cho dù hiện tại chỉ mới hai mươi mốt, nhưng nhiều năm bôn ba chiến trường và vô số lần phiêu bạc nơi băng thiên tuyết địa đã khiến thân thể trẻ tuổi của Sở Kiều mắc nhiều chứng bệnh. Những vết thương cũ mỗi lần trở trời sẽ đau thấu xương, đầu gối và các khớp ngón tay sẽ như bị vùi trong tuyết, luôn cứng lạnh như băng, tuy cực nhỏ nhưng khóe mắt nàng đã bắt đầu xuất hiện nếp nhăn, tinh thần cũng càng ngày càng xấu, hơi lao lực liền sẽ mệt mỏi muốn ngủ.
Sở Kiều chân chính trở thành một ấm thuốc, toàn thân chỗ nào cũng có vấn đề, gần như tháng nào bệnh cảm sốt cũng đến viếng thăm. Nhiều khi nằm trên giường, cảm nhận bệnh tật hành hạ, nàng thậm chí từng không biết thân thể này có phải của mình hay không, cảm giác toàn thân cứng ngắc như tượng gỗ bị va đập sắp vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ.
Cũng may nhịp độ cuộc sống đã trở nên bình ổn, không còn chiến tranh máu lửa, không còn cảnh chết chóc tàn khốc, không còn mưu đồ ám chiêu khó lường, lòng nàng dần trở nên yên tĩnh tựa như một hồ nước, qua biến động cũng sẽ trở lại trạng thái phẳng lặng.
Hơn một năm này, nàng rất ít khi thăm hỏi thế sự bên ngoài. Nhưng bởi vì bản chất của việc kinh doanh khách điếm, người đến người đi không ngừng, hơn nữa bọn nhỏ thấy hứng thú nên nàng cũng nghe được khá nhiều tin tức.
Ví như hôn sự của Tứ công tử Gia Cát gia và Trưởng công chúa Nạp Lan Hồng Diệp của Hoài Tống. Nghe nói sau khi trở lại Đại Hạ, Gia Cát Nguyệt đã rất sảng khoái đồng ý hôn sự này. Nhưng khi quần thần Đại Hạ đang vỗ tay ăn mừng thì Gia Cát thiếu gia lại móc ra một tờ hôn thiếp, tuyên bố bản thân đã có chính thê ở Thanh Hải, theo tổ huấn thì cho dù Nạp Lan trưởng công chúa vào cửa cũng chỉ có thể làm thiếp, có sinh con cũng chỉ được nâng lên thành thứ phu nhân.
Sứ giả Hoài Tống nghe nói liền tức giận quát mắng mấy câu rồi bỏ về. Sự kiện vốn như tảng đá kích ngàn con sóng dưới bàn tay cao minh của Gia Cát Nguyệt liền trở thành cục sỏi ném vào hồ, thoáng cái đã chìm nghỉm trong gió êm sóng lặng.
Kế đó, là chuyện Thất hoàng tử Triệu Triệt được Gia Cát đại tư mã toàn lực ủng hộ trở về từ biên cương phía Bắc, mang theo năm mươi vạn nô lệ kỵ binh tù binh sau khi bình định phản loạn mở rộng biên giới. Triệu Triệt và Gia Cát nguyệt một xướng một họa, dễ dàng phá hủy vị thế độc tôn của Triệu Dương trên triều.
Cùng lúc đó, Bắc Yến tất nhiên không có ngày lành, Biện Đường đóng cửa thủy lộ Nam Cương ngăn trở thông thương kinh tế giữa Bắc Yến và Hoài Tống, mà Bắc Yến tạm thời lại không có năng lực gây chiến với Biện Đường, Thanh Hải và Đại Hạ hai mặt giáp công đã đủ khiến Bắc Yến khổ nói không hết rồi.
Cũng may Triệu Dương đang bận bịu tranh quyền với Triệu Triệt nên không quá chú trọng binh lực ở Nhạn Minh Quan như trước, suốt hơn một năm cũng chỉ có một lần tổ chức công kích quy mô lớn, thế nhưng cũng chỉ bao quanh Long Ngâm Quan có hai ngày liền thu binh, rõ ràng là chỉ làm cho có lệ.
