Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu

Chương 340: Để Ngựa Lại Đây




Địa khu Qua Nhĩ Ba Thác, Hổ Xuyên đạo.

Tiếng vó ngựa rầm rập ….

Đại quân người Tây Mông nam hạ giống như dòng nước lũ vô biên cuồn cuộn chảy qua vùng đất rộng lớn này mang theo vô số bụi đất. Bụi đất theo cơn gió do khoái mã cuốn bay lên trên, hình thành một khung cảnh tráng lệ ở trên không trung. Địa khu Ô Nhĩ Ba Thác vốn vô cùng hoang vu vắng vẻ, chỉ có một số dân tộc du mục quen với cuộc sống gian khổ di cư tới nơi này, do gió cát liên miên, thảm thực vật ở nơi này cực kỳ thưa thớt, khắp mọi nơi đều có thể nhìn thấy bóng dáng của cây xương rồng, những cây xương rồng dầy đặc chi chít chính là điểm đặc sắc của địa khu Ô Nhĩ Ba Thác.

Ở địa khu Ô Nhĩ Ba Thác, bất kể thứ gì cũng có thể bỏ qua, chỉ trừ có nước. Nhìn ở bên ngoài thì địa khu Ô Nhĩ Ba Thác vô cùng khô cạn, thậm chí rất nhiều vùng đất đã bị sa mạc hóa, nhưng sâu dưới mặt đất mấy chục mét lại là những dòng nước ngầm vô cùng ngọt ngào trong mát, cư dân đương địa có kỹ năng đặc biệt sở trưởng nhất chính là đào giếng, đào những chiếc giếng sâu tới mấy chục mét sau đó đem nước ngầm dẫn lên.

Sau khi tiến vào địa khu Qua Nhĩ Ba Thác, tốc độ của kỵ binh người Tây Mông bắt đầu giảm xuống, cuối cùng dần dần ngừng bước tiến, dựa theo sự an bài của Ai Đức Mông Đa, bọn chúng có kế hoạch phân bố ở xung quanh địa khu Qua Nhĩ Ba Thác, nghỉ ngơi tạm thời ở nơi này mấy tiếng đồng hồ, khôi phục thể lực, cho chiến mã uống nước, chuẩn bị tiến hành cuộc hành trình cuối cùng. Kỵ binh người Tây Mông tham chiến lần này, mỗi một tên đều mang theo ba thớt chiến mã, thay phiên sử dụng, có thể giảm bớt gánh nặng cho chiến mã ở mức lớn nhất, nhưng dù sao thì lần này con đường chinh phạt cũng vô cùng xa xôi, chiến mã cần phải nghỉ ngơi, hơn nữa chiến đấu có thể bùng phát ở ngay trước mặt, điều chỉnh thể lực của chiến mã ở nơi này là quan trọng nhất.

Người Tây Mông cũng phải điều chỉnh lại bố trí ở nơi này, chỉnh lý quân đội của bản thân, thu gom những thành viên thất tán. Trong quá trình hành quân tốc độ cao không thể tránh khỏi bị rối loạn đội ngũ, có thể xuất hiện một số kỵ binh không thể nào tìm được thượng cấp của mình ở nơi nào cho nên phải làm một lần điều chỉnh toàn diện để tiện cho chiến đấu sau này, nếu không, sau khi tiến vào chiến trường mới điều chỉnh thì rắc rối rồi.

Đồng thời người Tây Mông cũng phải ở lại nơi này chờ đợi xác nhận mục tiêu công kích và động tĩnh của mục tiêu, đội ngũ của người Tây Mông còn chưa dừng lại, Mông Đế phụ trách thu thập tình báo đã bắt đầu bận rộn rồi, hắn cần xác nhận lại một lần nữa động tĩnh của quân Lam Vũ. Đem tình báo phản ứng mới nhất cho Ai Đức Mông Đa, để tiện cho hắn đưa ra quyết sách hoặc là điều chỉnh.

Đám người Ai Đức Mông Đa chính đang ở bên giếng uống những ngụm nước trong mát, tâm tình tỏ ra vô cùng khoan khái. Trải qua thời gian dài ngồi trên lưng ngựa, có thể dừng lại nghỉ ngơi thoải mái một lúc, uống một ngụm nước giếng trong mát để vị ngon ngọt cùa nước giếng thấm sâu vào toàn thân. Đây đúng là một chuyện rất khoan khoái, cho dù là đại hãn cao quý của người Tây Mông cũng không ngoại lệ.

Giáo chủ Ma Ni giáo là Tuyền Tu Hoằng giống như một viên đại quản gia ân cần, khiêm nhường ân cần hầu hạ nhân vật đầu não của người Tây Mông uống nước, lão ta chuyên môn phụ trách múc nước và bê nước. Trừ Ai Đức Mông Đa ra, những đại tướng quân khác của người Tây Mông - đám người Trát Mộc Hợp và Na Biệt Khúc đều dùng ánh mắt khinh bỉ nhìn lão, bọn chúng cảm thấy Tuyền Tu Hoằng đường đường là một vị giáo chủ Ma Ni giáo, không ngờ lại có thể luân lạc tới nước này, còn không bằng chết đi cho xong. Bởi vì biểu hiện của Tuyền Thu Hoằng nên khiến bọn chúng càng thêm khinh bỉ người Đường tộc.

Mông Đế từ đằng xa đi tới.

“Mông Đế, nhìn sắc mặt của ngươi, ta cảm thấy chúng ta tựa hồ phải quay đầu mà trở về rồi.” Ai Đức Mông Đa đưa gáo nước trong tay cho Trát Mộc Hợp, bản thân không ngừng nấc lên, hiển nhiên là do uống nước quá nhiều rồi, cũng chẳng thể trách lòng tham của hắn được. Trong mấy ngày đi đường, nước bọn chúng uống đều chứa ở trong túi da, khó tránh khỏi mang theo chút mùi vị của túi da.

Sắc mặt của Mông Đế đúng là không được tốt lắm, khuôn mặt đen đúa tỏ ra có chút âm u.

Hắn đi tới bên cạnh Ai Đức Mông Đa, lạnh lùng nhìn Tuyền Tu Hoằng, nhìn tới mức làm Tuyền Tu Hoằng chẳng hiểu ra làm sao, sau đó mới trầm giọng nói: “Quân Lam Vũ đã đánh hạ Cao Ninh phủ, chặn mất đường đi của chúng ta.”

Có lẽ là cảm thấy tin tức này quá bất ngờ, tướng lĩnh của người Tây Mông ở bên giếng đều sững ra, bao gồm cả Ai Đức Mông Đa ở trong đó, tên nào tên nấy trợn tròn mắt, không nói gì nhìn Mông Đế. Mông Đế lại đem lời của mình nhắc lại tới hai lần, bọn chúng mới phản ứng lại.

