Hoàng Đế Nan Vi

Chương 112




Kính Mẫn đại trưởng Công chúa ôn hòa nói, “Thê tử của Tiễu nhi bạc mệnh, nay đã qua tang kỳ. Hắn đã từng tuổi này mà vẫn chưa có đích tử, trong lòng của ta cũng lo lắng. Đã xem hết các thục nữ ở đế đô, nếu không phải ở đây không thích hợp thì chỗ kia lại không ổn. Ta muốn nói vài lời tri tâm với nương nương. Đến bây giờ ta còn cầu gì nữa? Chỉ cầu con cháu bình an mà thôi. Nếu Tiễu nhi đã có trưởng tử thì cũng không sao, nhưng năm ngoái thứ tử lại chết yểu, hiện tại ngẫm lại đúng là báo ứng.” Nói xong, Kính Mẫn đại trưởng Công chúa bắt đầu rơi lệ.

Vệ thái hậu nhẹ nhàng khuyên nhủ, “Hoàng tỷ nói lạc đi đâu rồi, xưa nay Hoàng tỷ hành thiện tích đức, thần linh sẽ phù hộ mà.”

Kính Mẫn đại trưởng Công chúa vẫn cúi đầu khóc thút thít, cầm lấy tay của Vệ thái hậu rồi thấp giọng nói, “Mấy năm nay cũng không biết vì sao ta thường xuyên nhớ đến chuyện của Trạch nhi. Lúc trước ta cũng không biết bệnh tình của Trạch nhi nặng như vậy, nếu ta biết thì ta nhất định đã đi thăm hắn.”

Vệ thái hậu thở dài một tiếng, “Hoàng tỷ, chuyện cũ cũng đã qua lâu rồi.” Người bình thường có lẽ sẽ không biết Trạch nhi mà Kính Mẫn đại trưởng Công chúa nhắc đến là ai. Nhưng có thể khiến cho Kính Mẫn đại trưởng Công chúa hổ thẹn đến như vậy thì nhất định không phải tiểu bối vô danh.

Vị Trạch nhi này không phải người vô danh, mà người này có dòng họ rất nổi danh.

Hắn chẳng phải ai khác mà chính là nhi tử duy nhất của Lệ thái tử, Phượng Khải Trạch.

Năm xưa Lệ thái tử đảo chính thất bại, bị tống vào Tông Nhân phủ, Phượng Khải Trạch và mẫu thân bị nhốt trong Đông cung. Nhắc đến thì đúng là oan nghiệt, trên đời ít kẻ giúp người khi hoạn nạn mà lại nhiều kẻ thích giậu đổ bìm leo. Lệ thái tử bị phế, sau khi Phương hoàng hậu tự xin phế thì toàn bộ Đông cung đều rơi vào tình trạng nguy cập, Phượng Khải Trạch ở Đông cung đương nhiên không được chăm sóc tốt, tiểu hài tử quen sống an nhàn sung sướng nên khi lâm bệnh nặng thì đã qua đời.

Lúc ấy Phượng Khải Trạch bệnh nặng, Thái tử phi quỳ xuống đất cầu xin thị vệ canh gác, dập đầu đến mức rướm máu thì thị vệ mới bằng lòng giúp dàn xếp, đem tin tức đưa đến chỗ của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa. Nhưng lúc ấy huynh trưởng bị tống vào lao, mẫu thân thì bị phế, Kính Mẫn đại trưởng Công chúa như chim sợ cành cong, vì sợ bị hoài nghi nên không dám để ý đến chuyện này. Đợi ngày hôm sau ngự y đến Đông cung thì Phượng Khải Trạch đã mất mạng.

Thái tử phi cũng vì vậy mà qua đời.

Nhân Tông hoàng đế vô cùng bi thương, phái người tra rõ chuyện này. Nếu việc này bị Nhân Tông hoàng đế tra ra là Kính Mẫn đại trưởng Công chúa khoanh tay đứng nhìn vì e ngại thì kết cục của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa sẽ không tốt lành gì cho cam.

