Lý Cố cảm thấy eo mỏi nhừ, hai chân cũng không thể khép lại được. Dù Kỷ Hàn Tinh có lý trí hơn người so với lứa tuổi của mình, nhưng dù sao cũng là một chàng trai trẻ tuổi khí huyết phương cương, khi tình đến nồng nàn, Lý Cố là người “ở dưới” vẫn phải chịu chút khổ sở.
Lúc này anh đang nằm nghỉ ngơi lấy lại sức, Kỷ Hàn Tinh ở phía sau anh làm một chiếc “ghế sô pha” bằng người, tiện thể mát xa giúp anh thư giãn cơ bắp. Lý Cố quay người lại, nhìn cậu với ánh mắt say đắm, buột miệng khen: “Mắt Tinh Tinh đẹp thật đấy.”
Thật là… tàn nhưng không phế, sắc tâm bất diệt.
“Lại gần đây một chút, anh muốn hôn em.” Lý Cố nói.
Đôi mắt của Kỷ Hàn Tinh luôn khiến Lý Cố nhớ về những đêm ở Ninh Xuyên.
Khi đó, Lý tổng vẫn chưa phải là Lý tổng, mà chỉ là một cậu nhóc tên Lý Cố, suốt ngày chẳng có việc gì ra hồn, chạy nhảy khắp ngọn núi nhỏ bé kia, là một “đại vương” chính hiệu.
Ninh Xuyên, cái tên nghe có vẻ yên bình và đẹp đẽ ấy, lại là một ngôi làng nghèo khó thuộc một huyện nghèo. Ngoại trừ việc dân số đông, thì chẳng có gì cả, chỉ có một cửa hàng tạp hóa nhỏ bé, ọp ẹp là thứ gần với nền kinh tế thị trường nhất ở nơi này. Nghe nói Lý Cố là đứa trẻ bị bỏ rơi được trưởng thôn nhặt về, lớn lên trong sự đùm bọc của người đàn ông độc thân ấy. Đến năm mười bốn, mười lăm tuổi, cậu như một chú khỉ nhỏ gầy gò, đen nhẻm, khỏe mạnh, nghịch ngợm, đánh nhau giỏi, quậy phá cũng tài.
Đáng lẽ ở cái tuổi này, những đứa trẻ như cậu phải theo người lớn trong làng đi làm thuê, làm ruộng, sửa đường. Nhưng từ khi thầy Kỷ Tri Thanh đến đây dạy học, trưởng thôn nhất quyết không cho bọn trẻ con trong làng đi làm thuê nữa, chỉ cần chúng chịu khó học chữ theo thầy Kỳ.
Mùa đông năm ấy, thầy Kỷ từ thành phố về thăm nhà, còn dẫn theo một cậu bé về Ninh Xuyên, nói là Kỳ Hàn Tinh.
Trước đây, Lý Cố rất ghét mùa đông ở Ninh Xuyên, gió rít từng cơn, thổi vào mặt như dao cắt. Hít thở không khí cũng thấy khô khốc như thể có thể cứa rách khoang mũi. Còn có những ngọn núi trọc lóc và dòng nước chảy chậm, nơi đây chẳng có gì tốt đẹp, nên cũng chẳng thể giữ chân được ai. Những giáo viên đến đây dạy học đều chỉ ở lại vài tuần rồi lại rời đi, lúc đến ai cũng mang trong mình lý tưởng và nhiệt huyết, nhưng khi rời đi hầu hết đều vội vàng, thậm chí còn ngại ngùng chào tạm biệt những người dân đã hết lòng tiếp đãi mình, chỉ muốn nhanh chóng trở về nhà tắm nước nóng. Như thể cái nghèo khó là một căn bệnh truyền nhiễm, một khi đã nhiễm phải, bản thân cũng sẽ trở nên kém may mắn.
Khi đó, Lý Cố chưa từng nhìn thấy thế giới bên ngoài, chỉ mơ hồ biết rằng cuộc sống của những người bên ngoài kia khác với mình. Tầm nhìn hạn hẹp của cậu nhóc lúc bấy giờ vẫn chưa đủ để cậu oán trách sự bất công của thế giới, vẫn là một cậu nhóc ngây thơ, vô lo vô nghĩ. Lý Cố mặc chiếc áo bông vá chằng vá đụp, ngồi xổm trên cành cây khô, ngước nhìn bầu trời đầy sao lấp lánh.
