Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 3 - Chương 12: Tiếng ve theo gió tới




Hiển nhiên, tôi đã hết sức cảm động. Dù rằng từng nghi kỵ nàng ta nhưng tình ý của nàng ta với ca ca thì tôi lại không thể xem thường. Những sự nghi hoặc và khúc mắc từng tồn tại trong lòng kia lúc này đã tiêu biến đi không ít dưới những lời lẽ khẩn thiết của Lăng Dung. Đắc sủng thì sao? Thất sủng thì thế nào? Tôi và Lăng Dung chẳng qua chỉ là hai trong số vô vàn nữ tử thân bất do kỷ ở chốn thâm cung này thôi.

Chúng tôi không có thân thể, cũng không thể giữ lại cho mình một trái tim hoàn chỉnh, một phần còn sót lại kia thì cũng bị vướng bận bởi quá nhiều người, quá nhiều việc và quá nhiều tình cảm. Có thứ đáng để vướng bận, có thứ không đáng, quả thực quá nhiều.

Thứ chúng tôi có thể tranh giành chẳng qua chỉ là một chút ân sủng mỏng manh và dễ dàng tan biến của kẻ đế vương. Muốn sống ở chốn hậu cung này, chúng tôi không thể không phân tranh, thứ duy nhất khác biệt chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài sẽ già đi rất nhanh theo năm tháng. Hồng nhan già đi trong nháy mắt, chưa già ân sủng đã đứt đoạn trước rồi, cuộc sống tuổi già có lẽ sẽ thê lương như nhau. Tới khi đó, những con người ôm gối kề vai ngồi quanh lò sưởi trò chuyện không chỉ là chúng tôi hồi trẻ, mà còn là chúng tôi trong độ già nua trơ trọi bơ vơ.

Đã như vậy, tôi còn có thể một mực canh cánh trong lòng những lời của nàng ta ngày đó sao? Chỉ vì mối tình si của nàng ta với ca ca, tôi cũng nên mở rộng lòng mình hơn một chút.

Sau buổi tâm sự hôm đó, tôi và Lăng Dung đã dần thân thiết với nhau hơn, cũng thường xuyên cùng đến cung Hoàng hậu thỉnh an. Huyền Lăng rất vui vẻ khi thấy cảnh tượng các thê thiếp của mình hòa thuận, thêm vào đó sau khi được khôi phục ngôi vị, Hoa Phi cũng không có hành động gì lớn, hậu cung bước vào giai đoạn yên bình, Huyền Lăng dường như có vẻ rất hài lòng về điều này.

Mười mấy ngày sau tết Đoan Ngọ, khí trời bắt đầu trở nên nóng nực, mấy cung nhân cầm quạt lông đứng bên cạnh phe phẩy mà vẫn không xua hết được cái nóng. Thế là Huyền Lăng bèn hạ chỉ cho các phi tần và hoàng thân quốc thích cùng mình tới Thái Bình hành cung ở Tây Kinh để tránh nóng.

Cả một đoàn hậu phi cùng rời đi, trừ các phi tử thất sủng và không có địa vị gì mấy, duy có My Trang là ngoại lệ. Tỷ ấy thoái thác với Huyền Lăng: “Thái hậu xưa nay chưa từng rời khỏi Tử Áo Thành, thần thiếp nguyện thay Hoàng thượng ở lại trong cung bầu bạn với Thái hậu, qua đó làm tròn đạo hiếu của kẻ cháu con.”

Nghe thấy lý do quang minh chính đại như vậy, Huyền Lăng tất nhiên không thể phản đối, còn hết sức khen ngợi hành động này của My Trang, ban thưởng rồi để tỷ ấy ở lại trong cung.

Khi tới Thái Bình hành cung, các đại thần nội thị sớm đã an bài ổn thỏa tấthảy mọi việc. Huyền Lăng vẫn ngụ tại Thủy Lục Nam Huân điện, Hoàng hậu ngụ tại Quang Phong Tễ Nguyệt điện, tôi vẫn giống như trước đây, ngụ tại Nghi Phù quán ở ngay cạnh hồ sen, còn Ngọc Nhuận đường mà My Trang từng ở thì được chuyển giao cho Lăng Dung.

Ngày đầu tiên sau khi đến Thái Bình hành cung, tôi quyết định tới chỗ Lăng Dung ngồi chơi một lát. Thế nhưng gã thái giám dẫn đường lại không đưa tôi tới Phồn Anh các, nơi ở của Lăng Dung trước đây. Tôi không kìm được cất tiếng hỏi: “An Tiểu viện không ở Phồn Anh các sao?”

Gã thái giám cười, đáp: “Bẩm nương nương, An tiểu chủ hiện ngụ tại Ngọc Nhuận đường rồi. Hoàng thượng nói An tiểu chủ và nương nương vốn thân nhau, ở gần nhau như vậy sẽ tiện việc chiếu cố, mà đường tới chỗ Hoàng thượng cũng gần.”

Tôi khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Bản cung còn có việc, tạm thời không tới chỗ An Tiểu viện nữa, ngươi lui xuống đi!” Gã thái giám đó cung kính khom người vái chào, sau đó liền cáo từ rời đi.

Cận Tịch đỡ tay tôi chậm rãi quay trở về, thấy tôi có vẻ âu sầu thì liền thử thăm dò: “Nương nương đang thương cảm vì chuyện của Thẩm Dung hoa sao?”

Tôi dừng bước, gật đầu, đáp: “Năm xưa My Trang xuân phong đắc ý, vậy mà giờ đây Ngọc Nhuận đường đã đổi chủ rồi, quả là cảnh còn người mất. Ta sợ rằng mình tới đó sẽ khó tránh khỏi tức cảnh sinh tình.”

Cận Tịch thưa: “Nương nương xem trọng tình cảm tỷ muội trong cung, quả là hiếm có. Chỉ có điều nương nương cũng nên nhớ rằng trong hậu cung có vô vàn nương nương tiểu chủ, khó mà lường trước. Nương nương tuy quan tâm đến Thẩm Dung hoa nhưng cũng không cần vì việc này mà thương cảm.”