Phương hoàng hậu đang lâm bệnh biết được việc này thì chẳng nói gì cả, còn cố gắng dốc sức giúp Kính Mẫn đại trưởng Công chúa che giấu việc này. Không có ai biết cảm giác trong lòng của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa lúc ấy như thế nào. Phương hoàng hậu thở dài với nữ nhi, “Ngươi có thể tự bảo vệ mình thì mẫu thân đã an tâm rồi.”

“Mẫu thân giết không ít người, vì thế cũng có vô số người muốn giết mẫu thân.” Bàn tay gầy guộc của Phương hoàng hậu vuốt ve mái tóc đen nhánh của nữ nhi, dịu dàng nói, “Là mẫu thân thì ta có thể yên tâm, là tổ mẫu thì ta phải nói thay Khải Trạch một câu, Kính Mẫn, ngươi phải nhớ, nhân quả báo ứng, lục đạo luân hồi. Hôm nay mẫu thân đau lòng như vậy, ngày sau ngươi cũng phải chuẩn bị tinh thần.”

Sự việc đã trôi qua từ rất lâu, nhưng khi nhớ lại vẫn cảm thấy nỗi bi thương dâng trào rõ rệt.

Kính Mẫn đại trưởng Công chúa bắt đầu chuẩn bị hôn sự cho hai nhi tử.

Minh Trạm: Lã Vọng buông cần.( =bình thản)

Sau khi Minh Trạm từ chỗ của Vệ thái hậu quay về thì cũng không nói lời nào, chỉ cợt nhả suốt ngày. Còn trục lợi khiến Nguyễn Hồng Phi buồn bực, Nguyễn Hồng Phi nhịn không được mà hỏi, “Mũm mĩm, Vệ tỷ tỷ nói cái gì với ngươi vậy?”

“Nói là ngươi mượn tay ta để tính kế Kính Mẫn đại trưởng Công chúa.” Minh Trạm khinh thường Nguyễn Hồng Phi.

Xem ra mình đoán không sai, Nguyễn Hồng Phi ôm vai Minh Trạm, muốn nói lại thôi. Minh Trạm cười he he hai tiếng rồi nhắc nhở, “Nhớ kỹ, ngươi nợ ta một lần đó.”

“Ừm, coi như xóa sổ một trăm vạn ngân lượng lần trước đi.” Tiểu tử thối này nợ ngập đầu mà còn dám tính sổ với hắn nữa. Nguyễn Hồng Phi hào phóng xóa phần nợ mà vĩnh viễn hắn không thể thu hồi.

Minh Trạm đắc ý liếc mắt nhìn Nguyễn Hồng Phi, nheo mắt khoe khoang, “Đưa bọn họ đến đế đô quả nhiên là đúng, không cần ta động thủ, kẻ giấu đầu lòi đuôi cũng bắt đầu lộ mặt.”

Khi Minh Trạm hớn hở khoe ra tài trí thông minh của mình với Nguyễn Hồng Phi, phải bắt lấy kẻ giấu đầu lòi đuôi như thế nào thì Trấn Nam Vương phủ ở Tây Nam cũng truyền đến tin tức quan trọng.

Khi Phượng Cảnh Nam nhận được mật thư của Minh Trạm thì bắt đầu cân nhắc đến cung biến Tây Tạng, giống như Minh Trạm đã nói, nếu có thể cứu được Tàng Vương thì Trấn Nam Vương phủ sẽ là người có lợi nhất.

Đương nhiên ý tứ trong thư của Minh Trạm rất dễ hiểu.

Nếu ngươi muốn là kẻ được lợi nhiều nhất thì cũng phải gánh vác mạo hiểm lớn nhất.

Khi Phạm Thành lên đường đến Tây Tạng thì Phượng Cảnh Nam cũng phái Chu Tử Chính đi sứ Tây Tạng cùng Phạm Thành. Bởi vì Chu Tử Chính từng đàm phán mậu dịch ở biên ải Vân Nam Tây Tạng với Tàng Vương, nhất là Chu Tử Chính rất khéo mồm, lại có kinh nghiệm và thực lực, rất thích hợp làm sứ thần.

