Ải
Hán đêm qua dậy gió thu[12]
[12]
Trích Quân thành tảo thu của Nghiêm Vũ. Dịch thơ: Bùi Hạnh Cẩn, Việt Anh.
Nguyên văn Hán Việt: Tạc dạ thu phong nhập Hán quan - ND.
Thời gian lặng lẽ trôi đi, mới thoắt đó đã
lại tới giữa hạ, lũ ve sầu kêu ra rả suốt cả ngày. Thời tiết càng lúc càng nóng
nực, Huyền Lăng thì cũng ngày một nóng tính hơn, hai ngày trước chỉ vì mấy việc
nhỏ mà đã trách mắng Uông Phân nghi và Mục Lương viện một phen, ngay cả Phúc
Quý tần vốn tính đôn hậu nhất cũng bị mắng cho mấy câu, mọi người trong hậu
cung không có ai là không sợ hãi.
Lý Trường khi tới chỗ tôi cũng từng kể khổ,
rằng mới đây chỉ vì nước trà hơi nóng một chút thôi mà Huyền Lăng đã hắt chén
trà lên người y. Theo hầu bên cạnh Huyền Lăng mấy chục năm, đây có lẽ là lần
đầu tiên Lý Trường phải chịu nỗi ấm ức như vậy, tôi cũng chỉ đành ôn tồn khuyên
nhủ một phen.
Tiếng ve sầu vang lên ra rả, dường như muốn
đâm thủng màng nhĩ người ta. Hoa Nghi đứng một bên nhẹ nhàng phe phẩy quạt, tôi
lòng thầm phiền muộn nên đi vào hậu đường ngủ trưa, đồng thời dặn dò: “Mang sào
dính keo đi bắt hết lũ ve sầu đó lại cho ta, cả ở Nghi Nguyên điện cũng thế.”
Làm sao mà có thể không phiền muộn được
đây? Dịp cuối xuân, Ma Cách Khả hãn của Hách Hách đã nhân lúc cỏ cây tốt tươi,
lương thảo đầy đủ mà dẫn theo hai mươi vạn thiết kỵ từ đô thành Tàng Kinh kéo
thẳng đến Nhạn Minh quan cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.
Nhạn Minh quan tây gần sông Hỷ Lăng, nam
giáp Thượng Kinh, bắc có Chỉ Tiên quan cùng sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nay
vẫn luôn là vùng đất mà nhà binh ắt phải tranh đoạt. Núi Lạc Thiết là biên giới
tự nhiên giữa Hách Hách và Đại Chu, còn Nhạn Minh quan thì giống như một bức
bình phong kiên cố, một khi bị Hách Hách phá tan thì cố đô Thượng Kinh sẽ khó
có cách nào giữ được, ngay cả kinh đô hiện tại là Trung Kinh cũng sẽ lộ ra ngay
trước vó ngựa kiêu dũng của kỵ binh Hách Hách.
Sau hội thề Hà Trì giữa Anh Cách Khả hãn
của Hách Hách với Thái Tổ Đại Chu, Thái Tổ đã phong Mạo Thành Quận chúa làm Kim
Sơn Công chúa rồi gả cho Anh Cách Khả hãn làm đại phi chính thất. Biên giới
giữa Hách Hách với Đại Chu đã nhiều năm không có chiến sự, hai bên còn thông
qua Hỗ Thị để trao đổi hàng hóa, tấp nập vô cùng, chủ yếu là Hách Hách dùng bò,
ngựa để đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng lương thực của Đại Chu, do đó dân chúng đa
phần được an cư lạc nghiệp, đã bao năm rồi chưa gặp phải chuyện binh đao.