Tôi cười buồn bã, nói: “Cận Tịch, ta cứ luôn thích để tâm tới những việc nhỏ nhặt như vậy đấy!”

Cận Tịch cười, nói: “Nương nương đôi lúc quả có hay đa sầu đa cảm, nhưng cũng chỉ có những người dịu dàng, lương thiện mới như vậy, còn người lạnh lùng, tàn khốc thì không bao giờ.” Nàng ta hơi nghiêm mặt, nói tiếp: “Nhưng lần này An tiểu chủ ngụ tại Ngọc Nhuận đường thứ nhất là vì muốn gần gũi với nương nương, thứ hai là để tiện cho Hoàng thượng sủng hạnh. Nương nương nhất định cũng đã nhìn ra, An tiểu chủ bây giờ đắc sủng không kém gì Thẩm Dung hoa độ trước.”

Tôi đưa mắt liếc nhìn nàng ta, hỏi: “Ngươi muốn nói gì?”

Cận Tịch suy nghĩ một chút, khẽ cất tiếng đáp: “Nô tỳ không hiểu tại sao nương nương lại xa lánh An tiểu chủ, nhưng nhất định là có liên quan tới việc nương nương mắc bệnh thêm lần nữa sau khi thất sủng; cũng không biết tại sao nương nương và An tiểu chủ lại xóa bỏ hiềm khích cũ, hòa hảo trở lại nhưng nhất định là có liên quan tới việc An tiểu chủ đích thân sắc thuốc cho nương nương khi nương nương bị nhiễm phong hàn lần này. Nô tỳ tuy không thấu tỏ ngọn nguồn nhưng khi nương nương thất sủng, tiểu chủ chưa từng tới chăm sóc một ngày, bây giờ lại đích thân sắc thuốc, tâm ý thất thường như thế thực khiến người ta phải hoài nghi.”

Lời này của Cận Tịch có thể nói là cực kỳ chuẩn xác, cũng chạm vào nỗi lo lắng trong lòng tôi. Tôi hỏi: “Ngươi cũng cảm thấy An tiểu chủ đáng ngờ sao?”

Cận Tịch khẽ đáp: “Dạ!”

Tôi chậm rãi đi tới, ngồi xuống dưới lùm cây: “Không phải là ta chưa từng nghĩ vậy, khi ta mắc bệnh, Lăng Dung đã cắt thịt làm thuốc cho ta, kỳ thực bệnh của ta đâu đến mức như vậy? Nhưng lòng người dù có bạc bẽo đến mấy thì cũng còn một chút tình cảm. Muội ấy hẳn cũng có sự vướng bận và lưu luyến của bản thân. Dù ta từng ôm mối khúc mắc với muội ấy nhưng điều vướng bận của muội ấy lại khiến ta không thể không chấn động.”

Cận Tịch nói: “Nô tỳ không rõ mối vướng bận của An tiểu chủ mà nương nương nói đến là gì, nhưng mong rằng nương nương có được một nửa sự dữ dằn, tàn độc của Hoa Phi.” Cận Tịch thấy tôi im lặng thì ngỡ là tôi tức giận, lập tức quỳ xuống, mặt không đổi sắc, nói: “Xin thứ cho nô tỳ lắm lời, khuyết điểm của nương nương chính là ở chỗ lòng dạ quá mềm yếu, suy nghĩ cho người khác quá nhiều. Người lòng dạ mềm yếu thường hay bị liên lụy bởi chính lòng dạ mềm yếu của mình, mong nương nương hãy suy nghĩ cho kĩ.”

Tôi vẫn không nói gì, gió rất nhẹ, những tán cây rậm rạp trên đầu xào xạc lung lay, thứ âm thanh phát ra khi lá cây cọ xát vào nhau đó thực khiến lòng người vui vẻ, nhưng trái tim tôi lúc này lại chẳng vui vẻ chút nào. My Trang ngày càng tỏ ra lạnh nhạt với tôi, sự gần gũi của Lăng Dung thỉnh thoảng lại khiến tôi nhớ tới sự khúc mắc ngày trước, còn Cận Tịch thì nghĩ tôi lòng dạ mềm yếu, không đủ tàn độc với kẻ địch. Tuy tôi lần nữa nhận được sự sủng ái của Huyền Lăng nhưng điều này vẫn chưa thể khiến tôi cảm thấy hoàn toàn yên tâm được.

Khẽ gạt một sợi dây nhỏ trên tà váy, tôi trầm giọng nói: “Gần gũi mà vẫn đề phòng, đó mới là cái đạo đối nhân xử thế hay nhất trong hậu cung. Cận Tịch, hậu cung quá lạnh lẽo, tình cảm của phu quân không đáng tin, tình cảm của chủ bộc cũng có nhiều điều tráo trở, nếu đến cả tình tỷ muội ngày trước cũng hoàn toàn không để ý đến, trong cung còn thứ gì có thể làm ấm lòng người nữa đây? Tuy đôi lúc Lăng Dung có những hành vi khiến người ta bất ngờ, nhưng so với một số người thì muội ấy vẫn có mấy phần thật dạ.”

Cận Tịch cúi đầu im lặng, lát sau mới nói: “Nếu không có chuyện về sau, sau khi nương nương vào cung, An tiểu chủ quả thực cư xử với nương nương rất thật lòng.”

Tôi nói: “Việc lòng người dễ thay đổi, ta cũng hiểu, nhất định sẽ cẩn thận.”

Thế rồi Cận Tịch không nói gì thêm, chỉ cùng tôi về cung nghỉ ngơi.

Thế nhưng tôi vẫn phải qua lại với Lăng Dung một chút, dù rằng chỗ ở của nàng ta bây giờ là nơi mà My Trang từng trú ngụ ngày xưa.