Bởi vậy cũng có thể nhìn ra Phượng Cảnh Nam thật sự dốc hết sức để giúp đỡ Minh Trạm. Bằng không, một Phạm Thành với chức quan nho nhỏ thì làm sao đáng giá để Chu Tử Chính ra mặt làm siêu cấp trợ thủ như vậy.

Phượng Cảnh Nam lại tự mình viết một phong thư cho Lạt Ma Tây Tạng và Tây Tạng Vương, trong thư nói thẳng, hắn và Tàng Vương là quân chủ hữu nghị, xem nhau như huynh đệ, nếu thân thể của Tàng Vương không khỏe thì hoan nghênh Tàng Vương đến Vân Nam chữa trị. Đồng thời thảo luận một chút với Lạt Ma Tây Tạng về việc gia tăng các chủng loại vật phẩm giao dịch ở khu mậu dịch. Tiếp theo liền phái thần y Vân Quý Liễu Bàn đi sứ Tây Tạng.

Liễu Bàn mang theo thư của Phượng Cảnh Nam đến Tây Tạng, đồng thời cũng giúp đám người Phạm Thành hóa giải khó khăn.

Bởi vì lúc này Phạm Thành và Chu Tử Chính đã phát hiện tình cảnh của Tạng Vương hình như đã vô cùng bất ổn.

Tàng Vương vẫn luôn hôn mê cho nên mọi công việc lớn nhỏ đều do đệ đệ của Tàng Vương là Nhân Minh thân vương nhiếp chính.

Phạm Thanh và Chu Tử Chính không phải những kẻ đầu đường xó chợ, khi bọn họ đến hoàng cung Tây Tạng ba ngày mà vẫn không thấy Tàng Vương thì hai người liền biết Tây Tạng có lẽ đã xảy ra chính biến. Bọn họ phải vừa đấm vừa xoa thì Nhân Minh thân vương mới nói rõ tình trạng của Tàng Vương cho hai vị sứ thần biết.

Trước tiên Phạm Thành tỏ vẻ quan tâm lo lắng đến thân thể của Tàng Vương, nhẹ nhàng nói, “Nếu Thanh Loan công chúa điện hạ biết được thân thể của Tàng Vương không khỏe thì không biết sẽ cảm thấy thế nào. Bệ hạ chúng ta và Công chúa điện hạ có tình cảm thâm hậu, chắc chắn cũng lo lắng cho an nguy của Tàng Vương.”

Nhân Minh thân vương mang theo vài phần thương cảm, “Vương huynh bỗng nhiên ngã khuỵu không thể dậy nổi, chư vị Vương tử vẫn còn nhỏ tuổi, Lạt Ma ủy thác cho tiểu Vương tạm thời thay đại Vương huynh nhiếp chính. Hầy, nay tiểu Vương luôn lo lắng cho Thanh Loan điệt nữ, không biết Thanh Loan ở hoàng cung của quý quốc có khỏe không?”

“Bệ hạ của chúng ta xem Công chúa điện hạ là báu vật vô giá.” Phạm Thành nói, “Tàng Vương lâm trọng bệnh, sứ thần chúng ta nghe nói Lạt Ma của quý quốc có phật hiệu cao thâm, đức cao vọng trọng. Trước khi đi bệ hạ đã phân phó cho tiểu thần phải đích thân vấn an Lạt Ma, không biết Thân Vương điện hạ có thể an bài hay không?”

Trong lòng của Nhân Minh thân vương không quá tình nguyện, trên mặt vẫn cười nói như cũ, “Tiểu vương rất vinh hạnh.”