Ma Cách Khả hãn của Hách Hách bây giờ là
con trai của Anh Cách, bừng bừng dã tâm, bấy lâu nay vẫn luôn rèn binh luyện
tướng, không ngừng thôn tính các bộ lạc nhỏ yếu xung quanh Hách Hách, từ đó
tăng cường thực lực. Còn Huyền Lăng những năm qua luôn đặt tinh lực vào chiến
sự ở phía tây nam, mong có thể thu hồi cương thổ, về sau lại phải dốc sức bình
định Nhữ Nam Vương, nên khó tránh khỏi có phần buông lỏng sự đề phòng với Hách Hách,
do đó khi đại quân Hách Hách kéo tới thì các tướng sĩ nơi Nhạn Minh quan đều
luống cuống chân tay, không kịp ngăn cản, khó khăn lắm mới giữ được cửa ải
không để bị đánh hạ. Huyền Lăng trong cơn giận dữ liền phái mười lăm vạn đại
quân viễn chinh kinh đô Tàng Kinh của Hách Hách, thế nhưng tướng sĩ Đại Chu
không quen với cái nóng khô hanh ở vùng sa mạc, thêm vào đó năm nay thời tiết
còn nóng hơn mọi năm rất nhiều, nên còn chưa tới nơi thì đã có rất nhiều tướng
sĩ cảm nắng ngất xỉu, Đại Chu coi như chưa đánh đã tự thua.
Huyền Lăng vừa nôn nóng vừa giận dữ, không
kìm được cất tiếng than: “Trong quân chẳng có ai dùng được, nếu Tề Bất Trì còn
tại thế thì tốt biết bao!”
Đáng tiếc Tề Bất Trì chỉ có một, mà Đại Chu
bao năm nay vẫn luôn trọng văn khinh võ, trong triều chẳng có tướng tài, thực
khó mà vãn hồi được cục diện.
Trong cơn nguy ngập, ngay đến Thái hậu cũng
lo lắng và sợ hãi vô cùng, bệnh tình lại càng trở nặng, rốt cuộc đã qua đời vào
ngày Hai mươi bảy tháng Năm ở tây điện của Di Ninh cung.
Cả Đại Chu đều đau buồn, mà ngày Thái hậu
được đưa vào quan tài, Tôn cô cô đã đập đầu vào cột tự vẫn, đi theo hầu Thái
hậu.
Huyền Lăng đau xót vô cùng, để làm tròn đạo
hiếu đã đặt thụy hiệu cho Thái hậu là “Chiêu Thành”, toàn hiệu là “Chiêu Thành
Hiếu Túc Hòa Duệ Thánh Hoàng Hậu”. Tiên đế sau khi phế bỏ Hoàng hậu Hạ thị thì
không lập hậu nữa, cuối cùng chỉ có Chiêu Thành Thái hậu là được an táng trong
Lễ lăng chung với tiên đế. Sau đó Huyền Lăng lại sai đại thần tổ chức tang lễ
long trọng, mình thì mặc đồ trắng để tang cho Thái hậu, đồng thời cho đình chỉ
các buổi chầu ở chính điện trong vòng một tháng.
Đang trong thời điểm nội ưu ngoại hoạn thế
này, Huyền Lăng nóng tính hơn thường ngày thực ra cũng là lẽ đương nhiên.
Sau tang lễ, Huyền Lăng gầy đi rất nhiều,
bờ môi thì vì nội hỏa quá vượng mà nứt nẻ cả ra. Tôi không khỏi có chút âu lo
nôn nóng, bèn mang canh bạc hà tim sen đã hầm cả buổi sáng tới Nghi Nguyên điện
cho y.
Trên bàn, tấu sớ chất cao như núi, Huyền
Lăng ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế chạm trổ hình rồng cuộn phía sau. Đôi làn gió
mát từ cửa sổ hướng bắc thổi vào mang theo hương hoa cỏ thanh tân phớt qua
khuôn mặt y, thế nhưng đám mây đen ngưng tụ giữa đôi hàng lông mày của y thì
vẫn nặng nề vô hạn, mãi chẳng chịu tan.
Y chẳng buồn ngẩng lên, trong giọng nói
toát ra một vẻ uể oải và mỏi mệt tới cùng cực. “Nàng tới rồi.”