Thế cục trên đại lục càng lúc càng trở nên khó lường.
Có lẽ Triệu Dương cũng hiểu được, nếu không có uy hiếp từ Bắc Yến, quân đội ở Thanh Hải của Gia Cát Nguyệt sẽ trực tiếp vượt qua Long Ngâm Quan tràn vào hoàng đô Đại Hạ. Khi đó, chỉ dựa vào Tây nam quân của hắn thì không cách gì có thể địch lại hai người Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt.
Vì vậy, nếu nhìn theo hướng khác, hắn và Yến Tuân bất giác lại trở thành đồng minh.
Thế sự đôi khi lại khiến người đời không thể tưởng tượng nổi.
Và chuyện khiến chúng văn nhân thi giả say sưa đàm luận thời gian qua, chính là đại hôn xa hoa của Bắc Yến vương Yến Tuân.
Đầu năm ngoái, hôn lễ của Yến Tuân được cử hành xa hoa ở nội cung Sóc Phương, con gái duy nhất của mười tám vị trọng thần đồng loạt lấy phi vị nhập cung, nhất thời khiến hậu cung trở nên vô cùng náo nhiệt. Tiệc mừng kéo dài suốt mười tám ngày, dân chúng Bắc Yến thi nhau đến trước cung Sóc Phương lễ bái, long trọng nhất từ trước đến giờ, khiến người nhìn mãn nhãn.
Ngày thứ hai của hôn lễ, cung Nạp Đạt trên đỉnh Lạc Nhật rốt cuộc cũng được xây dựng xong, người may mắn đến sớm được chiêm ngưỡng nó đều trầm trồ kêu kỳ quan. Chúng văn nhân thi giả trở về đều đua nhau sáng tác thi văn ca ngợi tòa cung điện lộng lẫy kia.
Nghe nói, cung Nạp Đạt trên núi Lạc Nhật được xây dựng trên sườn núi, một bên là vách đá, mặt còn lại là thác nước nóng tuôn chảy, hoa cỏ lơ lửng trên không trung, suối rượu uốn lượn thơm nồng mười dặm, vách tường bằng đá trắng khảm bạc phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Khối kiến trúc rực rỡ như nơi ở của thần, ngay cả cung Kim Ngô có hơn ngàn năm lịch sử của Biện Đường cũng không sánh bằng.
*Cảm hứng từ vườn treo Babylon (một trong 7 kỳ quan thời cổ đại): vườn có 7 bậc thềm, đều là một vườn riêng, từ đó mà có tên gọi theo số nhiều là “những vườn treo”. Hơn nữa, cả 7 bậc thềm tạo nên một thể thống nhất. Ở vành ngoài mỗi bậc thềm người ta trồng các loại cây leo bò từ bậc thềm này sang bậc thềm khác và liên kết cả 7 vườn riêng lẻ thành một quần thể duy nhất. Quần thể này nom giống như một quả núi xanh mọc thẳng đứng lên với một khối rậm rì những cây, bụi, hàng rào cây xanh và hoa trông như đang treo hoặc bốc hơi, từ đó mà có tên gọi là “vườn treo”.
Toàn bộ người trong thiên hạ đều biết đây là tòa cung điện mà Bắc Yến vương xây dành cho người mình yêu là Tú Lệ tướng quân. Nhưng từ bốn năm trước khi Tú Lệ tướng quân và Bắc Yến vương đoạn tuyệt với nhau trên bình nguyên Hỏa Lôi, tin tức về cô gái xuất thân nô lệ, điểm chung duy nhất giữa Bắc Yến vương, đại tư mã của Đại Hạ và hoàng đế Biện Đường, người phát động chiến tranh tam quốc truyền kỳ đã bặt vô tăm tích, hoàn toàn biến mất khỏi bản đồ chính trị của đại lục Tây Mông.
Có người nói, nàng đã gả cho hoàng thất Biện Đường, đổi tên đổi họ rồi ở lại bên cạnh hoàng đế. Cũng có người nói, nàng chính là vị chính thê mà đại tư mã của Đại Hạ là Gia Cát Nguyệt từng công bố với thiên hạ, hiện giờ đang ở Thanh Hải tiếp tục lãnh đạo binh lính thay cho hắn. Thậm chí có người nói, nàng đã trở lại Bắc Yến, hiện giờ đang ngụ trong hành cung Nạp Đạt tráng lệ kia.