Gáo nước trong tay Trát Mộc Hợp nghiêng đi, nước ở bên trong cứ thế mà chảy ra, toàn bộ rưới hết vào trong giày của hắn, nhưng hắn vẫn chẳng hề nhận ra.

Không một ai có thể ngờ rằng quân Lam Vũ lại có thể công chiếm Cao Ninh phủ.

Mỗi một tướng lĩnh người Tây Mông ở đây đều chẳng xa lạ gì Cao Ninh phủ.

Phải một lúc sau, Trát Mộc Hợp bị nước làm ướt giầy mới tỉnh táo lại trước tiên, cũng ngạc nhiên nhìn Tuyền Tu Hoằng ngây ra ở bên cạnh, hồ nghi nói: “Tin tức chuẩn xác chứ? Quân Lam Vũ thực sự công chiếm Cao Ninh phủ rồi?”

Vào lúc này, đám người Ai Đức Mông Đa cũng dần phản ứng lại, chờ đợi Mông Đế nói rõ tình hình.

Mông Đế trầm giọng nói: “Điều này chính mắt thám tử kỵ binh của tôi nhìn thấy, trên tường thành đã cắm lá cờ sư thứu màu lam của quân Lam Vũ, còn có cả binh sĩ quân Lam Vũ võ trang toàn bộ đứng canh gác. Hơn nữa bên ngoài còn có bố cáo của phủ đại đô đốc Y Vân, nói là vì tưởng niệm trung đoàn trưởng Nham Long của trung đoàn 314 quân Lam Vũ, quyết định đem Cao Ninh phủ đổi tên thành Nham Long phủ, bắt đầu có hiệu lực từ ngày hôm nay. Bọn họ còn nhìn thấy bộ đội pháo binh của quân Lam Vũ không ngừng tiến vào thành, vật tư hậu cần của quân Lam Vũ cũng đang được vấn chuyển cuồn cuộn tới, còn giả được nữa sao?”

Ai Đức Mông Đa quay đầu lại nhìn Tuyền Tu Hoằng, nghiêm nghị nói: “Tuyền đại giáo chủ, chuyện này là sao?”

Hắn không gọi Tuyền Tu Hoằng là con nuôi, tức là cảm thấy chuyện quá nghiêm trọng rồi.

Khi người Tây Mông nam hạ, căn bản không ngờ tới quân Lam Vũ có thể công chiếm Cao Ninh phủ, bởi thế cũng không sắp đặt kế hoạch đối phó, hiện giờ đột nhiên được biết Cao Ninh phủ đã rơi vào sự khống chế của quân Lam Vũ. Kế hoạch ban đầu của người Tây Mông hoàn toàn bị đánh loạn, đây đúng là chuyện vô cùng nghiêm trọng.

Tuyền Tu Hoằng mặt đầy vẻ hoang mang và kinh ngạc, lão ta thậm chí còn khó tiếp thụ tin tức này hơn cả người Tây Mông, con mắt lão ta cứ ngây ra nhìn Mông Đế, hỏi với vẻ không thể tin nổi: “Cái gì? Cao Ninh phủ đã bị quân Lam Vũ đánh hạ rồi? Đây là chuyện không thể nào! Ma Ni giáo chúng tôi còn có mười ba vạn sinh lực quân ở Cao Ninh phủ mà! Quân Lam Vũ, quân Lam Vũ làm sao có thể… làm sao có thể chứ? Không thể nào, nhất định là các vị nhầm mất rồi!”

Mông Đế bực mình nhìn lão, lạnh lùng nói: “Ta đề nghị ông tự mình đi kiểm chứng một chút, xem xem có nhầm lẫn hay không, đương nhiên là ta cũng hi vọng là nhầm. Đối với ta, đối với ông, đây đều là tin tức xấu.”

Tuyền Tu Hoằng quả nhiên lòng như lửa đốt rời đi.

Lão ta không thể nào tin được, mình chỉ mới rời đi vẻn vẹn chưa tới nửa tháng thời gian, tới ngay cả sào huyệt của mình cũng đã rơi vào trong tay quân Lam Vũ rồi, hiện giờ bản thân chẳng những đã không còn sự tôn nghiêm của giáo chủ, hiện giờ tới ngay cả chút cơ nghiệp cuối cùng cũng bị quân Lam Vũ đoạt mất một cách vô tình. Nhưng lão ta vẫn khó mà tin nổi, khó mà tin nổi quân Lam Vũ lại có thể đánh hạ được Cao Ninh phủ, lão vẫn rất có lòng tin đối với sức chiến đấu của quân Khăn Đỏ, bọn chúng đều đã từng cứng cỏi đối trận với kỵ binh của người Tây Mông và người Ngõa Lạp cũng không hề chịu thiệt, làm sao lại có thể thua quân Lam Vũ nhanh được như thế.

Trời ơi, chuyện này thực sự làm người ta quá tuyệt vọng rồi.

Mặc dù trong quá khứ, Tuyền Tu Hoằng cũng biết rằng vạn nhất quân Lam Vũ tới tấn công Cao Ninh phủ thì Ma Ni giáo khẳng định là lành ít dữ nhiều. Thế nhưng, lão cho rằng, quân Khăn Đỏ của Ma Ni giáo ít nhất cũng có thể đánh ngang với quân Lam Vũ, sau đó tranh thủ đàm phán điều kiện. Hiện giờ quân Lam Vũ đánh hạ được Cao Ninh phủ nhanh như vậy, đương nhiên là làm cho Tuyền Tu Hoằng vô cùng kinh sợ. Lão ta thậm chí hoài nghi có phải La Mai Ô bán đứng mình hay không, sau này mới biết được tin tức La Mai Ô tự sát thân vong, còn hai người Trầm Diệp và Đỗ Tang mới phản bội lão, lặng lẽ suất lĩnh bộ đội chạy tới địa khu Sóc Xuyên đạo, tìm kiếm chỗ đứng chân, ý đồ kéo dài chút hơi tàn.

“Trời xanh diệt ta rồi.” Tuyền Tu Hoằng thở dài một tiếng, trong lòng cảm xúc lẫn lộn, vỗ một chưởng lên thiên linh cái của mình, tức thì tắt hơi bỏ mạng.

Ngày 23 tháng 2 năm 1730 thiên nguyên, vào lúc 3 giờ 23 phút, Tuyền Tu Hoằng - giáo chủ của Ma Ni giáo trong lúc tuyệt vọng đã tự sát thân vong, ở trên thi thể của mình lão lưu lại di thư, chỉ có một hàng chữ ngăn ngủi: “Dương Túc Phong, mười tám năm sau, ta sẽ quay lại tìm ngươi báo thù rửa hận.”