Tôi cất giọng ôn tồn: “Thần thiếp mới nấu
được ít canh nên mang tới đây cho Hoàng thượng.”
Y khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Cứ đặt ở đó
đi.”
Đang lúc giữa trưa, một ánh dương từ ngoài
cửa sổ chiếu vào, cái nóng nực của mùa hè liền lan truyền đi khắp khiến người
ta cảm thấy gian điện kín mít này thực là ngột ngạt lạ thường.
Tôi bèn mở cửa sổ ra, lập tức cảm thấy tầm
mắt mở rộng, lọt vào trong mắt là một khu rừng biêng biếc xanh tươi, tâm trạng
tức thì thư thái hơn rất nhiều.
Huyền Lăng hơi cau mày. “Đóng cửa sổ lại
đi, trẫm không thích nghe tiếng gió.”
Tôi khẽ cười một tiếng, nhúng đầu ngón tay
vào một ít dầu bạc hà trong chiếc hộp nhỏ mạ vàng rồi nhẹ nhàng day huyệt thái
dương cho y. “Nhạn Minh quan tuy đang phong thanh hạc lệ nhưng Hoàng thượng anh
minh thần võ, ắt có thể hô mưa gọi gió.” Rồi tôi dịu giọng dò hỏi: “Hoàng
thượng bây giờ đã chọn được ai làm tướng soái chưa vậy?”
Y lộ vẻ khổ não. “Ngoài phò mã Trần Thuấn
và Phủ Viễn tướng quân Lý Thành Nam ra, trẫm không còn lựa chọn nào khác.”
Tôi lại hỏi thêm: “Hoàng thượng sao không
để lục Vương gia và cửu Vương gia thử xem? Nghe nói hai vị Vương gia ấy từng
đảm nhận nhiệm vụ ở Thiết Kỵ doanh trong kinh thành, đều là hạng có bản lĩnh
cả.”
Trên khuôn mặt vàng vọt ánh lên mấy nét âu
lo, y gõ ngón tay xuống bàn làm phát ra những tiếng “cộc cộc” nặng nề, sau đó
do dự nói: “Lão cửu còn ít tuổi chưa trải việc đời, còn về lão lục...” Y suy
nghĩ thêm một lát rồi trầm giọng nói: “Thân vương không thể tùy tiện nắm binh quyền,
nàng đã quên mối họa do Nhữ Nam Vương gây ra ngày trước rồi ư?”
Tôi đành làm bộ kính cẩn. “Thần thiếp quyết
chẳng dám quên.”
Y trầm ngâm nói: “Huynh trưởng của nàng...”
Lòng tôi trầm hẳn xuống, vội nói: “Ca ca
thần thiếp vì chuyện năm xưa mà trên người đã lưu lại mầm bệnh, tuy ngày đêm
đều muốn ra trận giết địch cho Hoàng thượng nhưng hiềm rằng thân thể đã chẳng
còn được như trước nữa rồi. Bây giờ huynh ấy cũng lòng như lửa đốt, có điều tạm
thời chỉ có thể đi theo dưới trướng phò mã thôi, quả thực không đảm đương nổi
những nhiệm vụ nặng nề.”
Y khẽ gật đầu, lộ vẻ áy náy, nói: “Chuyện
huynh trưởng của nàng năm xưa, trẫm quả thực đã có phần lỗ mãng, Hoàn Hoàn,
nàng không trách trẫm chứ?”
Nếu thật sự áy náy thì việc gì phải đợi tới
lúc đại địch đã cận kề trước mắt như thế này? Tôi bất chợt nhớ tới lời của ca
ca lúc trước: “Ta dù có hoài bão gì thì cũng chỉ dám làm đến phó tướng thôi.
Muốn giữ cho người nhà được bình an dưới tay Hoàng thượng, ai mà dám làm thống
soái thống lĩnh vạn quân? Chuyện ngày xưa vẫn còn sờ sờ ra đó, ta quả thực chỉ
có thể như vậy mà thôi.”