Hôm ấy trời trong xanh, mát mẻ, tôi dẫn Hoán Bích và Lưu Chu đến Ngọc Nhuận đường của Lăng Dung, thấy khắp vườn trồng đầy trúc, khiến cảm giác mát mẻ càng tăng thêm. Tình cảnh này vô cùng quen thuộc. Đôi mắt tôi bỗng mờ đi, khung cảnh này dường như vẫn chẳng khác gì hồi tôi mới được ân sủng. Dưới ánh hoàng hôn mờ mịt trong mùa hè nóng nực năm nào, tôi cùng My Trang đốt đèn hoa sen, thả vào từng vại nước trong Ngọc Nhuận đường mà tìm niềm vui thú.

Thời thế đổi thay, hiện giờ sủng phi ngụ tại nơi này đã là Lăng Dung. Đi tới bên dưới bậc thềm làm bằng đá vân mẫu, hai bên dãy hành lang trước đây vốn đặt đầy những chậu hoa cúc mà My Trang yêu thích, hoa cúc vốn nở vào mùa thu nhưng vì khi đó, My Trang đắc sủng, lại rất thích hoa cúc, do đó Huyền Lăng liền sai thợ khéo ở vườn hoa trồng ra giống mới, vào mùa hạ vẫn có thể nở rộ như thường, thực là một cảnh tượng hiếm có. Lúc này, hoa cúc đã chẳng còn thấy đâu, một gã thái giám dẫn theo mấy tiểu cung nữ đi đổi chậu hoa mới, miệng quát: “Chỗ hoa cúc đó đem trả lại hết cho vườn hoa, đổi sang những loại hoa mà tiểu chủ thích, mỗi chậu đều phải sắp xếp cho thật chỉnh tề, dễ coi.”

Tôi thoáng cảm thấy không vui, bèn nói với gã thái giám: “Chỗ hoa cúc đó đem trả lại cũng đáng tiếc, hãy mang hết đến Nghi Phù quán của bản cung đi.”

Gã thái giám nhìn thấy là tôi thì vội vàng cười nịnh nọt. “Nương nương đã thích, nô tài tất nhiên sẽ vâng lệnh, có điều đám hoa đó đều nở không đúng mùa, lại chẳng có mùi thơm, chi bằng để nô tài bảo người đổi sang loại hoa thơm hợp vụ rồi đích thân mang tới chỗ nương nương…”

Hắn tự cho rằng mình thông minh, cứ lải nhải mãi, hoàn toàn không phát hiện ra tôi đã biến hẳn sắc mặt. Vừa khéo lúc này Cúc Thanh vén rèm, bưng nước đi từ trong tẩm điện ra, nhìn thấy vẻ không vui của tôi thì rất nhanh đã đoán ra nguồn cơn sự việc, vội vàng trách mắng tên thái giám kia: “Nương nương bảo ngươi làm gì thì ngươi cứ làm theo là được, phận nô tài mà sao lại lắm mồm như thế, muốn bị cắt lưỡi hay sao?”

Gã thái giám đó cả kinh, lập tức câm miệng, lủi thủi dẫn theo người ôm những chậu hoa rời đi.

Tôi cười, nói: “Nha đầu ngươi trở nên mồm miệng sắc bén như vậy từ bao giờ thế?”

Cúc Thanh khom người hành lễ với tôi, cười híp mắt, nói: “Nương nương cất nhắc nô tỳ đi hầu hạ tiểu chủ, nô tỳ không dám không dốc hết sức mình.” Thị chỉ tay về phía tấm rèm trúc, nói: “Tiểu chủ vừa mới ngủ dậy đấy!”

Trong điện tịch mịch không có tiếng động, mùi An tức hương đốt đêm qua còn chưa tan hết, những tấm rèm trúc xung quanh tẩm điện đều được cuộn lên một nửa, ánh bình minh len qua đó chiếu vào những tia lờ mờ, ấm áp.

Không có thị nữ hầu hạ kề bên, Lăng Dung không phát hiện ra là tôi đã tới, vẫn ngồi một mình trước chiếc bàn trang điểm cạnh cửa sổ, mái tóc dài buông xõa qua bờ vai thon, hãy còn chưa vấn. Những thứ đồ trang sức châu ngọc bày đầy trước mặt nhưng nàng ta không hề ngó đến, chỉ xoài người lên ô cửa sổ trổ hoa màu đỏ sẫm đang hé mở một nửa, khiến khuôn mặt nhỏ nhắn càng bừng lên nét đáng yêu, như một bông sen trắng thuần khiết trên mặt hồ buổi sớm.

Lăng Dung mặc một chiếc áo ngủ rộng thùng thình, đôi mắt khép hờ mang đầy vẻ suy tư, thân thể càng toát ra nét mỏng manh, yếu đuối, như thể phải mang theo quá nhiều nỗi âu sầu. Hồi lâu sau, một giọt lệ chậm rãi rơi xuống từ khóe mắt nàng ta.

Tôi lặng lẽ đi tới bên cạnh, khẽ cất tiếng hỏi: “Muội muội cớ sao lại khóc thế?”

Lăng Dung nghe thấy giọng tôi thì đột ngột mở bừng đôi mắt trong veo, ánh mắt ngợp đầy vẻ kinh hãi, vội vàng lau đi giọt lệ bên khóe mi, miễn cưỡng nở nụ cười. “Tỷ tỷ đến sớm quá!”

Tôi giữ lấy vai nàng ta, không để nàng ta đứng dậy, cười nói: “Muội muội cũng dậy sớm mà, chỉ e còn chưa tỉnh ngủ, vẫn đang lờ đà lờ đờ kìa.”

Nàng ta kéo tay tôi, mời tôi ngồi xuống, khẽ nói: “Muội ngủ không ngon, đêm qua gặp ác mộng.”