Thế nhưng, tất cả lời đồn đều chỉ là suy đoán suông, không ai biết được, cô gái trong truyền thuyết kia đang ở tại một thành nhỏ phía nam Biện Đường kinh doanh khách điếm, mỗi buổi sớm đều đi tản bộ ven hồ, thỉnh thoảng cùng mấy người già ở đó đánh cờ nói chuyện giết thời gian.
Cuộc sống chợt trở nên vô cùng đơn giản, đa phần nàng không hề nghĩ ngợi gì nhiều, nhưng thỉnh thoảng cũng sẽ nhớ đến rất nhiều năm trước, trong một đình viện rách nát, nàng từng kể cho thiếu niên nghe câu chuyện xa xưa về vị quốc vương xây dựng cho người phụ nữ mình yêu một khu vườn treo. Cung điện có thác nước nóng, có vườn hoa ngũ sắc lơ lửng trên không trung, có suối rượu hương thơm bay mười dặm, tường điện bằng đá trắng khảm bạc phản chiếu ánh sáng. Khu vườn này về sau trở thành di sản thế giới, tượng trưng cho tình yêu vĩnh viễn không thay đổi của quốc vương đối với người vợ yêu của mình.
Nửa đời người trôi qua, có người dừng chân, có người lướt qua, có người quên mất xuất thân của mình, có người mất đi phương hướng, cho dù thỉnh thoảng hồi ức có khơi gợi lại cũng chẳng thể vãn hồi tình cảm đã mất.
Hạt mưa vỗ lên bụi chuối bên cửa sổ, lại là một đêm không ngủ.
Hừng sáng Sở Kiều mới chợp mắt, khi tỉnh lại thì mặt trời đã lên cao. Mai Hương bây giờ đã là chủ quản sự của khách điếm nên luôn bận bịu nhiều chuyện, hôm nay con trai cưới vợ nên Ngô đại nương quét dọn nấu nướng trong viện cũng không có trong sân.
Đẩy cửa sổ ra, trời bên ngoài trong xanh không một gợn mây, trên tán cây dong trong sân có hai chú chim hoàng anh đang líu ríu không ngừng.
Sở Kiều thay một chiếc áo ngắn màu xanh nhạt, phía dưới mặc la quần tím nhạt, tóc búi lỏng, thoạt nhìn vô cùng thoải mái. Nàng đẩy cửa ra ngoài, nhìn thấy Đa Cát đang ngồi trên chiếc bàn đá trong sân viết cái gì đó, Thanh Thanh ngồi bên cạnh phe phẩy quạt, dáng vẻ buồn ngủ đến díp mắt nhưng vẫn cố chịu. Bình An như thường lệ không có nhà, cũng chẳng rõ lại chạy đi đâu chơi rồi.
Năm nay Đa Cát đã mười tám, cao ráo tuấn tú, không giống người Bắc Yến trưởng thành trên thảo nguyên mà giống thư sinh nho nhã ở Giang Nam hơn, ở thời đại này thì vừa vặn đến tuổi cưới vợ sinh con rồi.
Thanh Thanh cũng đã mười lăm, tiểu nha đầu ngây thơ vẫn một mực theo sau mông người ta như một cái đuôi nhỏ.
“Tỷ tỷ!” Nghe tiếng động, Thanh Thanh lập tức mở mắt ra vui vẻ kêu lên.
“Tiểu thư dậy rồi.” Đa Cát đứng lên, vội vàng thu hồi giấy tờ trên bàn đá, ngượng ngùng lui về phía sau một bước.
Sở Kiều biết cậu đang làm gì nhưng cũng không nói toạc ra, chỉ đi tới sửa sang vạt áo xộc xệch cho cậu, nhíu mày nói: “Nghiên cứu nâng cao tri thức không phải là chuyện một ngày hai ngày, tối qua mấy giờ mới ngủ mà hôm nay còn dậy sớm như vậy?”