Phạm Thành và Chu Tử Chính có cùng quan điểm, cho dù vị Nhân Minh thân vương điện hạ này có liên quan đến việc Tàng Vương ngã bệnh hay không thì hôn sự giữa người Thát Đát và Tử Diên công chúa: nữ nhi của Nhân Minh thân vương đã rất rõ ràng. Hơn nữa Tàng Vương lâm trọng bệnh, Nhân Minh thân vương là người trực tiếp được lợi nhiều nhất.

Lúc này thà rằng nghĩ sai còn hơn tin lầm.

Việc cấp bách, bọn họ cần gặp một vị vương giả khác ở Tây Tạng, chính là Lạt Ma Tây Tạng điện hạ.

Thái độ của Lạt Ma càng khó có thể phân rõ.

“Sứ giả đến từ phương xa, quân vương của các ngươi đang gặp phải kinh thiên đại nạn, hà cớ gì mà sứ giả vẫn còn nấn ná lâu dài ở nơi này?” Trên một phương diện nào đó thì Lạt Ma rất giống thần tiên, bọn họ biết cách nói những lời ám chỉ, những lời này thường xuyên khiến người ta sinh ra vô hạn liên tưởng.

Hơn nữa mặt mũi của Lạt Ma cũng hiền lành, dù sao nếu tính theo khuôn khổ thì tướng mạo của Lạt Ma hoàn toàn bí hiểm hơn hẳn đám đạo sĩ luyện đan hết ăn lại uống trước kia ở trong hoàng cung, người này rất có tướng từ bi độ lượng.

Đối mặt với Phật giáo thì trước kia Phạm Thành còn có chút thành kính, nhưng cực kỳ trùng hợp là trước khi Phạm Thành đến Tây Tạng thì đế đô lại oanh liệt triển khai hoạt động khai trừ các tệ nạn mê tín dị đoan. Ba tên đạo sĩ lừa gạt Hoàng thượng đã bị Hoàng thượng đem ra chém đầu.

Lúc này sự thành kính của Phạm Thành đối với Phật giáo đã trở nên bình thường. Còn nữa, hắn biết Lạt Ma có đức cao vọng trọng ở Tây Tạng, nhưng Phạm Thành cho rằng, Phật tổ thần tiên đều có địa bàn riêng, e rằng vị Lạt Ma Tây Tạng này sẽ không thể bận tâm đến chuyện Thiên triều.

Phạm Thành thản nhiên mỉm cười với câu hỏi của Lạt Ma, “Đại sư phụ, bệ hạ của chúng ta là cửu ngũ chí tôn, thân có bách linh hộ thể, vận mệnh tôn quý, thiên hạ hiếm thấy, cho dù có nguy nan thì với sự anh minh của bệ hạ chúng ta cũng có thể hóa hiểm thành lành, chuyển nguy thành an.”

“Còn nữa, nếu đại sư phụ đoán được tương lai thì ắt là cũng có thể nhìn thấy Hoàng đế bệ hạ của chúng ta sẽ cai quản tứ hải, uy vọng khắp phương.” Phạm Thành ung dung tự nhiên, không hề hoang mang.

Lạt Ma chỉ cười không nói, ánh mắt hiền từ dừng trên mặt của Chu Tử Chính rồi khẽ gật đầu, “Chu đại nhân, lần thứ hai gặp mặt.”

Chu Tử Chính thi lễ, “Đại sư phụ, chúng ta phụng lệnh đi sứ Tây Tạng, ta xin vấn an đại sư phụ.”

“Ta biết rõ ý đồ của các ngươi đến đây.” Lạt Ma ôn hòa nói, “Đây là thử thách vận mệnh của Vương, chỉ có Vương mới có thể tự mình hóa giải.”

Chu Tử Chính nói không nhanh không vội, “Đây là chuyện triều chính của Tây Tạng, không phải là điều là tiểu thần có thể can dự. Tiểu thần đên đây là vì có một chuyện khó hiểu muốn thỉnh giáo đại sư phụ.”

Lạt Ma hơi gật đầu.