Đối với cái chết của Tuyền Tu Hoằng, đám người Ai Đức Mông Đa hoàn toàn không đặt trong lòng, thậm chí còn có chút căm ghét, sai người tùy tiện qua loa chôn thi thể của lão đi. Kiêu hùng một thủa, cứ như thế biến mất ở trên thế gian. Ai Đức Mông Đa âm trầm nói: “Ai cũng nói không thể tin nhất là người của Ma Ni giáo, quả nhiên là không sai, trước kia người Ngõa Lạp cũng tổn thất dưới tình báo giả của Ma Ni giáo, hiện giờ thiếu chút nữa thì hại chúng ta.”

Mông Đế có chút lo lắng nói: “Đại hãn, quân Lam Vũ chiếm cứ Cao Ninh phủ sẽ ảnh hưởng cực lớn tới bố trí chiến lược của chúng ta, chúng ta phải làm sao đây?”

Ai Đức Mông Đa ánh mắt sáng quắc nhìn về phía phương nam, chậm rãi nói: “Triệu tập Tứ Đại Kim Cương và thập đại vạn nhân trưởng, chúng ta mở hội nghị.”

Tứ Đại Kim Cương và thập đại vạn nhân trưởng cùng nhau đến nơi, sau khi biết được Cao Ninh phủ rơi vào trong tay quân Lam Vũ quả thực tỏ ra rất kinh ngạc, đồng thời có ra có chút hoang mang về kế hoạch tác chiến tương lai của người Tây Mông.

Đối với người Tây Mông mà nói, Cao Ninh phủ bị công chiếm làm cho kế hoạch tác chiến của bọn chúng bị động rất lớn, bởi vì bọn chúng trước tiên là phải đánh hạ được Cao Ninh phủ kiên cố, sau đó mới có thể chấp hành được kế hoặc sắp sẵn trước đó. Mà muốn đánh hạ Cao Ninh phủ, tướng lĩnh người Tây Mông ngồi đây đều không có lòng tin tất thắng. Dù sao, trong mấy năm trước ở quá khứ, máu tươi chảy ở dưới tường thành của Cao Ninh phủ thực sự không ít, nhưng thủy chung vẫn không thể đánh hạ được Cao Ninh phủ.

Lần này người Tây Mông cũng không có lòng tin đánh hạ được Cao Ninh phủ, nếu như Cao Ninh phủ ở bên mép cao nguyên Huyết Sắc thì vấn đề không lớn, người Tây Mông có thể mau chóng điều phối vũ khí công thành cần thiết, chuẩn bị đầy đủ lương thảo, từ từ tiêu hao cũng có thể làm hao sạch quân Lam Vũ. Thế nhưng nơi này là Hổ Xuyên đạo cách xa cao nguyên Huyết Sắc, cách cao nguyên huyết sắc một quãng đường ít nhất ba nghìn kilomet, đợi được khi điều động vũ khí công thành tới đây, sợ rằng đã vào mùa hè mất rồi, khi đó, bị tiêu hao sạch sợ rằng không phải là quân Lam Vũ mà là bản thân người Tây Mông.

A Đồ La - dũng tướng vạn phu trưởng của người Tây Mông chủ trương, người Tây Mông không cần để ý tới quân Lam Vũ ở Cao Ninh phủ, có thể từ vùng đất khe hở khác tiến vào địa khu Mỹ Ni Tư, xâm nhập vào trung tâm của quân Lam Vũ, như vậy cũng có thể đạt được mục đích cướp đoạt vật tư và đả kích quân Lam Vũ. Kỵ binh của người Tây Mông có tính cơ động rất mạnh, cho dù quân Lam Vũ có thành vững dựa vào cũng chẳng làm gì được người Tây Mông tới lui như gió, chỉ cần động tác của người Tây Mông nhanh nhẹn gọn gẽ một chút, thì quân Lam Vũ chỉ có thể hít khói thở dài.

Nhưng những tướng lĩnh người Tây Mông khác ngồi đây đều cảm thấy làm như vậy là vô cùng mạo hiểm.

Mặc dù đối với kỵ binh người Tây Mông tới lui như gió mà nói, tính cơ động đúng là ưu thế lớn nhất, cho dù là không tiến công Cao Ninh phủ mà nói cũng có thể tiếp tục tiến thẳng vào trung tâm của địa khu Mỹ Ni Tư. Nhưng từ góc độ quân sự mà nói, làm như vậy là vô cùng nguy hiểm, thậm chí là trí mạng. Không một ai có thể cứ để địch nhân ở phía sau lưng mình mà xâm nhập vào nội địa, vạn nhất bị quân địch bao vây thì lành ít dữ nhiều rồi, hơn nữa, ai có thể đảm bảo được một trăm phần trăm rằng trong quá trình di chuyển của người Tây Mông sẽ không gặp phải bộ đội của quân Lam Vũ.

Quân Lam Vũ không phải là quân đội binh thường, năng lực cơ động của bọn họ đúng là không mạnh. Nhưng năng lực tác chiến của bọn họ đúng là rất mạnh, cho dù là một nhóm bộ đội nhỏ nhân số cực ít cũng có thể phát huy được uy lực cực đại, cuộc chiến đấu ở Bảo Ứng phủ của Phương Xuyên đạo trong nội địa đế quốc Đường Xuyên đã chứng minh đầy đủ điểm này, một tiểu đoàn hải quân lục chiến của quân Lam Vũ đã đối kháng được trên vạn kỵ binh giáp trụ của nước Mã Toa, người Tây Mông không thể không chú ý cảnh giác.

Chiến báo liên quan tới cuộc chiến ở Cao Ninh phủ càng lúc càng tỉ mỉ, chiến báo cho thấy, quân Lam Vũ chỉ dùng thời gian có một ngày là hoàn toàn đánh hạ được Cao Ninh phủ. Điều này đối với người Tây Mông mà nói là không thể tưởng tượng được, bọn chúng từng dưới sự lãnh đạo của Bộ Thủ đế quốc Quang Minh, nhiều lần tấn công Cao Ninh phủ, bọn chúng biết rõ Cao Ninh phủ kiên cố như thế nào, vững chắc không thể phá hủy ra sao. Thế mà, quân Lam Vũ chỉ dùng có một ngày là có thể khuất phục được nó, không thể không làm người Tây Mông cảm thấy có chút run sợ hãi hùng.

Tuyệt đại đa số tướng lĩnh người Tây Mông đều có ý nghĩ rút quân.

Nhưng nếu rút quân…

“Chẳng lẽ chúng ta cứ như vậy tay không mà về sao?” Có tên vạn phu trưởng rất không cam lòng nói.

Tất cả tướng lĩnh người Tây Mông đều lắc đầu, phủ quyết loại đề nghị này, ý nghĩ rút quân nghĩ thì có thể nghĩ được, nhưng không thể làm được.