Đa Cát bối rối, cậu thanh niên mười tám tuổi cúi đầu như một đứa trẻ vừa biết sai, ngủ không đủ giấc nên vành mắt cậu đen thui như mắt gấu trúc.
“Phải đấy!” Thanh Thanh ở bên cạnh cũng lập tức lên án: “Ngày nào cũng ngồi đây viết lách, không chịu đi chơi với muội.”
“Thanh Thanh, Đa Cát!” Bình Anh vừa chạy vào vừa gọi to, nhìn thấy Sở Kiều liền vui vẻ nói luôn: “Tỷ tỷ, hôm nay là hội hoa sen, bên ngoài náo nhiệt lắm, hoa sen trong hồ Xuân Hà chỉ một đêm đã nở trắng hồ, tỷ không đi xem sao?”
Thanh Thanh nghe nói lập tức sáng mắt lên, nhưng quay lại nhìn thì đụng phải vẻ mặt thản nhiên của Đa Cát, nói rõ cậu không mặn mà chuyện ra ngoài chơi cho lắm.
Sở Kiều nhìn thấy thì mỉm cười nói: “Được, chúng ta đi tham gia náo nhiệt một hôm vậy.”
Đa Cát cau mày, “Trên đường nhất định có rất nhiều người, thân thể tiểu thư lại không tốt”
“Đa Cát! Hiếm khi tỷ tỷ muốn ra ngoài giải sầu, chớ có làm người khác mất hứng như vậy chứ.” Thanh Thanh đẩy đẩy tay cậu, phụng phịu nói.
Đa Cát bất đắc dĩ nói: “Vậy tiểu thư chờ một chút, ta đi đổi y phục rồi đi cùng mọi người.”
Thanh Thanh và Bình An hớn hở vỗ tay, dáng vẻ như hai đứa trẻ còn chưa lớn.
Bốn người nhanh chóng ra khỏi cửa, Đa Cát đã đổi một bộ trường sam xanh nhạt nho nhã, thoạt nhìn vô cùng anh tuấn. Cậu bung dù trúc che cho Sở Kiều khỏi ánh nắng trưa gay gắt, hai người sánh vai đi cùng nhìn như một bức tranh. Thanh Thanh vác theo một chiếc rổ nhỏ đựng trà ướp lạnh và ít bánh ngọt đi sau như một tiểu nha hoàn.
Cô bé hơi chau mày nhìn Đa Cát và Sở Kiều, đột nhiên lớn tiếng nói: “Tỷ tỷ, sau này muội không búi tóc hai bên nữa.”
Nhóm người đang bước đi, nghe cô bé nói thì đồng loạt sửng sốt.
“Búi tóc hai bên giống con nít lắm, muội đã mười lăm tuổi rồi, phải ra dáng một tí.”
Sở Kiều không khỏi phì cười, biết rõ tâm tư Thanh Thanh nên cũng cười nói: “Ừ nhỉ, Thanh Thanh cũng đã lớn, có thể lấy chồng rồi.”
Bình An quay lại *hừ* một tiếng, day ngón tay vào trán muội muội, “Đồ mặt dày không biết xấu hổ.”
Hai đứa trẻ nhất thời lại cãi nhau ỏm tỏi, rượt chạy tán loạn.
Hôm nay là hội hoa sen, toàn bộ sen trong hồ Xuân Hà đều nở rộ, trắng muốt cả hồ, mỗi khi có gió thổi lại thơm ngát cả vùng. Hương sen ngọt ngào, mặt nước trong xanh, gió thổi vi vu, cánh hoa phớt hồng, đẹp vô cùng.
Hôm nay tâm tình của Sở Kiều rất tốt, nàng nói muốn thuê thuyền dạo hồ, Thanh Thanh và Bình An dĩ nhiên vui vẻ tán thành, Đa Cát cũng không đành làm Sở Kiều mất hứng. Bốn người lên thuyền, Đa Cát đứng ở đuôi thuyền nhẹ dùng sức đẩy, con thuyền nhỏ từ từ rời bờ, len lỏi qua tán lá sen xanh rì.