Dù là đêm đông lạnh giá, vẫn có những vì sao sáng rực trên bầu trời. Đó là ý nghĩa cái tên Kỳ Hàn Tinh mà thầy Kỷ đã nói với cậu.
Lần đầu tiên gặp cậu bé ấy, Lý Cố đã bị ấn tượng bởi đôi mắt.
Cậu chưa từng thấy ai đẹp như vậy, đôi mắt đẹp và sáng ngời đến thế. Những cô bé ở Ninh Xuyên cũng đều lam lũ, đen nhẻm, chỉ cần ăn no là được rồi, chẳng mấy ai để ý đến vẻ bề ngoài, cũng chẳng biết chăm chút bản thân như thế nào. Những đứa trẻ con còi cọc, gầy gò chơi đùa cùng nhau, nhìn qua chỉ thấy những khuôn mặt nứt nẻ vì lạnh và những chiếc áo bông bạc màu, cũ rách, thật khó có thể phân biệt được trai hay gái.
Lý Cố đến nhà thầy Kỷ là để nộp bài tập.
Cậu đã mười bốn tuổi rồi, những đứa trẻ cùng tuổi ở làng bên đều đã làm giả chứng minh thư để đi làm thuê cả rồi, vậy mà cậu vẫn còn ở Ninh Xuyên học chữ, học những kiến thức cơ bản nhất, trên tay là quyển vở với nét chữ nguệch ngoạc đến khó coi.
Thầy Kỷ đang cặm cụi soạn giáo án dưới ánh đèn leo lét, không ngẩng đầu lên, thầy nói: “Tinh Tinh, con giúp anh Lý Cố xem bài tập nhé.”
Cậu bé đang ngồi đọc sách trên giường nghe vậy liền ngẩng đầu lên, đó là một đứa trẻ xinh đẹp, sạch sẽ mà Lý Cố chưa từng thấy bao giờ, chắc chỉ khoảng bảy, tám tuổi, hoặc có thể còn nhỏ hơn, như thể được nặn ra từ bột mì hảo hạng, đôi môi đỏ mọng như bông hoa rực rỡ nhất mùa xuân. Đôi mắt cậu bé đặc biệt đẹp, mỗi lần chớp mắt như có cả bầu trời sao lấp lánh.
Nghe thấy lời thầy Kỷ, Kỷ Hàn Tinh đặt cuốn sách trong tay xuống, nghiêm túc bước tới, đưa tay về phía Lý Cố.
Lý Cố bỗng cảm thấy ngượng ngùng, trong cuộc sống vốn chẳng biết ngại ngùng là gì của mình bỗng dưng nảy sinh một sự xấu hổ chưa từng có, cậu siết chặt quyển vở như tờ giấy nháp trên tay không muốn buông ra.
Cậu bé cất giọng trong trẻo, êm đềm: “Dù anh viết xấu em cũng phải xem, anh không cần phải ngại.”
Lý Cố ngẩn người, cậu bé này đang an ủi mình sao? Chỉ nghe cậu bé tiếp tục nói: “Bởi vì biết đâu anh không chỉ viết xấu, mà còn viết sai nữa.”
Lý Cố hiếm khi đỏ mặt, không biết nên cất quyển vở đi hay đưa cho cậu bé, tay chân luống cuống.
Thầy Kỷ cười lớn: “Tinh Tinh đừng nói vậy, anh Lý Cố lớn hơn con mà.”
“Vậy thì càng phải biết nhiều chữ hơn mới đúng.” Kỷ Hàn Tinh nói, lời lẽ tuy có chút chua ngoa, nhưng giọng điệu lại không hề có ý chê bai, nghe rất có lý. Kỷ Hàn Tinh nhận lấy quyển vở của cậu, bàn tay nhỏ nhắn trắng trẻo mở tờ “giấy nháp” ra, vuốt phẳng phiu.
Lý Cố lúng túng ngồi xổm xuống bên cạnh, thầm nghĩ, lần sau phải kiếm loại giấy tốt hơn để viết bài tập mới được, vở của mình xấu như vậy, lỡ làm xước tay cậu bé “mềm như đậu hũ” này thì sao.
Kỷ Hàn Tinh chăm chú xem từng chữ trong bài của cậu, nhìn nét chữ nguệch ngoạc trên trang giấy, vẻ mặt nghiêm túc: “Nền tảng của anh không tốt lắm, nhưng đừng lo, sau này em sẽ dạy anh.”
Lý Cố vừa buồn cười vừa cảm động, chỉ cảm thấy đây là đứa trẻ đặc biệt và thú vị nhất mà cậu từng gặp trong đời.