Tôi cầm chiếc quạt bằng ngà voi trên bàn lên ngắm nghía, phần cán quạt bạch ngọc được điểm xuyết bằng một con dơi màu đỏ chế thành từ mật lạp[1], một chiếc lá màu xanh chế thành từ phỉ thủy, một bông hoa màu hồng khảm trai, cực kỳ tinh xảo và trang nhã.

[1] Một loại vật chất có nguồn gốc giống như hổ phách, nhưng không trong suốt.

Tôi khẽ phe phẩy chiếc quạt, chậm rãi nói: “Muội muội có tâm sự mà lại giấu ta sao?”

Nàng ta thoáng do dự, rốt cuộc cũng nói: “Chân công tử…”

Sắc mặt tôi dần trở nên u ám, không nói gì thêm. Lăng Dung mặt đầy nét u sầu, ai oán. “Chân đại nhân thật sự nhẫn tâm như vậy sao? Dù gì Chân công tử cũng là con trai duy nhất của ông ấy…”

Tôi kiên quyết lắc đầu. “Khi thê tử mang thai lại tới chốn thanh lâu, còn vì một nữ tử phong trần mà vứt bỏ vợ con, gây điều dị nghị. Cha ta không có đứa con như vậy, ta cũng không có người ca ca như vậy.” Tôi khó lòng che giấu nỗi thương tâm. “Huống chi ca ca cũng đã chính miệng nói rồi, thà cần Giai Nghi chứ không cần quan tước, gia đình. Tẩu tẩu đã quay về nhà mẹ đẻ, ca ca bất chấp luân thường đạo lý như vậy, thực không thể tha thứ nữa rồi!”

Lăng Dung bi thương nói: “Như vậy thanh danh cả đời huynh ấy coi như đã bị hủy rồi!”

Tôi cố kìm nén cơn giận, buồn bã cất tiếng: “Là tự tay ca ca hủy hoại đó thôi!”

Cặp mắt Lăng Dung như bị phủ lên một lớp sương mù. “Sao tỷ tỷ còn giận công tử như vậy, huynh ấy cũng có nỗi khổ tâm của mình mà. Tỷ không cảm thấy huynh ấy rất đáng thương sao? Tỷ biết không, bây giờ mọi người trong cung đều chê cười huynh ấy, ai ai trong đô thành cũng coi thường huynh ấy, còn gọi huynh ấy là ‘bạc hạnh Chân lang[2]’, thần sắc lộ rõ vẻ khinh miệt. Tỷ tỷ là muội muội ruột thịt của huynh ấy, chẳng lẽ không lo lắng cho huynh ấy chút nào sao?” Lăng Dung nói liền một mạch, trong giọng nói còn kèm theo tiếng thở dốc

[2] Có nghĩa là chàng Chân bạc tình.

Tôi nhìn nàng ta chằm chằm, cất giọng nặng nề: “Không phải ta không lo lắng cho ca ca, mà huynh ấy căn bản không thèm để tâm tới sự lo lắng của ta. Vì một nữ tử phong lưu mà bỏ mặc phụ mẫu song thân đã dưỡng dục mình hai mươi năm trời, đòi bỏ người vợ kết tóc đang mang đứa con trong bụng, bất chấp luân thường đạo lý trên thế gian. Huynh ấy có từng lo lắng cho chúng ta không?” Trong đôi mắt tôi ánh lên những tia dò xét. “Không biết ca ca có từng lo lắng cho muội không?” Tôi nhìn đôi bờ môi hơi hé ra vì kinh ngạc của nàng ta, cười nói: “Có lẽ nữ tử tên Giai Nghi đó thật sự khá giống muội.”

Lăng Dung cảm thấy hết sức bất an, không dám ngước mắt lên nhìn tôi, chỉ khẽ gọi: “Tỷ tỷ.”

Tôi xoa nhẹ bờ vai nàng ta, giúp nàng ta kìm nén nỗi bất an trong lòng, nói: “Thế giới của nam nhân, nữ nhân chúng ta không thể thấu hiểu được đâu. Mặc kệ nữ tử đã khiến ca ca mê đắm kia là người như thế nào, tâm tư của chúng ta chỉ cần đặt ở hậu cung là được, việc bên ngoài chúng ta không có sức mà ngăn cản, bọn họ cũng chẳng thèm để ý đến chúng ta đâu.”

Cảm giác bất lực của tôi dần thể hiện rõ ràng trong lời nói, thế giới của nam nhân, nữ nhân quả thực không thể nào thấu hiểu hết. Chẳng hạn như Huyền Lăng, tôi có từng hiểu y thực sự không? Và y có bao giờ thực sự hiểu được cảm giác của tôi? Chắc là không bao giờ.

Cặp mắt Lăng Dung tràn ngập vẻ ngẩn ngơ, tựa như một chú hươu nhỏ vừa trải qua cơn kinh sợ, hồi lâu sau mới cất giọng yếu ớt đến nỗi cơ hồ không thể nghe thấy: “Muội chỉ lo cho huynh ấy thôi… Tỷ tỷ, muội lo cho huynh ấy.”

Tôi không thể nói với nàng ta những sự thật thật giả giả trên thế gian này và nàng ta cũng không cần phải biết. Biết rồi thì sao đây? Lo lắng nhiều thêm sao? Đây không phải là việc mà nàng ta cần lo lắng, nàng ta là nữ nhân của Hoàng đế, sủng phi của Hoàng đế, suốt đời suốt kiếp đều là của Hoàng đế, sao có thể phân tâm đi lo lắng cho nam nhân khác được.

Thế nhưng sự lo lắng của Lăng Dung lại khiến trái tim tôi xao động, tôi lặng lẽ bới cho nàng ta kiểu tóc nhiều tầng, lại cài thêm những thứ đồ trang sức châu ngọc, kèm cả hoa tươi, sau đó mới bình thản nói: “Hãy cười lên nào, như vậy Hoàng thượng mới thích muội.”