Thuyền lướt nước thật êm, Thanh Thanh ngồi ở mũi thuyền thích thú lấy tay vén lá sen ra, lục bình chập chờn hai bên mạn thuyền, tiếng người trò chuyện văng vẳng đâu đó không xa, gió mát phe phẩy qua tóc mai, lên vành tai.
Bình An hăm hở hái đài sen cột thành từng bó lớn, cậu vốn không ăn hạt sen nhưng lại chết sống hái như đang giành giật với người khác. Chỉ một chốc sau trên thuyền đã xanh ngắt toàn đài sen.
Sở Kiều cảm thấy tâm tư rộng mở, nàng hít một hơi thật sâu rồi thở mạnh ra, phổi như được thanh lọc, thân thể cũng nhẹ đi vài phần.
“A! Có cá!” Thanh Thanh đột nhiên kêu to, Bình An vội vàng nhìn sang, một chú cá chép đỏ son quẫy đuôi nhảy lên rồi rơi *tõm* xuống, khiến nước bắn đầy hết lên mặt bọn họ.
Đa Cát nhìn Thanh Thanh và Bình An đùa giỡn ở đầu thuyền thì bất giác cũng cười theo, cậu chậm rãi khua mái chèo, mặt nước phản chiếu bóng dáng cao ráo của cậu, vạt áo bồng bềnh, phong thái tiêu sái, đã ra dáng một công tử văn nhã rồi.
Sở Kiều nhìn ba người, cười dịu dàng.
Cả ba đều đã trưởng thành rồi, chỉ có mình nàng vẫn luôn coi bọn họ như trẻ con thôi.
“Đa Cát, em rời nhà cũng gần hai năm rồi, không muốn hồi hương thăm nhà một chút sao?”
Đa Cát nghe hỏi thì thoáng sững sờ, gượng gạo cười nói: “Chờ một thời gian nữa xem thế nào đã.”
Sở Kiều gật đầu, trầm ngâm nói: “Cũng đúng, hiện giờ chiến sự ở biên cảnh phức tạp khó đoán, đích thực là không tiện đi lại.”
“Phải.” Đa Cát gật đầu nói: “Dù sao thì nội cảnh Bắc Yến cũng không có chiến tranh, cha mẹ ta sống ở dưới chân Hồi Sơn đã mấy chục năm rồi, đến nay vẫn bình an vô sự nên ta cũng yên tâm. Nhưng tiểu thư và bọn Bình An có một thân một mình, ta làm sao có thể yên tâm mà đi được.”
Sở Kiều nhất thời sửng sốt, không khỏi cười nói: “Thằng nhóc nhà em không yên tâm cái gì chứ?”
Đa Cát lắc đầu, không nói nguyên nhân mà chỉ lẩm bẩm: “Nói gì thì nói vẫn không yên lòng.”
“Ha ha, hái được rồi!” Thanh Thanh đột nhiên cười to, tay cầm đóa hoa sen thật to, đứng bật dậy nói với Sở Kiều: “Tỷ tỷ, đẹp không này?” Vừa nói vừa định chạy về phía nàng.
Sở Kiều cả kinh, vội vàng kêu: “Thanh Thanh, cẩn thận!”
Nàng vừa dứt lời thì con thuyền nhỏ liền lập tức chao đảo.
“Thanh Thanh, mau ngồi xuống!” Bình An hét lên.
Con thuyền chao đảo càng lúc càng dữ dội, Thanh Thanh thất kinh kêu lớn. Con thuyền nghiêng hẳn sang một bên, Đa Cát buông mái chèo trong tay ra, nhào đến kéo lấy Sở Kiều đang sắp rơi vào trong nước lại. *Tõm* một tiếng, Thanh Thanh rốt cuộc rơi xuống nước.
Nước bắn tung tóe, Bình An cũng lập tức nhảy theo, nhanh chóng chụp được Thanh Thanh.
“Bình An, đưa tay đây.” Đa Cát giơ tay ra, cùng Bình An đưa Thanh Thanh lên thuyền. Tiểu nha đầu bị dọa đến tái mét, run rẩy nép vào lòng Sở Kiều, cắn môi để không khóc thành tiếng.
“Đần chết đi được!” Bình An mắng.
Thanh Thanh nghe mắng, lập tức mếu miệng khóc lên.
