Trường tổ chức một cuộc thi kéo co, yêu cầu mỗi lớp đều phải tham gia.
Gần tan học, thầy Hứa thông báo về cuộc thi và yêu cầu những bạn nào muốn tham gia thì đến chỗ thầy đăng ký. Phản ứng của cả lớp đều nhạt nhẽo như mọi khi. Đối với một ngôi trường như Nhất Trung, việc nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa là điều rất hiếm hoi, vậy nên thầy Hứa đã kiên nhẫn động viên học sinh một hồi. Kết quả thì cũng không nằm ngoài dự đoán, chẳng ai đoái hoài đến lời thầy nói.
Thầy Hứa bực bội ném quyển sổ xuống bàn, sau một khoảng im lặng dài đằng đẵng, thầy lên tiếng, giọng nói pha lẫn giận dữ và hoang mang: “Là các em có thù oán gì với tôi hay là có thù oán gì với ai? Không một ai! Không một ai muốn nên người sao?”. Cả lớp im phăng phắc. Lý Cố định lên tiếng giải vây cho thầy nhưng cậu rất rõ ràng, thứ thầy Hứa cần không phải là thái độ của bất kỳ một cá nhân nào. Thầy thật lòng muốn tốt cho lớp, thầy muốn những đứa trẻ này đều có thể cùng thầy vượt qua con sông này.
Nói đến khô cả họng, cuối cùng thầy Hứa nhìn lướt qua đám học sinh một lượt rồi bước ra khỏi lớp.
Cũng may là “nhân chi sơ, tính bản thiện”, những đứa trẻ này dù sao cũng không đến nỗi quá xấu xa. Chỉ là quá trình giáo dục chúng cũng giống như nước chảy đá mòn, không thể một sớm một chiều. Sau khi bị thầy Hứa giáo huấn, lớp học trở nên ngoan ngoãn lạ thường, ngay cả cách thầy Hứa giảng bài cũng không còn cứng nhắc như trước. Rõ ràng là thầy đã bắt đầu nghiêm túc với công việc dạy học. Thầy Hứa vốn đã có tài ăn nói, đặc biệt là khi giảng văn cổ, thầy giảng rất hay, có lúc cao hứng còn có phần hơi “khùng khùng”, khiến cả lớp cũng bị cuốn theo. Chuyện cuộc thi kéo co tạm thời bị bỏ ngỏ, nhưng những thay đổi tích cực thì vẫn đang âm thầm diễn ra.
Giáo viên dạy hay thì sẽ có người nghe. Có người chịu khó lắng nghe, thì cũng có người bằng lòng dạy dỗ. Thầy Hứa ở lại lớp nhiều hơn bao giờ hết. Ban đầu, nhiều học sinh tỏ ra khó chịu, nhưng thời gian trôi qua, họ phát hiện ra vị giáo viên già gầy gò này cũng có những điểm thú vị riêng, không đến nỗi đáng ghét. Ít nhất là so với những giáo viên khác của lớp 7, họ đều cảm thấy “vẫn là thầy Hứa được hơn”.
Giáo viên tiếng Anh là một phụ nữ trẻ khoảng ba mươi tuổi, cũng giống như những giáo viên khác của lớp 7, cô đến rồi đi đều rất vội vàng, lên lớp thì đọc theo sách giáo khoa, đến tiết luyện tập thì phát đề rồi tự mình chuồn đi, đến tiết sau lại quay lại đọc đáp án. Có lẽ những người đồng nghiệp đều đã rút ra được kinh nghiệm trong việc giáo dục kiểu học sinh này – càng ít giao tiếp, càng ít bận tâm thì càng sống lâu.
Tuy nhiên, gần đây cô nghe thầy Hứa khen lớp 7 khá nhiều trong phòng giáo viên, nên trong lòng cũng có chút tò mò muốn thử xem sao. Trong giờ học, cô bất ngờ gọi Dư Uy đang ngủ gật dậy đọc bài. Dư Uy đang ngủ mơ màng bị gọi dậy, cơn buồn ngủ khiến cậu im lặng không nói, giáo viên tiếng Anh tức giận, cảm thấy mất mặt, quát: “Em nói chuyện cho tử tế!”. Dư Uy lười phản ứng, cậu vốn dĩ nghĩ rằng giữa mình và giáo viên có một sự ăn ý ngầm là không can thiệp vào công việc của nhau, giờ thì sự ăn ý đó đã bị phá vỡ, tâm trạng cậu không được tốt cho lắm. Nữ giáo viên trẻ tuổi cảm thấy mất mặt, trong lúc nóng giận đã buột miệng nói: “Đồ không có dạy!”.
“Cô nói lại lần nữa xem?”
Nói không sợ cậu học sinh cao lớn này là giả, nhưng một người lớn như cô sao có thể để một đứa trẻ làm mất mặt: “Em dám cãi lời giáo viên à?”. Giọng Dư Uy trầm xuống, toát lên vẻ ngỗ nghịch điển hình của tuổi mới lớn: “Tôi bảo cô nói lại lần nữa.”
Nữ giáo viên trẻ tuổi cảm thấy vô cùng nhục nhã, cơn tức giận bùng phát, cô cầm quyển sách tiếng Anh dày cộp đập mạnh vào lưng Dư Uy, vừa đánh vừa mắng như phát điên: “Sách không lo học, chỉ giỏi thế này thôi sao!”, “Đồ không có dạy, ra ngoài xã hội cũng chỉ là thứ rác rưởi, đến trường làm gì nữa, cút ra ngoài luôn đi!”.