Khoảnh khắc trầm tư đó của tôi không thể
nào thoát khỏi đôi mắt của Huyền Lăng, y lại hỏi thêm lần nữa. Tôi đảo mắt rồi
nhẹ nhàng nói: “Thần thiếp chợt nhớ tới Vinh Tần. Nếu không vì Hoàng thượng nhân
hậu, thần thiếp sớm đã chẳng buông tha cho ả dư nghiệt của nhà họ Mộ Dung ấy
rồi.”
Y thầm thở phào một hơi không dễ gì phát
giác. “Những việc này đừng nên nhắc lại nữa.” Sau đó đưa một bản tấu chương cho
tôi, hậm hực nói: “Nàng hãy xem cái này đi.”
Tôi đón lấy mở ra xem thử, không kìm được
hơi biến sắc mặt. “Ma Cách định tiến kinh bái kiến Hoàng thượng ư?”
Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Hắn
dám ngông cuồng như thế chẳng phải vì đã chuẩn bị đủ lương thảo ư! Những lần
trước Hách Hách thất bại chủ yếu là vì lương thảo không đủ, lần này Ma Cách đã
chuẩn bị từ sớm rồi. Hắn rèn binh luyện tướng nhiều năm, tích lũy được không ít
lương thực, đã thế vừa rồi còn ra sức cướp bóc ở bên ngoài Nhạn Minh quan, do
đó mới dám sinh ra dã tâm này.”
Lòng tôi trầm hẳn xuống, vội vàng hỏi: “Hắn
đã chuẩn bị đầy đủ lương thảo như thế rồi, còn phải vào kinh bái kiến làm gì
nữa?”
“Tiếng là bái kiến nhưng thực ra hắn muốn
đoạt lấy hai châu U, Vân của trẫm, còn muốn trẫm hằng năm phải thưởng cho hắn
vàng bạc mỗi loại ba trăm vạn lạng, tơ lụa một trăm vạn sấp, trong khi đó đồ
cống của hắn chỉ là mấy chục thớt ngựa hạ đẳng mà thôi, thực là đáng ghét tột
cùng!”
Tôi căm phẫn nói: “Ma Cách làm thế đâu phải
là muốn tiến cống rồi xin ban thưởng, rõ ràng là có ý làm Hoàng thượng mất mặt.
Những thứ hắn đòi ban thưởng tính tổng cộng phải bằng một phần ba tiền thuế mỗi
năm của Đại Chu, nếu làm như vậy lâu dài, căn cơ của Đại Chu sẽ dần suy yếu,
Hoàng thượng quyết không thể tùy tiện đáp ứng được.”
Trong mắt Huyền Lăng bừng lên những tia lửa
âm u. “Hắn đòi hỏi như thế rõ ràng là đã sử ra công phu sư tử ngoạm. Chỉ đòi
ban thưởng thì thôi còn được, nhưng hai châu U, Vân vốn dễ thủ khó công, là nơi
yếu địa cực kỳ quan trọng, trẫm há có thể cung tay dâng lên được! Hắn nay đã
đánh tới bên ngoài Nhạn Minh quan, đưa ra yêu cầu hà khắc như vậy, thứ nhất là
để thăm dò hư thực của Đại Chu, thứ hai là muốn kiếm cớ cho việc phát động
chiến tranh lần này, hạng hồ lỗ man di như hắn có được tâm tư như thế quả là
không dễ!”
Tôi đầy bụng âu lo, bèn thăm dò: “Hoàng
thượng, hắn dám tới đây như thế chắc là đã sớm có đề phòng rồi đúng không?”
“Hắn muốn cho hai vạn tinh binh đóng ngoài
thành làm tùy tùng hộ vệ. Trẫm vốn định không đồng ý nhưng có tin báo về là đã
có không ít gian tế lẻn vào kinh sư, mà động thì chẳng bằng tĩnh, tạm thời cứ
đồng ý với hắn vậy.” Huyền Lăng cười lạnh, nói. “Thái hậu vừa qua đời, lòng
người đang không yên, thế mà hắn lại định tới đây vào lúc này. Cũng tốt, hắn mà
dám tới thì trẫm sẽ ở đây đợi hắn.”