“Bình An, chớ nói thế.” Đa Cát khiển trách, “Thanh Thanh còn nhỏ.”
Sở Kiều vỗ vỗ lưng Thanh Thanh, cười nói: “Nha đầu ngốc, em không phải biết bơi sao? Khóc cái gì?”
Thanh Thanh nghe nói thì chợt ngây ra, quên cả khóc, lát sau mới bẽn lẽn cười nói: “Muội quên mất.”
Bình An không nhịn được la to: “Đúng là đần chết được mà!”
May là đang mùa hè, y phục vải nhẹ mỏng nên ngồi một lúc thì đã khô. Có điều bị một trận như vậy nên bọn họ cũng mất hứng, quyết định lên bờ quay về nhà.
Ai ngờ vừa lên bờ thì một đám năm sáu nam tử mặt mũi lưu manh đột nhiên đi tới, lúc đi ngang qua nhóm người, một gã đột nhiên ăn gan hùm mật gấu đưa tay muốn sờ mặt Sở Kiều.
Với thân thủ như Sở Kiều, sao có thể để gã dễ dàng như ý nguyện, nàng chỉ lắc mình một cái đã khiến gã kia chụp hụt.
“Ối chà?” Gã nam tử nọ mặc trường bào thư sinh màu trắng nhưng ngữ khí lại vô cùng cợt nhả vô lại, gã híp mắt quay sang cười nói với mấy gã còn lại: “Tiểu nương tử này thực trơn mịn!”
Cả bọn nghe nói đều đồng loạt phá lên cười ha hả.
Sở Kiều vừa mới khẽ cau mày thì Thanh Thanh đã đột nhiên tiến lên một bước, tức giận mắng: “Không biết xấu hổ! Các người muốn chết à!”
Gã nọ lúc nãy không chú ý đến Thanh Thanh, bây giờ nhìn thấy cô bé thì càng thêm vui vẻ, cười to nói:“Thêm một nàng tư sắc không tồi, tuy còn hơi non nhưng cũng vòng nào ra vòng đó.”
“Tỷ tỷ?” Bình An tức đến đỏ bừng mặt, quay đầu lại nhìn Sở Kiều.
Sở Kiều bất đắc dĩ thở dài, trầm giọng nói: “Cẩn thận một chút, chớ làm lớn chuyện quá.”
Bình An hoan hô một tiếng rồi không đợi mấy gã kia kịp phản ứng đã lao đến như một chú cọp con.
Sau hai tiếng *răng rắc* và cảm giác đau đớn ập đến, gã nam tử kia bay vèo sang một bên như một bao cát, ngực vừa bị đập một đòn thật mạnh.
Thanh Thanh thấy ca ca động thủ thì liền ném cái rổ nhỏ trong tay xuống, cũng xông lên. Đằng sau mấy gã nam tử kia có hơn mười hạ nhân theo hộ vệ, thấy chủ tử bị đánh thì cũng hối hả chạy tới. Thanh Thanh chỉ vung chân một cái đã đạp ngã hai gã hộ vệ, cùng lúc đưa tay bắt lấy tay một gã khác, nhanh như chớp xoay người ném gã qua vai mà vẫn nắm chặt tay gã khiến tay gã nọ bị trật khớp, kéo theo một tiếng kêu thảm thiết như heo bị mổ.
Bình An đạp vào eo một gã khác, lấy đà nhảy lên dùng hai chân giữa chặt cằm gã nọ vặn một cái, một giây sau gã đã nằm xụi lơ trên mặt đất.
Người tụ lại xem càng lúc càng đông, Thanh Thanh dù sao cũng là lần đầu tiên chân chính động thủ với người khác, dần dần có hơi yếu thế, nhưng cũng may có Bình An thân thủ không tệ hỗ trợ, đánh đâu thắng đó. Chỉ thoáng sau mặt đất đã nằm gần năm sáu người, mất sạch khả năng chiến đấu.
Cùng lúc đó, có mấy gã chú ý đến Sở Kiều và Đa Cát đang đứng một bên nhìn, lén lút áp sát hai người định kiếm lợi. Nhưng còn chưa kịp làm gì thì trước mắt như có cái bóng xẹt qua….