Chuyện tay trắng mà về là không thể được, như vậy sẽ bị người ta chê cười, thậm chí là ảnh hưởng tới uy vọng và sự thống trị của bọn chúng, đây đã là tật chung của dân tộc du mục, xuất binh là phải có thu hoạch, nếu không chính là bại trận, ảnh hưởng đối với người lãnh đạo là trí mạng.

Cho dù không suy nghĩ tới những nhân tố này, người Tây Mông cũng phải cướp đoạt thật nhiều vật tư, mới có thể thỏa mãn được nhu cầu tiếp tục sinh tồn và phát triển. Bọn chúng vội vàng nam hạ vào lúc băng tuyết trên cao nguyên Huyết Sắc còn chưa kịp tan hết, một phương diện dĩ nhiên là bởi vì muốn cho quân Lam Vũ một sự bất ngờ thật lớn, một phương diện khác cũng là bởi vì vấn đề vật tư thiếu thốn trong nội bộ bức ép, nếu như bọn chúng vẫn không xuất binh mà nói, khả năng sẽ có rất nhiều người dân du mục vì không thể chịu đựng được cuộc sống thiếu thốn vật tư mà đứng lên tạo phản.

Hoàn cảnh của người Tây Mông kỳ thực chẳng tốt hơn được người Ngõa Lạp bao nhiêu, bọn chúng dưới sự xúi bẩy của Bộ Thủ, nhiều lần khai chiến với Ma Ni giáo, mỗi lần đều tổn thất không ít, nhưng thu hoạch thực sự lại không nhiều. Mấy năm nay, người Tây Mông đột nhiên phát hiện, nền móng của mình càng ngày càng mỏng rồi, khi mùa đông trước đó tới, người Tây Mông phát hiện ra, nếu như loại tình huống này tiếp tục kéo dài mà nói, bản thân người Tây Mông sẽ phải biến mất trên cao nguyên Huyết Sắc rồi.

Cuối cùng, vẫn là Mông Đế đề nghị, người Tây Mông có thể an bài một phần binh lực, tạm thời cách ly Cao Ninh phủ ra, hoặc là phát động tấn công mang tính quấy nhiễu đối với Cao Ninh phủ, yểm hộ bộ đội của người Tây Mông nam hạ từ địa khu khác, để cướp bóc trong trung tâm của người Lam Vũ. Làm như vậy, đương nhiên là có nguy hiểm, đó chính là nếu như vạn nhất quân Lam Vũ ở Cao Ninh phủ chủ động xuất kích, thì người Tây Mông tiến vào trung tâm của quân Lam Vũ sẽ rất nguy hiểm có khả năng rơi vào vòng vây của quân Lam Vũ, nhưng nếu như không làm như vậy, thì người Tây Mông chỉ có thể rút quân hoặc là tiếp tục con đường đánh thành.

Đương nhiên quyết định này tuyệt đối không phải Mông Đế có quyền lợi đưa ra được, chỉ Ai Đức Mông Đa mới có thể.

Nhưng thủ lĩnh của người Tây Mông là Ai Đức Mông Đa cũng không thể mau chóng quyết định, hắn không muốn thấy nhất chính là đánh thành.

Người Tây Mông không sợ đánh thành, nhưng vấn đề là lần này không mang theo đủ vũ khí công thành.

Trong lòng Ai Đức Mông Đa cảm khái cho hoàn cảnh của người Tây Mông, cũng đang thầm nguyền rủa tên Dương Túc Phong đáng chết, quân Lam Vũ chiếm lĩnh Cao Ninh phủ đúng là làm cho người Tây Mông rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, tiếp tục nam hạ ư? nguy hiểm gặp phải sẽ tăng lên rất lớn, thậm chí có khả năng gặp phải tổn thất cực lớn. Không nam hạ ư? lại không cam tâm, nếu đã từ xa xôi ngàn dặm chạy chạy tới tận cửa quân Lam Vũ rồi thế nào cũng không thể không một tiếng động cứ thế lủi thủi chạy về, nếu mà như thế, năm sau người Tây Mông tuyển cử đại hãn là mình nguy hiểm rồi.

Trải qua cân nhắc nhiều lần, cuối cùng Ai Đức Mông Đa tổng hợp ý kiến và đề nghị của đám bộ hạ, quyết định tiếp tục tấn công quân Lam vũ, nỗ lực đạt được mục đích cướp bóc, đây là chuyện không còn cách nào khác, cho dù là phải trả một cái giá nhất định thì cũng phải làm. Thế nhưng vì mục đích an toàn, hắn quyết định chia người Tây Mông làm bốn đường chiếu cố và chi viện lẫn nhau, đề phòng xảy ra chuyện bất ngờ.

“Nếu như chuyện quá gấp, thiết kỵ bảo tồn thực lực, để kỵ binh của các tiểu bộ lạc đi đoạn hậu.” Ai Đức Mông Đa cẩn thận nhắc nhở các đại tướng tâm phúc của mình chiếu cố, vào lúc cần thiết, gắng sức hi sinh những quân đội chư hầu, bảo tồn lấy bản thân người Tây Mông.

Ai Đức Mông Đa ủy phái đệ nhất thần tiễn thủ của người Tây Mông là Na Biệt Khúc suất quân từ phía đông Cao Ninh phủ cắm thẳng xuống, cướp bóc các địa khu Ninh Dương phủ và Chính Ninh phủ của Tình Xuyên đạo, đánh nhanh thắng nhanh, mau chóng trở về. Sau đó mới phân cho một vạn quân đội ước chừng hơn ba vạn tên. Căn cứ vào phân tích tình báo của Mông Đế, ở vùng đất phía đông Tình Xuyên đạo, không có bộ đội chủ lực của quân Lam Vũ đồn trú, bởi thế, cơ hội Na Biệt Khúc có thể thành công vẫn là rất lớn.

Phiền toái duy nhất mà Na Biệt Khúc có thể gặp phải là tường thành của Chính Ninh phủ và Ninh Dương phủ, Ai Đức Mông Đa quyết định, nếu như không cần thiết, Na Biệt Khúc có thể không tấn công thành thị, chỉ cần cướp đoạt đủ số vật tư ở các vùng quê là được rồi. Nhưng Na Biệt Khúc tin chắc, cho dù không có vũ khí công thành, chỉ dựa vào mỗi tiễn thuật của người Tây Mông cũng hoàn toàn có thể chiếm lĩnh hai thành thị này, đem toàn bộ vật tư bên trong chiếm làm của riêng.