Nàng ta chỉ lặng im, chậu hoa sơn chi trên bàn trang điểm đương lúc nở đẹp, mùi thơm dìu dịu của hoa xua tan mùi hương liệu nặng nề còn sót lại đêm qua, khiến người ta cảm thấy khá thoải mái. Lăng Dung thở dài than: “Thực ra tỷ tỷ biết rất rõ Hoàng thượng thích cái gì, không thích cái gì, tại sao vẫn thất sủng?”

Tôi bện nốt cho nàng ta lọn tóc cuối cùng, khẽ mỉm cười, nói: “Bởi vì tuy ta biết nhưng có lúc lại không làm được.”

Lăng Dung nhìn tôi không chớp mắt. “Vậy còn My tỷ tỷ thì sao, điều tỷ tỷ biết, tỷ ấy nhất định cũng biết, tại sao tỷ ấy cũng thất sủng?”

Tôi hơi cau mày, hờ hững đáp: “Bởi vì tỷ ấy không cần.”

Lăng Dung không hỏi gì thêm, tự đi chọn váy áo mặc vào, nghiêm túc ngồi xuống, thần sắc đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh. Trước lúc đi, tôi nói: “Muội yên tâm, chuyện gì rồi cũng sẽ qua thôi.”

Lăng Dung trịnh trọng gật đầu, đột nhiên nở một nụ cười rạng rỡ, quyến rũ vô cùng.

6

Những ngày tháng trong Thái Bình hành cung nhàm chán vô cùng, thời gian trở nên thừa thãi, vô số thứ quy củ vụn vặt trong cung đều đã bị tạm thời bãi bỏ. Các phi tần theo tới đây không nhiều, chỉ có Hoàng hậu, Hoa Phi, Đoan Phi, Kính Phi, Hân Quý tần, Tào Tiệp dư, Điềm tần, Thận Tần, tôi và Lăng Dung, còn Tần Phương nghi mà độ trước đã từng theo tới thì sớm đã biến mất trong ký ức của mọi người, cũng chẳng có ai nhắc đến.

Có lẽ vì đã quá lâu không có sủng phi nào mới, sau khi sống trong hành cung được một tháng, Huyền Lăng liền phong một thị nữ tên Kiều thị làm Canh y, vài ngày sau lại tiến phong làm Thái nữ, có vẻ khá sủng ái. Các thị nữ trẻ tuổi xinh đẹp trong cung không ai không mong ngóng có một ngày được bay lên cành cây cao, hóa thân thành phượng hoàng, còn vì thế mà dốc hết tâm cơ. Từ xưa đến nay, những người từ cung nữ trở thành cung tần cũng không phải là ít, chẳng hạn như Thuận Trần Thái phi, thân mẫu của Bình Dương Vương, ban đầu vốn chỉ là một cung nữ chuyên việc thêu thùa, may vá, hay như Diệu Âm nương tử trước đây.

Đây vốn chỉ là một việc hết sức bình thường, cũng chẳng có mấy ai để ý, nhưng khi Tào Tiệp dư đến nói với tôi rằng Kiều thị là cung nữ tùy thân trong cung của Hoa Phi, tôi liền bắt đầu lưu tâm.

Tào Tiệp dư nói: “Hoa Phi nương nương sợ ngày sau lại thất sủng, cộng thêm bây giờ đã mất đi sự giúp đỡ của Lệ Quý tần, cho nên sớm đã có ý bồi dưỡng chân tay. Chỉ là Tần Phương nghi vô dụng, mà Hoa Phi cũng không còn muốn trọng dụng những nữ tử con nhà quan lại nữa, vì sợ sau này bị phân chia sự sủng ái quá nhiều không thể chế ngự, do đó mới chọn ả Kiều thị này.”

Gian thủy các dùng để tránh nóng hiện giờ cực kỳ mát mẻ và kín đáo, tôi khẽ búng nhẹ ngón tay, hỏi: “Kiều thị là người thế nào? Tào tỷ tỷ có từng chú ý đến không?”

Nàng ta khẽ mỉm cười, vuốt nhẹ ống tay áo, nói: “Nương nương muốn nghe lời nói thực lòng sao?” Thấy tôi chỉ nhìn những chiếc lá sen xanh biếc đầy trên mặt hồ, nàng ta lại tiếp: “Hoa Phi nương nương quá nôn nóng, chỉ e lần này đã thất sách rồi!”

Tôi “ồ” lên một tiếng, mắt hơi nheo lại, quay qua nhìn nàng ta. “Tại sao lại nói vậy?”

Tào Tiệp dư đáp: “Kiều thị tuy có chút thông minh vặt, nhan sắc cũng vào hạng khá nhưng chẳng qua chỉ là kẻ tầm thường, khó mà làm nên việc lớn. Hoa Phi nương nương muốn dựa vào cô ả để chia sẻ bớt sự ân sủng của Hoàng thượng với nương nương và An Tiểu viện, thực chẳng phải hành động sáng suốt.”

Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một ả Kiều thị lại có thể cự lại được chúng tôi, chỉ khẽ thở dài một tiếng: “Coi như Hoa Phi đã mưu cùng kế cạn rồi!”

Tào Tiếp dư hơi nhếch khóe môi, nở nụ cười như có như không, hờ hững nói: “Nếu là trước đây, ả ta nhất định không cho phép các thị nữ có nhan sắc bên cạnh mình tùy tiện tiếp cận, vậy mà bây giờ lại…”

Tôi khẽ mỉm cười. “Thời thế nay đã khác rồi!”

Thời gian cứ thế chậm rãi trôi đi. Hành cung không giống với hoàng cung, tôi lại vì lời răn của Thái hậu nên không dám tùy tiện tham gia vào việc triều chính, do đó, việc của Nhữ Nam Vương rốt cuộc chỉ nghe ngóng được mấy chi tiết vụn vặt. Cuộc sống trong hành cung an nhàn mà thư thái, lại không có những quy củ ước thúc, do đó, tôi cũng thoải mái hơn nhiều, coi đây là một đợt nghỉ dưỡng thể xác và tinh thần vốn đã vô cùng mỏi mệt.