Vung tay! Chế trụ! Vặn!
Đa Cát vẫn còn đứng yên tại chỗ, một bước cũng không động đậy thì bên tai đã nghe thấy tiếng xương gãy. Gã người hầu kia nằm trên mặt đất, ôm cánh tay bị gãy kêu la thảm thiết không ngừng.
“Hây yaaaaa!” Thanh Thanh hét to một tiếng rồi tung mình lên đá vào ngực một gã đang định tấn công Bình An khiến gã loạng choạng mấy bước rồi gục xuống đất, không bò dậy nổi nữa.
Lúc tên cuối cùng ngã xuống, con đường không lớn đã ngổn ngang mười mấy người nằm, không ai có thể bò dậy được.
Thanh Thanh đắc ý phủi tay, hừ mũi nói: “Đáng đời! Lần này cho các ngươi một bài học, xem về sau còn dám làm chuyện xấu nữa không.”
Dân chúng tụ tập hóng chuyện nhất thời đồng loạt hoan hô khen ngợi. Bình An còn đang đắc ý, đảo mắt nhìn thấy Sở Kiều và Đa Cát cùng nhau rời đi thì vội vã kéo Thanh Thanh chạy theo.
Đám đông nhìn theo mấy người bọn họ rời đi, không khỏi e ngại cảm thán.
Dưới gốc liễu cạnh bờ hồ, một công tử khoảng hai mươi sáu hai mươi bảy mặc trường sam trắng tinh, lẳng lặng nhìn theo hướng bọn Sở Kiều vừa đi, thật lâu vẫn không rời đi.
Sau khi về đến nhà, bốn người nhìn thấy Mai Hương đang đứng trước cửa chờ với bộ dạng mong ngóng. Nàng thấy bọn họ liền vội vàng chạy đến, lại bắt đầu càm ràm.
Đa Cát nhanh chóng kể lại chiến tích của bọn họ hôm nay, rốt cuộc khiến mặt Mai Hương thoắt trắng thoắt hồng một trận, thế là lại mắng Bình An và Thanh Thanh là yêu tinh chuyên gây chuyện.
Bữa tối có bốn món ăn một món canh, rau thịt đầy đủ, năm người cùng nhau ngồi ăn. Ngô đại nương không ở trong viện nên Mai Hương có dịp xuống bếp, Sở Kiều bị nàng buộc ăn hết một bát cơm đầy mới được tha.
Đến đêm cả bọn ngồi dưới gốc đa tám chuyện hóng mát, Sở Kiều hôm nay ra ngoài nên hơi mệt, nghe câu được câu không, cũng không tham gia nói chuyện.
Mai Hương vừa thêu thùa vừa nói: “Hôm nay có một chuyện lạ, Hoa bà bà ở phố Đông chạy tới tìm ta, nói muốn làm mai cho con trai duy nhất của Tống tiên sinh trường tư thục ở phía nam thành, bị ta trực tiếp cự tuyệt rồi.”
Thanh Thanh nghe vậy thì cười váng lên: “Ha ha ha, cóc mà đòi ăn thịt thiên nga, con trai nhà bọn họ là thứ gì mà cũng dám mơ tưởng đến tỷ tỷ.”
Mai Hương ngẩng đầu lên nhìn cô bé, kỳ quái hỏi: “Ta nói bọn họ muốn cưới tiểu thư hồi nào?”
“Hả? Chẳng lẽ nhìn trúng Mai tỷ sao?”
Mai Hương giơ tay vỗ đầu Thanh Thanh một cái, nói: “Nha đầu ngốc, người ta là để ý muội mới cho người đến làm mai.”
Mai Hương vừa dứt lời thì mặt Thanh Thanh lập tức đỏ ửng, cô bé vội vàng mắng: “Khốn kiếp! Lần sau gặp mặt gã con của Tống lão đầu, muội sẽ chặt đứt chân hắn!”
“Muội có người đế ý là may rồi, còn ở đó già mồm cái gì.” Bình An đang gặm táo, thuận miệng ném ra một câu.