Kỳ thực, Na Biệt Khúc thèm thuống chính là sự giàu có của Ninh Dương phủ, mặc dù ở trong chiến loạn trước đây, Ninh Dương phủ cơ bản đã bị san thành bình địa, nhưng trải qua nửa năm kiến thiết của quân Lam Vũ, lại di chuyển vô số di dân tới, hiện giờ đã khôi phục được chút ít nguyên khí rồi, rất nhiều công xưởng và công ty thương nghiệp mậu dịch đều lần lượt mở cơ cấu chi nhánh ở Ninh Dương phủ, nơi này là trung tâm tài chính là trung tâm lưu chuyển vật tư của Tình Xuyên đạo chính đang từng bước nổi lên. Na Biệt Khúc cho rằng chỉ cần đánh hạ được nơi này, vật tư mà người Tây Mông cần liền có thể thỏa mãn được quá nửa rồi.

Bất quá, hắn không biết rằng, ở chỗ mà hắn nam hạ, bộ đội Liệp Ưng của quân Lam Vũ dưới sự suất lĩnh của Phong Phi Vũ đang tiến quân thẳng hướng bộ đội của hắn, hai nhánh bộ đội kỵ binh va chạm, định sẵn là sẽ tóe ra những trận chiến nảy lửa.

Ai Đức Mông Đa an bài một đại tướng khác của người Tây Mông là Cáp Lặc Đồ suất quân từ Lão Hổ Câu nam hạ, cướp đoạt vùng trung tâm tử Xuyên đạo của quân Lam Vũ, nhất là các vùng đất Gia Lạp Tháp Sa Lôi và Bích Giang phủ. Người Tây Mông đều cảm thấy nơi đó đúng là giàu đến mức chảy ra mỡ, ánh mắt nhìn vào đó dều phát ra sự thèm thuồng. Quân bản bộ của Cáp Lặc Đồ cũng có hai vạn tên, nhưng mang theo một vạn nhân đội ước cừng ba vạn người, người Ngõa Lạp mặc dù gặp phải phục kích của quân Lam Vũ ở Lão Hổ Câu, nhưng hiện giờ chủ lực của quân Lam Vũ đều ở Cao Ninh phủ, binh lực ở một dải Lão Hổ Câu nhất định và vô cùng trống rỗng, hơn nữa, quân Lam Vũ chắc là cũng không ngờ được người Tây Mông dẫm lên bước chân của người Ngõa Lạp, vẫn tiếp tục tiến công từ địa khu lão Hổ Câu.

“Nơi nguy hiểm nhất thường thường là nơi an toàn nhất.” Ai Đức Mông Đa cảnh cáo với mình như vậy.

“Vâng.” Cáp Lặc Đồ cũng tin, quân LamVũ sẽ không ngờ rằng người Tây Mông còn nam hạ từ vùng đất Lão Hổ câu.

Thế nhưng, Ai Đức Mông Đa và Cáp Lặc Đồ đều không hề biết rằng, ở vị trí của Lão Hổ câu, có một tướng lĩnh kỵ binh của quân Lam Vũ đang vô công rồi nghề nằm phơi nắng ở trên tảng đá, tâm tư của hắn bị Ai Đức Mông Đa đoán trúng rồi, đúng là hắn cho rằng người Ngõa Lạp đã thất bại ở Lão Hổ Câu, thì người Tây Mông không thể không trở nên cảnh giác, bọn chúng sẽ không đi con đường này nữa, thượng cấp an bài mình suất lĩnh kỵ binh Lôi Đình tới nơi này, quả thực là uổng phí của trời. Nhưng tin tức người Tây Mông từ Lão Hổ Câu nam hạ rất mau chóng làm hắn chấn kinh, vội vàng nhảy dựng lên.

Viên tướng lĩnh kỵ binh của quân Lam Vũ này chính là Liệt Mông - quan chỉ huy kỵ binh Lôi Đình quân Lam Vũ.

Ai Đức Mông Đa an bài Trát Mộc Hợp suất quân công kích cứ điểm Tiểu Thang Sơn, đây là cánh cửa thông tới Tử Xuyên đạo, nếu như có thể công chiếm được nơi này mà nói, người Tây Mông sẽ không cần phải đánh hạ Cao Ninh phủ nữa, trực tiếp từ cứ điểm Tiểu Thang Sơn tiến vào là được. Vật tư của địa khu Tử Xuyên đạo có thể thỏa mãn nhu cầu mấy năm tới của người Tây Mông. Bởi thể ở phương hướng này, Ai Đức Mông Đa phân phối vô số binh lực, trừ hai vạn người bản bộ của Trát Mộc Hợp ra, Ai Đức Mông Đa còn phân cho hắn thêm ba vạn nhân đội, tổng cộng năm vạn kỵ binh, ngoài ra còn có hơn hai vạn kỵ binh du mục của các bộ lạc khác.

Trát Mộc Hợp tự tin cho rằng, mình nhất định sẽ đạt được mục đích, lần trước người Ngõa Lạp sở dĩ không thể đánh hạ được cứ điểm Tiểu Thang Sơn hơn nữa còn gặp phải thương vong to lớn, nguyên nhân chính là bởi vì vũ khí của bọn chúng lạc hậu, khi đối diện với cứ điểm thì Lang Nha bổng của người Ngõa Lạp chỉ có thể trơ ra chịu đòn, còn người Tây Mông thì không giống như vậy, mũi tên sắc bén của người Tây Mông hoàn toàn có thể bắn hạ người ở trên cứ điểm xuống.

Bản thân Ai Đức Mông Đa thì tự mình suất lĩnh đại quân vây công Cao Ninh phủ, năm vạn thiết giáp cung kỵ dưới sự chỉ huy của hắn và bốn vạn nhân đội, thêm vào năm vạn quân đội chư hầu, tổng cộng là mười lăm vạn người. Phụ trách tấn công Cao Ninh phủ, mặc dù rất nhiều tướng lĩnh đều kiến nghị chỉ cần bao vây lấy Cao Ninh phủ, hoặc là cách ly là được rồi, nhưng Ai Đức Mông Đa muốn nhân cơ hội này bắt lấy Dương Túc Phong.

Căn cứ vào tình báo cho thấy, lúc này Dương Túc Phong đúng là ở trong thành của Cao Ninh phủ.

Người Tây Mông lần này nam hạ, vũ khí công thành mang theo không nhiều, bởi vì có sự hợp tác của Ma Ni giáo, người Tây Mông cho rằng không cần phải công thành, hơn nữa với tiễn thuật của người Tây Mông, cho dù là từ dưới bắn lên cũng có thể dễ dàng bắn ngã kẻ địch trên tường thành như trở bàn tay. Bất quá để cho an toàn, Ai Đức Mông Đa hạ lệnh tất cả kỵ binh dân tộc du mục bỏ ra thời gian hai ngày để hiệp trợ tạo ra vũ khí công thành, đồng thời hắn hạ lệnh từ một số quân đội của đế quốc Quang Minh điều động tới nơi này hỏa pháo và máy bắn đá.