Ngày đầu tháng Bảy, trong cung tổ chức tiệc đêm. Hoàng hậu ngồi bên trái, tôi và Lăng Dung cùng ngồi bên phải, Huyền Lăng ngồi ở chính giữa, cùng ngắm cảnh ca múa bên dưới. Đang vào hồi say sưa, sứ giả mà Huyền Lăng phái đi thăm hỏi Thái hậu đã quay về, lập tức bẩm báo rằng Thái hậu thân thể khỏe mạnh. Huyền Lăng hết sức vui vẻ, vội vàng nói: “Mẫu hậu thân thể an khang, trẫm cũng có thể yên tâm được rồi!” Sau đó liền ra lệnh trọng thưởng cho ngự y đã chữa bệnh cho Thái hậu.

Lăng Dung mỉm cười, nâng chén lên, nói: “Thái hậu có thể khỏe lại như vậy, Hoàng thượng ngoài thưởng cho ngự y ra còn cần thưởng cho một người khác nữa mới đúng.”

Huyền Lăng thoáng suy nghĩ một chút, hỏi: “Là ai vậy?”

Lăng Dung cười, nói: “Hoàng thượng quên là Thẩm Dung hoa vẫn luôn tận tâm bầu bạn bên cạnh Tháiậu sao?” Thế rồi đưa mắt liếc qua phía sứ giả.

Sứ giả lập tức cung kính thưa: “Thẩm Dung hoa chăm sóc Thái hậu rất mực chu đáo, tỉ mỉ, thường xuyên tự tay làm mọi việc, đến thuốc cũng tự mình nếm thử trước rồi mới dâng lên cho Thái hậu, Thái hậu hết lời khen Thẩm Dung hoa hiếu thảo.”

Huyền Lăng giật mình bừng tỉnh, vui vẻ nói: “Quả đúng là vậy, Thẩm Dung hoa ngày đêm hầu hạ, công lao không nhỏ chút nào.” Rồi lập tức truyền chỉ: “Hãy truyền ý chỉ của trẫm tới Tử Áo Thành, phong Dung hoa Thẩm thị làm Tiệp dư tam phẩm, bổng lộc tăng gấp đôi.”

Hoàng hậu mỉm cười nói: “Hoàng thượng thưởng phạt công minh, hiếu thuận với mẫu hậu, đúng là tấm gương cho người trong thiên hạ.”

Huyền Lăng tỏ vẻ tươi cười, hết sức vui vẻ, quay sang nói với Lăng Dung: “Cũng là nhờ Dung Nhi nhắc nhở”, rồi lại nói: “Dung Nhi ở ngôi tiểu viện đã lâu, khiêm tốn nhún nhường, thực là hiếm có. Giờ hãy phong làm Tần chính ngũ phẩm đi.”

Lăng Dung vội vàng đứng dậy tạ ơn. Hoàng hậu chợt lên tiếng: “Dùng chữ nào làm phong hiệu đây?”

Tôi rót cho Huyền Lăng một chén rượu đầy, y đang có tâm trạng tốt, liền ngẩng đầu uống cạn, tiện miệng nói: “Cứ dùng họ làm hiệu là được.”

Lăng Dung ngây ra, trên mặt thoáng qua nét không vui nhưng rất nhanh đã khôi phục nụ cười, lần nữa dịu dàng tạ ơn.

Hoàng hậu và tôi đưa mắt nhìn nhau, không kìm được đều thoáng ngây người. Xưa nay khi phi tần tiến phong, phàm là Quý nhân, Tần, Quý tần, Phi, Phu nhân hay Tứ phi, tất cả đều có phong hiệu và lấy đó làm niềm vinh dự, ngạo nghễ với mọi người. Duy chỉ có những phi tần không đắc sủng hoặc gia thế hàn vi mới phải dùng họ làm phong hiệu. Lăng Dung không phải không đắc sủng, vậy việc không có phong hiệu chỉ có thể là vì xuất thân hèn kém của nàng ta.

An Tần, danh vị này vốn khá đáng tự hào nhưng chỉ vì sự khác biệt ở một chữ phong hiệu mà niềm vinh quang đã mờ nhạt hẳn đi. Lòng tôi thầm nguội lạnh, chỉ có thể dùng ánh mắt an ủi Lăng Dung, chuẩn bị dâng lời với Huyền Lăng.

Hoa Phi đưa mắt thoáng liếc qua tôi, nở một nụ cười rạng rỡ, nói với Huyền Lăng: “Thực ra chữ ‘An’ trong họ An rất tốt, lấy ý từ câu ‘bình an hỷ lạc’, tốt hơn so với phải nghĩ phong hiệu khác nhiều.” Nói rồi liền liếc qua phía Lăng Dung vẻ đầy giễu cợt.

Lăng Dung chỉ giả bộ như không nhìn thấy. Tôi suy nghĩ một chút, cảm thấy không cần thiết phải nói gì thêm, Hoa Phi đã mở miệng, Huyền Lăng tất nhiên sẽ không từ chối. Hơn nữa, đây cũng không phải việc gì lớn, e rằng ngay đến bản thân Lăng Dung cũng không muốn vì một phong hiệu mà khiến Huyền Lăng có ấn tượng không tốt về mình. Nhưng lúc này, tâm trạng nàng ta chắc chắn vô cùng khó chịu. Liệu nàng ta có oán hận gia thế và xuất thân của mình, lấy đó làm điều đáng xấu hổ không? Với tính tình nhạy cảm của nàng ta, chắc sẽ khó mà tiếp nhận nổi. Nhưng tất cả những điều này, Huyền Lăng đều không hề để tâm đến, y chỉ làm mọi điều theo trực giác của mình, vì bỗng nhớ ra Lăng Dung không hề có xuất thân hiển hách.

Bữa tiệc diễn ra tới đây, với Lăng Dung mà nói đã không còn gì thú vị nữa.