Nhưng Mai Hương lại lắc đầu, nói: “Thật ra thì con trai của Tống tiên sinh không tệ, cũng là người có công danh, còn hết sức văn vẻ lịch sự, nghe nói mùa thu năm nay sẽ tham gia đại khảo rồi. Có điều muốn lấy Thanh Thanh thì không được, Đa Cát năm nay cũng đã mười tám, chờ Thanh Thanh sang năm cập kê thì làm tiệc mừng cho hai đứa được rồi.”
Mai Hương vừa dứt lời thì tất cả đồng loạt sửng sốt, Thanh Thanh mặt đỏ như sắp bật máu, đầu cúi gằm, không còn lớn tiếng phản bác như lúc nãy.
Đa Cát thì thoáng nhăn mày, không tự nhiên nói: “Mai tỷ, ai bảo ta và Thanh Thanh muốn thành hôn?”
Mai Hương nhướng mày, nói: “Còn phải hỏi sao? Ai chẳng biết?”
Đa Cát đứng dậy, bình tĩnh nói: “Ta lại không biết.” Dứt lời liền xoay người trở về phòng.
Tất cả đều ngẩn người, không biết nói gì mới phải, ngay cả Bình An cũng há to miệng ngây ra.
Thanh Thanh đỏ mắt, đứng bật dậy chạy về phòng mình.
“Ta… ta có nói gì sai sao?” Mai Hương trợn mắt há hốc mồm, cũng vội vàng đứng lên đi đến phòng Thanh Thanh.
“Tỷ tỷ, chuyện gì vậy?”
Sở Kiều quay đầu nhìn sân viện trống trải, không đáp lời.
Gió đêm mang theo hơi ấm, tiếng ve sầu rền vang nghe thật não nề.
Đến khuya chợt có người gõ cửa phòng Sở Kiều, Sở Kiều còn chưa ngủ, khoác áo vào rồi ra mở cửa, đập vào mắt là khuôn mặt đầy nước mắt của Thanh Thanh đang đứng trước cửa.
Nhìn thấy Sở Kiều, tiểu nha đầu đột nhiên nhào vào lòng nàng, thương tâm khóc to.
Sở Kiều kéo nàng vào phòng, vỗ về an ủi mãi nhưng Thanh Thanh vẫn không ngừng khóc, cũng không nói gì. Khoảng một canh giờ sau, cô bé mới dịu lại, tuy vẫn còn thút thít mấy tiếng.
“Được rồi, đừng khóc nữa, Đa Cát chỉ nói đùa một câu thôi.”
Thanh Thanh đứng dậy, gạt nước mắt trên mặt, lắc đầu nói: “Không phải đùa đâu.”
Sở Kiều dĩ nhiên hiểu, nhưng không đành lòng khiến cô bé buồn nên vẫn an ủi: “Chớ suy nghĩ nhiều.”
“Thật ra muội biết.” Thanh Thanh cúi đầu, lẩm bẩm: “Đa Cát không thích muội, người trong lòng Đa Cát là tỷ tỷ.”
Sở Kiều sửng sốt, cau mày nói: “Em nói bậy gì đó?”
“Muội không nói bậy.” Thanh Thanh ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhỏ đầy nước mắt nhìn hết sức đáng thương. Cô bé bướng bỉnh nói: “Muội có gặp Đa Cát lén giấu hình tỷ tỷ dưới gối.”
Sở Kiều nhíu mày chặt hơn, hồi lâu cũng không nói gì.
“Nhưng muội cũng biết tỷ tỷ không thích Đa Cát, người trong lòng tỷ tỷ chính là người đã đưa ngọc bội cho tỷ tỷ.” Tiểu nha đầu nói xong, lau nước mắt rồi chạy ra khỏi phòng.
Trăng ngoài cửa sổ vừa lớn vừa tròn, ánh trăng chiếu qua cửa sổ rọi sáng bừng cả gian phòng. Khối ngọc bội trắng như tuyết trên gối bắt ánh trăng, càng thêm sáng bóng.
Sau một đêm không ngủ, sáng sớm hôm sau đã có người gõ cửa tiểu viện. Một thư đồng áo xanh cung kính cúi chào rồi lễ phép nói: “Xin hỏi chủ nhân có nhà không? Công tử nhà ta có việc cầu kiến.”