Tất cả an bài thỏa đáng, Ai Đức Mông Đa một lần nữa khôi phục lại sự tự tin, cảm thấy lấy ba mươi vạn kỵ binh người Tây Mông đối phó với chưa tới ba vạn quân Lam Vũ, mười đánh một, thắng là cái chắc. Vì thể tâm tình dẫn trở nên thoải mái, Na Biệt Khúc, Cáp Lặc Đồ và Trát Mộc Hợp nối nhau suất quân đi xa. Ai Đức Mông Đa và Mông Đế suất linh mười lăm vạn đại quân thần tốc đánh về phía Cao Ninh phủ.

Vì muốn cho Dương Túc Phong một đòn phủ đầu, Ai Đức Mông Đa phái ra ước chừng một nghìn bộ đội tiên phong, dùng tốc độ như gió lao về phía Cao Ninh phủ, dùng mũi tên sắc bén nói với quân Lam Vũ - người Tây Mông tới rồi! Kết quả là đám kỵ binh này còn chưa tới được dưới thành của Cao Ninh phủ, đã gặp phải phục kích của kỵ binh Liệp Ưng quân Lam Vũ, thì ra kỵ binh Liệp Ưng có một tiểu đoàn kỵ binh vừa vặn đi qua con đường này, từ đằng xa đã phát hiện ra bóng dáng của kỵ binh người Tây Mông, vì thế dày công thiết kể nên một cái bẫy, sau khi đợi kỵ binh người Tây Mông tiến vào, tiểu đoàn kỵ binh Liệp Ưng của quân Lam Vũ lập tức phát động tấn công. Người Tây Mông không kịp phòng bị dưới sự công kích mãnh liệt của hỏa lực kỵ binh quân Lam Vũ, còn chưa kịp phản ứng đã ào ào ngã xuống ngựa, những tên còn lại thấy thời cơ không ổn, lập tức xoay đầu ngựa bỏ chạy. Kết quả bị những thần xạ thủ của quân Lam Vũ theo sau truy sát, mỗi một phát súng vang lên đều có người Tây Mông ngã xuống ngựa, kết quả chỉ có hơn mười tên kỵ binh người Tây Mông thành công trở về được trong đội ngũ.

Ai Đức Mông Đa cảm thấy mình hết sức mất mặt, cảm giác xuất sư bất lợi làm hắn càng lúc càng khó chịu, dưới cơn tức giận, hắn hạ lệnh đem mười mấy tên kỵ binh người Tây Mông chạy trở về kia buộc vào trên đuôi ngựa kéo cho tới chết, bởi vì bọn chúng “không bảo vệ sự tôn nghiêm của người Tây Mông.” Sau đó thúc dục mười lăm vạn kỵ binh, dùng thế thái sơn áp đỉnh lao về phía Cao Ninh phủ.

Sau khi tới được Cao Ninh phủ, Ai Đức Mông Đa quyết định làm người văn minh tiền lễ hậu binh một phen, hắn phái người đưa thư khuyên hàng chuyền cho Dương Túc Phong, bức ép Dương Túc Phong đầu hàng, giao ra Cao Ninh phủ, hoặc là giao ra năm ngàn vạn kim tệ, năm mươi vạn tấn cương thiết, năm mươi tấn lá trà và năm trăm vạn tấn lương thực, người Tây Mông sẽ rút quân trở về.

Kết quả Dương Túc Phong trả lời rất nhanh, hắn thêm một dòng chữ xiêu xiêu vẹo vẹo tự mình viết ở đằng sau thư khuyên hàng.

“Các ngươi có thể rời đi, nhưng phải để ngựa lại đây.”

Ai Đức Mông Đa thẹn quá hóa giận, rút hoàng kim mã đao ở hông ra, chỉ thẳng vào tường thành của Cao Ninh phủ, hung dữ gầm lên: “Bắn tên! Đem toàn bộ bọn nam man này bắn thành nhím!”

Nham Long phủ, Hổ Xuyên đạo.

Trải qua mấy ngày liên tục tổng vệ sinh, đường phố của Nham Long phủ cuối cũng cùng bắt đầu thông suốt, xe ngựa có thể qua lại không còn cản trở. Thi thể quân Hồng Cân của Ma Ni giáo chất đống như núi cũng bị kéo đi, tới vùng đất trống ở phía cửa bắc hỏa táng, liên tục thời gian mấy ngày liền, phụ cận thành bắc của Nham Long phủ đều mịt mù khói đen, trong không khí sặc sụa mùi thi thể bị thiêu đốt khiến người ta phát buồn nôn. Giống như là địa ngục trần gian vậy, đội ngũ nhân viên vệ sinh chuyên nghiệp bắt đầu tiến hành khử trùng chiến trường đối với toàn bộ Nham Long phủ, mùi thuốc khử trùng rất mau thay thế cho mùi thối của thi thể, bất quá chuyên gia khử trùng mới nhậm chức là Phất Lôi Đát xưa nay chưa từng suy nghĩ tới cảm thụ của người khác, nàng chỉ biết làm việc của mình, chỉ huy nhân viên khử trùng mặc áo choàng dài khử trùng hết cả bên trong bên ngoài Tu La điện, khiến cho đám người Dương Túc Phong tới ban đêm cũng không có cách nào ngủ được.

Bất quá trong lòng Dương Túc Phong vẫn rất hài lòng đối với công việc của những nhân viên khử trùng này, đại chiến trôi qua tất nhiên là có đại dịch, đây gần như đã là quy luật tất nhiên của lịch sử phát triển, vào thời kì còn chưa có công nghiệp hóa học và dược phẩm hóa học, thi thể thối rữa và vũ khí vấy máu để lại trên chiến trường, đúng là rất dễ gây ra bệnh ôn dịch, do không có thủ đoạn khống chế hữu hiệu, bệnh ôn dịch phát ra là không thể thu thập được, kéo dài tới bốn phương tám hướng, càng lan tràn càng dữ dội. Quân Lam Vũ đương nhiên là chú ý tới điều này, cho nên, chỉ cần điều kiện cho phép đều lập tức tiến hành khử trùng chiến trường sau khi đại chiến qua đi, để phòng ngừa ôn dịch bùng phát, sau khi thắng lợi thì càng phải như thế.

Khi tấn công cứ diểm Lạc Lạp, nhân viên khử trùng chuyên nghiệp của quân Lam Vũ liền phát huy tác dụng cực lớn, bọn họ thành công sáng tạo ra kỳ tích, phòng ngừa hữu hiệu ôn dịch bùng phát và lan tràn ở vùng đất cứ điểm Lạc Lạp. Phải biết rằng, chiến đấu ở cứ điểm Lạc Lạp chính là kéo dài liên tục hơn một tháng, có hơn mười vạn Lỗ Ni cuồng chiến sĩ tử vong, thi thể của bọn chúng trải dọc theo chiến trường dài mấy chục kilomet, thi thể của rất nhiều tên đã thối rữa bốc mùi, ôn dịch có thể bùng phát bất kỳ lúc nào.