“Đại sư phụ, Hoàng đế bệ hạ của chúng ta và Thanh Loan công chúa có quan hệ tốt đẹp. Từ khi Công chúa điện hạ gả cho bệ hạ, mậu dịch của Vân Quý và Tây Tạng càng ngày càng phồn vinh, chúng ta mang đến cho dân Tây Tạng cuộc sống càng thêm phương tiện phong phú. Đương nhiên người Thiên triều chúng ta rất thích vật phẩm của Tây Tạng.” Chu Tử Chính nói, “Tình hữu nghị giữa Thiên triều và Tây Tạng đang êm đẹp, bệ hạ chúng ta căn cứ vào tinh thần hữu ái thân cận, xem Thanh Loan công chúa là bảo vật mà sủng ái. Chẳng biết vì sao Tây Tạng lại đưa Tử Diên công chúa đi nghị thân với người Thát Đát khi triều đình chúng ta đang xảy ra chiến tranh với Thát Đát?”

“Nghe nói ở thời Nhân Tông hoàng đế cũng từng gả Chiêu Hòa công chúa cho Thát Đát Khả Hãn.” Có thể làm Lạt Ma thì trí tuệ tất nhiên không thấp, Lạt Ma mỉm cười, “Mà khi ấy người Thát Đát đang xâm phạm biên ải Tây Tạng. Người Tây Tạng phái sứ thần đến gặp Nhân Tông hoàng đế thì cũng không được đáp án thỏa mãn, nhưng chúng ta vẫn duy trì hữu nghị hòa bình với Vân Quý đấy thôi.”

Chỉ bằng một câu bèn chặn miệng của Chu Tử Chính và Phạm Thành.

Lạt Ma ôn hòa nói, “Ta nghĩ, đối với Thiên triều thì sự tồn tại của Tây Tạng là độc lập, chúng ta cũng không phụ thuộc vào Thiên triều. Chúng ta giáp ranh với Thiên triều, đương nhiên cũng giáp ranh với Thát Đát, chúng ta nghị thân với Thiên triều là vì hòa bình. Như vậy chúng ta nghị thân với Thát Đát cũng là vì vậy. Người Tây Tạng chúng ta luôn hướng đến hòa bình. Hoàng đế các ngươi có lẽ đã có chút hiểu lầm đối với người Tây Tạng chúng ta, thỉnh sứ thần đại nhân nhắn dùm Hoàng đế của các ngươi về thành ý của người Tây Tạng chúng ta.”

Phạm Thành vẫn duy trì phong độ và mỉm cười, “Đại sư phụ, có lẽ ngài hiểu lầm rồi. Bệ hạ của chúng ta cũng không phải có ý kiến gì đối với việc nghị thân giữa Tây Tạng và Thát Đát, điều khiến Hoàng đề của chúng ta khó hiểu chính là nghe nói khi Tử Diên công chúa gả đến Thát Đát thì có hơn một ngàn quân Tây Tạng đi theo. Ngài cũng biết người Thát Đát giỏi nhất là bưng bít mọi chuyện, gần đây người Thát Đát vô lễ xâm phạm biên cương của triều đình chúng ta, trong đó tam Vương tử Thát Đát bị bắt làm tù binh. Bệ hạ của chúng ta là thánh quân xuất thế, nay chuyện mậu dịch ở Vân Quý và Tây Tạng là do một tay bệ hạ của chúng ta chủ trì, vì vậy mới có tân thành phồn vinh như ngày nay. Đây chỉ là một phần nhỏ nhoi trong trí tuệ ngàn vạn của bệ hạ chúng ta. Hiện tại người Thát Đát vô lễ trước, ngày sau bệ hạ của ta nhất định sẽ san bằng thảo nguyên, người Thát Đát rốt cục sẽ phải trả giá đắt cho hành vi vô lễ thô lỗ của mình.”

“Nhưng khiến bệ hạ của chúng ta khó hiểu chính là vì sao quý quốc lại phái quân đội đi theo Tử Diên công chúa? Triều đình chúng ta nhất định sẽ có một trận chiến với Thát Đát, dũng sĩ Tây Tạng bên cạnh Tử Diên công chúa nếu nhận lệnh tham chiến, ở trên chiến trường nếu có va chạm thì phải giải thích như thế nào cho phải?” Phạm Thành cười hỏi, “Xem như người Tây Tạng trực tiếp tham chiến ư?”