Tôi xắn tay áo lên, lẳng lặng giúp y mài
mực, một lát sau mới chậm rãi nói: “Ma Cách nhòm ngó Đại Chu ta đã lâu, bây giờ
lương thảo đầy đủ, thực lực đáng gờm, chúng ta quyết không thể ngồi yên chờ
chết được.”
Huyền Lăng thở dài, than: “Sao trẫm lại
không biết điều này chứ? So với thiết kỵ Hách Hách, binh lực Đại Chu không phải
là không sánh bằng, tuy các binh sĩ vì bị cảm nắng mà thể lực suy giảm nhưng
chỉ cần có tướng tốt là tình hình sẽ ổn thỏa ngay. Chỉ là bây giờ tướng tốt khó
tìm, các đại tướng trấn thủ biên cương chẳng qua chỉ gắng gượng cầm cự được mà
thôi, các binh sĩ đổ bệnh thì ngày càng nhiều, chẳng lẽ trời cao thật sự không
phù hộ cho Đại Chu ư?”
Huyền Lăng chỉ lo lắng việc nước mà thôi,
còn tôi ngoài việc nước thì còn phải lo cả việc nhà. Y bây giờ một lòng muốn
tìm tướng tốt, tôi thì lại phải nghĩ cách để ca ca không trở thành vị tướng tốt
đó của y, đồng thời còn phải làm sao cho chiến sự kết thúc, dân chúng được an
cư lạc nghiệp, những nỗi lo nghĩ trong lòng thực là nhiều không tả nổi. Sau một
thoáng trầm ngâm, tôi bèn mỉm cười, nói: “Sao có thể chứ? Hoàng thượng là thiên
tử, trời cao không phù hộ cho người thì phù hộ cho ai? Chẳng hạn như đợt bệnh
dịch năm đó, Hoàng thượng đang vô kế khả thi thì Ôn Thực Sơ đã tìm ra phương
thuốc chữa trị bệnh dịch. Còn cảm nắng thì có phải là thứ bệnh gì ghê gớm đâu,
làm sao khó chữa bằng bệnh dịch năm đó được, mà nói ra mới nhớ, hồi đó trong
cung có bao nhiêu người nhiễm bệnh, nếu như không có phương thuốc của Ôn thái y
thì thật chẳng rõ sẽ có bao nhiêu người phải bỏ mạng nữa. Rốt cuộc vẫn là Ôn thái
y có lòng, về sau đã lưu lại một số mẫu bệnh cùng với cách chữa trị...” Tôi lảm
nhảm một hồi như thể đang tán gẫu với y. Y thì chỉ lặng im lắng nghe, ngón tay
vạch đi vạch lại trên mặt bàn, trông bộ dạng thì dường như đang có điều suy tư.
Ánh dương chiếu trên bức tường sơn màu đỏ
son dần trở nên mờ nhạt, thứ màu đỏ kia thì càng lúc càng đậm đến nỗi như có
thể nhỏ ra nước, cứ thế chảy vào mắt người ta. Tôi bất giác thầm nghĩ, một
người nếu giết chóc đến đỏ cả mắt, liệu cặp mắt có biến thành như vậy không? Lần
theo hướng ánh dương chiếu xuống, trái tim tôi dần bay lên bầu trời xanh biếc,
trong lòng ngoài nỗi sầu lo còn có một sự tò mò, vị Ma Cách Khả hãn đang xua
quân tiến đánh Nhạn Minh quan kia rốt cuộc là một nhân vật như thế nào?
Ngày Hai mươi tháng Bảy, khi Ma Cách vào
kinh, Trung Kinh đang trong thời điểm nóng nực nhất. Huyền Lăng không muốn gặp
hắn ở kinh sư, bèn lấy cớ “tránh nóng” mà tiếp kiến Ma Cách tại Thái Bình hành
cung ở Tây Kinh.