Tôi khẽ thở dài, thế nhưng trong đáy lòng lại có một tia mừng vui mà đến bản thân cũng thấy khó hiểu, thì ra địa vị của Lăng Dung trong lòng Huyền Lăng chỉ có vậy mà thôi.

Về sau, Hân Quý tần từng nhắc tới việc này trước mặt tôi, còn tỏ ra vừa căm phẫn vừa vui mừng trước tai họa của người khác: “Muội muội tuy giao hảo với An Tần nhưng ta cũng không ngại nói thẳng với muội muội… Vị An muội muội đó của muội đúng là biết tỏ ra mình ngoan ngoãn quá. Thẩm Tiệp dư vất vả lắm mới chỉ được tăng một cấp, vậy mà cô ta chỉ vì nhắc đến công lao của Thẩm Tiệp dư cũng được tấn thăng một cấp, muội nói xem là ai đắc ý nào?” Nàng ta lấy khăn tay, lau nhẹ chỗ phấn trên cánh mũi mình, vui mừng ra mặt, nói: “May mà Hoàng thượng anh minh, tuy cho cô ta lên làm Tần nhưng ngay tới phong hiệu cũng không ban. Ta thấy trên đường về, cô ta đã giận đến phát khóc đấy, thế mà thường ngày vẫn giả bộ như không có chuyện gì xảy ra.”

Thời tiết nóng nực làm người ta muốn đổ mồ hôi, tôi cầm một viên băng lên, bỏ vào miệng, chờ nó từ từ tan chảy, sau đó mới nói: “Hân tỷ tỷ hà tất phải nói về An muội muội mãi, thường ngày muội ấy cũng có đắc tội gì với tỷ đâu. Muội ấy không có phong hiệu vốn đã thương tâm rồi, sao tỷ tỷ còn phải oán trách thêm.”

Hân Quý tần vừa cắn hạt dưa vừa nói: “Thẩm Dung hoa được tấn thăng làm tiệp dư ta tâm phục khẩu phục. Nếu không vì những cuộc phong ba năm xưa, chỉ e nàng ta sớm đã được đứng vào hàng quý tần rôi. Có điều, ta không vừa mắt cái bộ dạng èo uột của An Tần, lúc nào cũng ra vẻ đáng thương, như là phải chịu rất nhiều ấm ức vậy. Thế mà muội muội còn có thể gần gũi được với cô ta…” Hân Quý tần xưa nay chưa hề thích Lăng Dung, khi có đông người cũng không hay trò chuyện với nàng ta nhưng đây khó có thể coi là sự đố kỵ, mà giống như sự chán ghét tự đáy lòng thì đúng hơn.

Các nữ tử xuất thân hào môn thường xem thường những nữ tử xuất thân hàn môn, do đó có thể nó sự đối lập giữa hào môn và hàn môn không chỉ ở triều đường, mà còn có ở chốn hậu cung.

Hân Quý tần lại nói tiếp: “Hoa Phi tuy bá đạo, ngang ngược, nhưng lần này vì việc phong hiệu mà mở miệng cũng không phải là quá đáng. Quãng thời gian An Tần đắc sủng kia quả là trời giận người oán, suốt ngày độc chiếm Hoàng thượng, đến cái bóng của người, chúng ta cũng không nhìn thấy. Thật chẳng như lúc Hoàng thượng sủng ái muội muội và Thẩm Tiệp dư, người còn thường tới cung của bọn ta ngồi chơi.”

Tôi nói: “Tỷ tỷ nặng lời rồi. Hoàng thượng đặt toàn bộ tâm ý lên người muội ấy, tất nhiên khó tránh khỏi có phần bỏ sót chúng ta. Tỷ tỷ hãy mở rộng tấm lòng, mọi người kỳ thực đều phải trải qua những chuyện như vậy mà.”

Hân Quý tần khẽ “hừ” một tiếng, thể hiện sự xem thường với Lăng Dung rồi nói tiếp: “Lẽ nào muội muội quên việc ngày đó, cô ta thừa dịp muội sẩy thai, thất sủng để quyến rũ Hoàng thượng sao? Sau khi muội và Điềm Tần sẩy thai, Hoàng thượng gần như không tới thăm bọn muội lần nào, còn không phải vì bị cô ta mê hoặc…”

Tôi không muốn nghe tiếp, bèn cất tiếng cắt ngang: “Tỷ tỷ, những chuyện đã qua rồi hà tất phải nhắc lại làm gì nữa?”

Hân Quý tần trề môi, nói: “Muội muội tuy không muốn nhắc đến, nhưng có ai mà không bất bình thay cho bọn muội đâu.”

Nàng ta không nói tiếp nữa, bắt đầu kể về một số chuyện thú vị gần đây khi Thục Hòa Công chúa học vẽ. Nàng ta thường ngày vốn nói nhiều, lại mau mồm mau miệng, thành ra cứ nói suốt một tràng dài. Tôi nghiêng đầu lắng nghe nhưng tâm tư thì lại có chút mơ màng, thì ra tia mừng vui khó hiểu xuất hiện trong bữa tiệc đêm hôm đó lại có nguồn gốc từ đây.

Tôi bất giác sinh lòng tự giễu, thì ra tôi cũng chỉ là một nữ tử bình thường với lòng dạ hẹp hòi, dễ đố kỵ và canh cánh trong lòng vì những chuyện đã qua.

Thế nhưng, điều khiến người ta khó hiểu là sau cơn phong ba nho nhỏ về phong hiệu đó, sự sủng ái của Huyền Lăng với Lăng Dung đã dần không còn mãnh liệt như trước, chỉ hơn một chút so với người thường. Tình hình ở hậu cung bắt đầu từ Lăng Dung một mình được sủng ái biến thành phải chia sẻ với tôi và Hoa Phi, sau đó là trăm hoa đua nở, tất cả cùng phô bày sự quyến rũ của mình. Có rất nhiều phi tần vốn bị ghẻ lạnh đã lâu nay lại được thấy mặt rồng, lần lượt được đưa tới Thái Bình hành cung tránh nóng.