Tiến hành khử trùng với chiến trường, chính là một công năng phụ sau khi chế độ y liệu của quân Lam Vũ được thành lập sơ bộ. Từ trước tới này, Dương Túc Phong đều vô cùng coi trọng sự phát triển của công nghiệp hóa học y dược, quân Lam Vũ chuyên môn sắp đặt vô số tài chính, nâng đỡ sự phát triển của công nghiệp hóa học, lúc bình thường cũng có ý đem chính sách nghiêng về phía công nghiệp hóa học. Ở trên mặt tuyên truyền và lợi nhuận cũng chú trọng nâng đỡ công nghiệp hóa học, khiến cho công nghiệp hóa học ở địa khu Mỹ Ni Tư phát triển vô cùng nhanh, nhất là công nghiệp y dược và công nghiệp hóa dược có liên quan tới chiến tranh, khí thế phát triển mạnh mẽ. Dưới sự kích thích của lợi nhuận kếch xù, ampicilin cùng với nhiều loại dược phẩm kháng sinh đều đã được nghiên cứu sản xuất ra, đồng thời đưa vào sử dụng, hiệu quả rõ ràng.

Ở địa khu Cách Lai Mỹ ngày nay, công nghiệp hóa học đã trở thành một trong số sản nghiệp có lợi nhuận nhiều nhất. Rất nhiều đại học cũng bắt đầu đem công nghiệp hóa học liệt vào hạng mục trọng điểm nghiên cứu, đồng thời nghiên cứu tri thức hóa học cũng bắt đầu trở thành khóa học tất yếu của học sinh, càng ngày càng có nhiều người làm khoa học tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hóa học, sáng tạo ra càng nhiều sản phẩm. Những sản phẩm này dưới sự hỗ trợ của chế độ vệ sinh y liệu quân Lam Vũ cũng dần dần tiến bộ và hoàn thiện, rất nhiều y viện mới thành lập bắt đầu xuất hiện, sử dụng thuốc viên hóa học trị bệnh bắt đầu trở thành trào lưu mới.

Trước khi kiến lập đội ngũ y liệu chuyên nghiệp và chế độ y liệu của quân Lam Vũ, thương binh bị thương trong chiến tranh đại bộ phận đều phải cắt chân tay, bởi vì không thể khống chế được vết thương truyền nhiễm, sau khi cắt chân tay quay trở lại bộ đội là có khả năng rất nhỏ. Nhưng cùng với việc sử dụng dược phẩm hóa học, ức chế vết thương truyền nhiễm trở nên rất đơn giản. Các chiến sĩ của quân Lam Vũ thụ thương trên chiến trường có khả năng cứu sống tăng lên rất nhiều, căn cứ vào thống kê sơ bộ, trong một trăm chiến sĩ quân Lam Vũ bị thương, ước chừng có hơn bốn mươi người sau khi được chữa trị có thể quay trở lại chiến trường, hơn nữa con số này còn sẽ được nâng lên cùng với việc trình độ vệ sinh y liệu không ngừng tăng lên.

Trừ những nhân viên y vụ mang áo choàng trắng ra, trên đường phố Nham Long phủ còn có rất nhiều các chiến sĩ của quân Lam Vũ đang bận rộn đem toàn bộ dấu hiệu có liên quan tới Cao Ninh phủ dỡ bỏ hết, thay mới bằng cái tên Nham Long phủ, bởi vì nơi này tạm thời được xếp vào chiến khu cấp 1, cũng không có sự tồn tại của bách tính bình dân, cho nên phủ đại đô đốc Y Vân không an bài nhân viên tới nơi này, tất cả mọi sự vụ tạm thời do quân Lam Vũ thay thế quản lý.

Đứng trên vùng đất trống phía trước Tu La điện, Dương Túc Phong nâng kính viễn vọng lên, từ bên trên bình thản quan sát động tĩnh của kẻ địch ở phía dưới, ở bên cạnh y, ngoại trừ cảnh vệ bất ly thân ra thì chỉ có một tham mưu là Tri Thu. Khắc Lao Tắc Duy Tư và Vân Thiên Tầm thân thể tàn tật hành động không tiện đều lưu lại ở phía nam để chỉ huy chung, điều phối những bộ đội khác tăng viện cho Nham Long phủ, chỉ có Tri Thu tuổi trẻ mạnh mẽ, là theo Dương Túc Phong chạy đông chạy tây.

“Không thẹn là thế lực số một của cao nguyên Huyết Sắc! Còn có chút bản lĩnh.” Tri Thu nâng kính viễn vọng, bội phục nói.

Dương Túc Phong gật đầu tán đồng.

Động tác của người Tây Mông đúng là vô cùng thần tốc, mau chóng bao vây lấy Nham Long phủ, đội ngũ kỵ binh đông nghìn nghịt giống như thủy ngân đổ xuống đất vậy, thoáng một cái là bao vây lấy Nham Long phủ tới một giọt nước cũng không thể chảy được, tất cả con đường thông ra bên ngoài đều bị cắt đứt toàn bộ, có thể hình dung là một con ruồi cũng không bay thoát được. Đồng thời kỵ binh của người Tây Mông trong quá trình vây thành, cũng mau chóng tìm hiểu địa thế yếu hại các vùng đất xung quanh, lần lượt phái binh canh giữ, thể hiện ra tố chất chuyên nghiệp. Nếu chẳng phải là có sự tồn tại của vô tuyến điện đại, Dương Túc Phong thực sự đã bị bao vây cô lập rồi.

Cùng với việc đại quân kỵ binh của người Tây Mông tới, Nham Long phủ từ đó mất đi tất cả liên hệ với bên ngoài ở trên mặt đất, trở thành một tòa cô đảo đúng nghĩa rồi, may mắn là ở bên trong thành tích trữ đủ lương thực đạn dược, dược phẩm vật tư cũng chuẩn bị đầy đủ. Tất cả thương binh đều được chuyển tới Hội Ninh phủ ở phía nam. Hiện giờ lưu lại ở trong thành, cơ bản đều là nhân viên chiến đấu của quân Lam Vũ, chỉ có rất ít nhân viên hậu cần và nhân viên y vụ là nhân viên phi chiến đầu, tạm thời còn chưa phát hiện vấn đề gì lớn.

Dương Túc Phong quyết tâm biến nơi này thành một tảng đá cứng rắn, chẳng những làm người Tây Mông không gặm nổi, còn làm gẫy hết răng của người Tây Mông.