“Sứ thần chớ nên hiểu lầm, người Tây Tạng vẫn chưa có ý này.” Lạt Ma sửa lại lời của Phạm Thành, “Tử Diên công chúa gả sang Thát Đát là vì hòa bình chứ không phải vì chiến tranh.”

“Đại sư phụ, chúng ta nói miệng thì cũng không thể ngăn cản đao thương giết chóc. Vân Quý của chúng ta và Tây Tạng giao hảo nhiều đời, Hoàng đế bệ hạ là nhi tử của Trấn Nam Vương điện hạ, đương nhiên là đại sư phụ biết rõ điều này.” Phạm Thành là người giỏi quan sát, đương nhiên có thể phát hiện Lạt Ma trả lời rất trịnh trọng. Lập tức Phạm Thành biết rõ chính mình đã bắt được nhược điểm của Lạt Ma Tây Tạng. Phạm Thành bắt đầu triển khai phán đoán của mình, “Người Thát Đát giết người Thiên triều chúng ta, bệ hạ của chúng ta vì vạn dân, tất sẽ báo thù thay vạn dân. Tàng Vương đương nhiên cũng vì dân chúng Tây Tạng, đại sư phụ cũng phù hộ cho mảnh đất xinh đẹp này, người Thiên triều chúng ta sớm muộn gì cũng sẽ khai chiến với Thát Đát, lần này bệ hạ phái tiểu thần đến đây là thật lòng muốn bảo vệ tình hữu nghị và hòa bình giữa Thiên triều và Tây Tạng. Cho nên thỉnh cầu đại sư phụ có thể triệu quân đội bên cạnh Tử Diên công chúa quay về Tây Tạng. Bằng không, ngày sau Thiên triều khai chiến Thát Đát, đao thương không có mắt, nếu có ngộ thương thì e rằng sẽ tổn hại tình cảm giữa Thiên triều và Tây Tạng.”

Lạt Ma vẫn chưa trực tiếp trả lời Phạm Thành.

Phạm Thành mỉm cười, “Tiểu thần cho rằng Tử Diên công chúa đã đủ để đại diện cho tình hữu nghị của Tây Tạng, tựa như khi Thanh Loan công chúa gả cho bệ hạ chúng ta, Thanh Loan công chúa không hề mang theo bất kỳ tướng sĩ nào, đó là vì Thanh Loan công chúa tin tưởng bệ hạ của chúng ta là nam nhân hùng mạnh nhất trên đời này, đủ để bảo hộ nữ nhân của chính mình. Nay Tử Diên công chúa gả cho Thát Đát lại mang theo quân đội, chẳng lẽ Nhân Minh thân vương điện hạ lo lắng người Thát Đát không thể bảo hộ Tử Diên công chúa hay sao? Hay là không tin tưởng người Thát Đát? Vì vậy mới phái quân đội hộ giá ái nữ? Nếu là như thế thì tiểu thần xin nói thật một câu. Cuộc nghị thân chấn động như vậy thì không cần cũng được!”

“Đại sư phụ cũng biết, Thanh Loan công chúa không chỉ mang theo tình hữu nghị của người Tây Tạng, mà còn mang về rất nhiều sản vật phong phú của Thiên triều chúng ta, cuộc sống của người Tây Tạng càng thêm dồi dào tươi tốt. Nghị thân với người Thát Đát, Tử Diên công chúa mang đến cái gì cho người Tây Tạng? Có thể sánh bằng Thiên triều hay sao?”

Phạm Thành nói thẳng.

Tuy rằng câu hỏi của Phạm Thành không dễ trả lời nhưng nếu hắn nghĩ rằng chỉ như vậy mà có thể làm khó Lạt Ma thì đúng là đã khinh thường Lạt Ma Tây Tạng.