Dư Uy nghiến chặt răng, mặc cho sách giáo khoa đập vào lưng, nắm đấm cậu siết chặt rồi lại buông ra, nhưng cuối cùng vẫn không dám thật sự ra tay, dù sao đối phương cũng là phụ nữ. Cuối cùng, vì quá đau, Dư Uy đẩy cô ra: “Cô là cái thá gì mà làm giáo viên!”. Nói xong, cậu đùng đùng đá văng cửa lớp bỏ chạy. Lý Cố thầm nghĩ, cánh cửa sau này nên thay bằng gỗ thì hơn, cửa sắt bị đá một cái tạo ra tiếng động lớn đến mức cả hành lang như muốn rung chuyển.
Đối diện với đám học sinh đang ngơ ngác, nữ giáo viên trẻ tuổi bước lên bục giảng, cười lạnh lùng: “Các em xem kìa, như thế này mà còn học hành gì nữa, dạy một con lừa còn hơn dạy các em!”. Như thể sợ cơn giận của mình không đủ lớn bằng người kia, cô ta cũng đập mạnh quyển sách xuống bàn. Sau khi cô ta bỏ đi, cả lớp nhìn nhau ngơ ngác. Lần đầu tiên sau khi giáo viên rời đi, lớp học im lặng đến vậy, sự im lặng cứ thế kéo dài.
Một lúc sau, thầy Hứa vội vã chạy đến, nhìn vào trong lớp qua khung cửa sổ, thấy cả lớp đều đang chăm chú đọc sách, thầy cũng không nói gì mà bỏ đi.
Mấy ngày sau đó, tiết tiếng Anh đều được đổi sang môn khác, sau đó thầy Hứa đến phát đề tiếng Anh và công bố đáp án cho cả lớp. Những đứa trẻ là người gốc ở đây luôn có cách moi móc tin tức từ phụ huynh: “Hình như cô giáo tiếng Anh sẽ không đến dạy chúng ta nữa rồi. Thầy chủ nhiệm đã mắng Dư Uy, bắt cậu ấy về nhà viết bản kiểm điểm, nhưng cũng nói cô giáo kia, nói cô ấy không nên nói học sinh như vậy.”
“Học kỳ sau em cũng chuyển trường, bố em đã tìm người lo liệu rồi. Chẳng ai muốn dạy chúng ta cả.”
“Haiz, thật ra em thấy thầy Hứa cũng được mà, nhưng những môn khác thì không có ai dạy.”
…
Những ngày tháng không có tiết tiếng Anh cứ thế trôi qua suốt hai tuần, cuối cùng cũng đến ngày phải học bài mới. Mọi người đều đang đoán xem vấn đề sẽ được giải quyết như thế nào, chỉ có Dư Uy là tự giác, cứ đến giờ tiếng Anh là cậu lại lẳng lặng chuồn đi. Chuông vào lớp reo ba hồi, thầy Hứa xuất hiện, trên tay là quyển sách tiếng Anh và một chiếc máy cát-sét to đùng. Rồi trước sự chứng kiến của cả lớp, thầy bảo mọi người lật sách ra bài mới và đọc theo thầy.
Phát âm của thầy thật sự rất kém, vừa mở miệng đã khiến cả lớp choáng váng. Kỳ lạ là thầy Hứa nói tiếng Trung không hề có giọng địa phương, nhưng khi đọc tiếng Anh thì người ta có thể nhận ra quê quán của thầy ngay lập tức. Vài học sinh thì thầm to nhỏ không biết có nên cười hay không, thầy Hứa cũng bất chợt ngậm miệng, sau đó cả lớp chìm vào im lặng.
Thầy Hứa bình tĩnh nói: “Thầy không biết đọc, hồi bé thầy không có giáo viên dạy tiếng Anh. Lên đại học cũng không sửa được giọng, các em đừng học theo thầy, nghe nó đọc đi”. Nói rồi thầy bật máy cát-sét lên.
Cuộn băng rõ ràng đã được nghe đi nghe lại nhiều lần, thầy Hứa thuộc lòng vị trí của từng đoạn. Máy cát-sét đọc một từ, trong lớp vang lên lác đác vài tiếng đọc theo. Trước đây, việc đọc theo băng không phải là không có, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, mọi người đều cảm thấy kỳ lạ. Thầy Hứa sốt ruột: “Đọc đi!”. Giọng thầy the thé vì gắng sức.
Lý Cố nhìn thầy chằm chằm, cậu hít một hơi thật sâu, sau khi thầy Hứa nhấn nút cho máy đọc một từ, cậu gào lên theo, âm lượng gần như hét. Trong mắt thầy Hứa cũng dâng lên những cảm xúc khó tả, thầy nhẹ nhàng nói: “Lại nào”. Nói rồi thầy cho máy đọc lại một lần nữa, lần này có thêm nhiều người tham gia hơn.
Khi thầy Hứa nhấn nút một lần nữa, lần đầu tiên lớp 7 đồng thanh đọc theo băng. Giọng nói non nớt ấy thật vang dội.
Họ đã hiểu, không ai muốn dạy họ tiếng Anh nữa, chỉ còn thầy Hứa là không chê bai bỏ rơi họ. Những đàn em thường lêu lổng theo Dư Uy đọc rất hăng say, như thể muốn phản bác lại điều gì, nhưng lại không biết mình đang muốn phản bác lại điều gì.
Cho dù là “những đứa trẻ hư”, cũng có lúc không muốn bị bỏ rơi.