Mà những phi tần hiện đang đắc sủng có quá nửa là xuất thân từ danh gia vọng tộc, chẳng hạn như Đoan Phi, Hoa Phi, Lý Tu dung, tôi, Hân Quý tần, My Trang, Uông Mục Tần và Triệu Vận Tần. Đối mặt với biến cố này, Lăng Dung tuy có chút buồn bã nhưng rốt cuộc cũng hờ hững, không tỏ vẻ gì.

Trong Thái Bình hành cung nhất thời xuất hiện cảnh muôn hoa đua sắc, náo nhiệt vô cùng.

Sáng sớm hôm ấy, tôi dẫn Lưu Chu tới hồ Phiên Nguyệt lấy một ít nước sương đậu trên hoa sen về dùng cho việc đun nước pha trà. Những lá sen biêng biếc phủ khắp nơi, hoa sen nhô lên, từng gợn sóng nhỏ đung đưa ánh vàng. Đi thuyền giữa hồ, cảm giác như đang dạo bước trên con đường sâu thẳm tịch mịch, thỉnh thoảng lại hái một bát sen, bóc hạt sen ra ăn, ấy cũng là một lạc thú của tôi mỗi ngày.

Chiếc thuyền nhỏ rẽ nước trôi đi, tôi chợt nhớ ra Đoan Phi ngụ tại Vũ Hoa các ngay bên bờ hồ Phiên Nguyệt, lòng thầm máy động, bèn nói: “Theo ta tới thăm Đoan Phi nương nương.”

Còn chưa đến nơi, từ xa đã nghe thấy tiếng đàn tỳ bà văng vẳng, uyển chuyển du dương. Vừa nhìn thấy Đoan Phi, tôi lập tức vỗ tay cười rộ, vui vẻ nói: “Thực không ngờ nương nương lại có tài gảy tỳ bà hay như vậy, nương nương giấu bản lĩnh kĩ quá đấy!”

Nàng ta nhìn thấy tôi bước vào thì chỉ mỉm cười, gật đầu, khúc nhạc kết thúc liền thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ, nói: “Năm xưa Thuần Nguyên Hoàng hậu chính tay dạy ta gảy tỳ bà, chỉ tiếc rằng ta thiên tư không đủ, chỉ học được ba, bốn phần mười tài nghệ mà thôi, chẳng đáng để khoe khoang với đời.”

Sự ngưỡng mộ và sợ hãi của tôi với Thuần Nguyên Hoàng hậu bất giác lại tăng thêm một tầng, Đoan Phi gảy tỳ bà điêu luyện như vậy mà mới chỉ bằng được ba, bốn phần mười tài nghệ của Thuần Nguyên Hoàng hậu, thật chẳng hay tiếng đàn của Thuần Nguyên hoàng hậu phải xuất thần nhập hóa đến mức nào?

Tôi chỉ khẽ cười: “Nương nương có tài nghệ như vậy, chẳng trách lại được Hoàng thượng yêu mến.”

Đoan Phi khẽ cười hờ hững, bảo tôi ngồi xuống, nói: “Chẳng giấu gì muội, Hoàng thượng đến chỗ ta chỉ là để nghe tỳ bà mà thôi, với thân thể yếu ớt này của ta, căn bản không có sức hầu hạ Hoàng thượng qua đêm.” Nụ cười của nàng ta dần ẩn vào hai chiếc lúm đồng tiền. “Hiện giờ trong Thái Bình hành cung có quá nhiều phi tần, ai cũng được sủng ái, sao muội muội còn có nhã hứng đến chỗ ta vậy?”

Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, mỉm cười nói: “Sự ân sủng nhất thời thì có tính là gì, tỷ tỷ thông minh rất mực, tất nhiên có thể đoán ra đạo lý bên trong.” Tôi nhấm nháp dư vị trà còn sót lại, nói tiếp: “Mùa thu năm nay lại có đợt tuyển tú ba năm một lần, không biết bao nhiêu người mới nữa sẽ vào cung, mấy việc hiện thời thực chẳng đáng nhắc tới.”

Đôi mắt nàng ta sáng trong như dòng nước suối, đong đưa qua lại. “Muội muội thường được bầu bạn bên Hoàng thượng, biết về tình hình triều chính, do đó mới có thể điềm tĩnh, ung dung như vậy.”

Tôi khiêm nhường nói: “Muội chẳng qua là hạng nữ lưu, có thể biết điều gì được, chỉ yên phận giữ mình mà thôi. Không phải nương nương cũng điềm tĩnh trước mọi việc sao?”

Đoan Phi mỉm cười không nói, lại ngẩn ngơ nhìn bầu trời xanh biếc không một gợn mây, tôi chậm rãi chọn một củ ấu bóc ăn, tự tìm lấy niềm vui thú cho mình. Hồi lâu sau, Đoan Phi mới lại nhìn tôi, nói: “Chuyện An Tần chẳng qua chỉ là sự khởi đầu mà thôi, chắc hẳn ngày sau chúng ta cũng không thể đặt mình ra ngoài mọi việc được.”

Tôi thở dài, than: “Có kẻ lên ắt phải có người xuống, Hoàng thượng cố ý không ban phong hiệu cho An Tần chẳng qua là để xoa dịu cơn giận của các nữ tử hào môn trong hậu cung về việc muội ấy đắc sủng bấy lâu mà thôi.”

Đoan Phi cũng thở dài ngơ ngẩn, kế đó liền hờ hững nói: “Việc hậu cung cũng như triều chính, vốn chẳng có gì khác biệt.”

Tôi khẽ mỉm cười như chưa hề nghe thấy, chỉ có cảm giác mùa hạ này sao mà dài đến thế, dài đến vô chừng, tiếng ve sầu kêu liên miên, như thể vĩnh viễn chẳng có điểm dừng.