Tường thành ở cửa đông, cửa tây, cửa bắc của thành Nham Long vẫn còn nguyện vẹn, các chiến sĩ của quân Lam Vũ có thể dựa vào tường thành cao lớn cùng với đường ngầm trong tường thành để công kích người Tây Mông, chỉ có tường thành của nửa nam là bị chính quân Lam Vũ phá hủy thôi, vừa mới xây dựng lại, người Tây Mông rất mau chóng phát hiện ra sự khác thường ở nơi này, đem mục tiêu công kích trọng điểm chuyển tới cửa nam, chi chít những cung tiễn của người Tây Mông luôn chiếu thẳng về nơi này, dùng những mũi tên sắc nhọn bao phủ lấy nơi này, thế nhưng, tường thành nơi này đã bị quân Lam Vũ dùng xi măng cốt thép lấp kín, chỉ là không có đường ngầm và lỗ xạ kích mà thôi, các chiến sĩ của quân Lam Vũ chỉ có thể nấp ở sau ụ thành tiến hành xạ kích.

Từ Tu La điện trên cao nhìn xuống, Dương Túc Phong nhìn thấy cung kỵ thủ của người Tây Mông không ngừng chạy qua chạy lại vòng quanh phủ Nham Long, trong lúc phóng ngựa như bay, cung kỵ thủ của người Tây Mông không ngừng giương cung lắp tên, nghiêng người ngắm bắn, từng mũi tên bắn lên tường thành của Nham Long phủ, thậm trí là vượt qua cả tường thành, trực tiếp bay tới vùng đất trống ở bên trong thành, có thể thấy sức tên rất mạnh.

Kỵ thuật của cung kỵ thủ người Tây Mông tương đối cao diệu, chạy quanh Nham Long phủ như đi trên đất bằng, địa hình nơi đó không tạo thành bất kỳ một ảnh hưởng nào với bọn chúng, trình độ tiễn thuật của bọn chúng lại càng cao siêu hơn nữa, cho dù là trên lưng ngựa và chạy với tốc độ cao bắn cung mà độ chuẩn xác và lực độ đều vẫn không suy giảm, có mấy chiến sĩ quân Lam Vũ không tin điều này, hoặc là chưa từng nhìn thấy sự lợi hại của cung kỵ thủ người Tây Mông, cho nên trong lúc nhắm bắn không cẩn thận để bại lộ vị trí của mình, thò ra nửa cái đầu, kết quả là lập tức chuốc lấy một trận mưa tên, có mấy người lập tức trúng tên hi sinh, súng trường Mễ Kỳ Nhĩ ở trong tay cũng từ trên tường thành rơi xuống.

Bất quá đây chỉ là tình huống rất hiếm hoi, đối với đại đa số các chiến sĩ của quân Lam Vũ mà nói, nơi này đều là vô cùng an toàn, trừ tường thành ở cổng nam ra, tường thành của ba phương hướng còn lại đều có đường ngầm và lỗ châu mai, các chiến sĩ của quân Lam Vũ có thể nấp ở bên trong, từ lỗ châu mai bắn ra bên ngoài. Mũi tên của người Tây Mông chỉ có thể bắn lên tường thành kiên cố, sau đó lần lượt bị gãy, rơi xuống ở chân tường.

Thế nhưng cung kỵ thụ của người Tây Mông vẫn không ngừng chạyvòng quanh, dưới sự công kích cách quảng của các tay súng bắn tỉa quân Lam Vũ, số lượng cung kỵ thủ người Tây Mông chạy quanh không ngừng bị giảm bớt, cung kỵ thủ càng ngày càng bị ngã gục nhiều hơn, thế nhưng người Tây Mông vẫn không hề có dấu hiệu dừng lại.

“Người Tây Mông làm thế này là phí công vô ích!” Tri Thu hờ hững nói.

Cung kỵ thủ của người Tây Mông có lẽ đối phó với tường thành bình thường còn có chút tác dụng, có thể dùng cung tiễn sát thương kẻ địch ở trên tường thành, nhưng đối với loại tường thành kỳ quái ở Nham Long phủ thì cung tiễn của bọn chúng chẳng hề có tác dụng gì, chỉ có thể trở thành bia bắn cho quân Lam Vũ. Mặc dù cái bia sống này có tốc độ di động rất nhanh, nhưng trong quân Lam Vũ cũng không thiếu thần xạ thủ, bọn họ thích nhất là những chiếc bia có tính khiêu chiến như thế này.

Dương Túc Phong gật đầu, nhưng rồi lại lắc đầu, y chưa từng trải qua chiến đấu với ung kỵ thủ của người Tây Mông, nhưng từ góc độ của bản thân mà xét, những tên cung kỵ thủ người Tây Mông này đại khái là phụ trách trinh sát hỏa lực của địch, hi vọng mau chóng làm rõ bố trí phòng ngự của quân Lam Vũ, để phát hiện ra nhược điểm của quân Lam Vũ từ trong quá trình đó. Vì mục đích này, cho dù phải trả một cái giá nhất định cũng rất đáng.

Mấy ngày trước, quân Lam Vũ không phải cũng phải trả giá bằng một vị trung đoàn trưởng và gần một nghìn chiến sĩ, mời làm rõ được bố trí ác độc của quân Khăn Đỏ sao?

Nếu như chẳng phải bởi vì vũ khí của quân Lam Vũ đã vượt quá sự hạn chế của thời đại này thì căn bản không thể bì với người Tây Mông được, nếu không quân Lam Vũ đối diện với cung kỵ thủ người Tây Mông phóng ngựa với tốc độ cao, cũng không thể tạo thành sát thương lớn lắm cho bọn chúng được, cung tiễn thủ bình thường nếu muốn bắn trúng những mục tiêu di động ở tốc độ cao này khẳng định là phải lộ ra hơn nửa thân người mới có thể, mà lúc đó thì thường thường cung tiễn của mình còn chưa kịp bắn ra đã bị người Tây Mông sở trường kỵ xạ bắn ngã rồi.

Dương Túc Phong suy nghĩ chốc lát rồi chậm rãi nói: “Thủ bị cửa nam là bộ đội nào?”

Tri Thu kiêu ngao đáp: “Lượt trị ban đầu tiên là tiểu đoàn đột kích Lão Hổ Câu của Lăng Uy.”

Dương Túc Phong yên lòng trở lại.

Các chiến sĩ của tiểu đoàn đột kích Lão Hổ Câu do Lăng Uy suất lĩnh đã biểu hiện xuất sắc trong trận chiến với người Ngõa Lạp lần trước, bọn họ đã tích lũy được một số kinh nghiệm đối phó với kỵ binh dân tộc du mục, hiện giờ dùng để đối phó với cung kỵ thủ người Tây Mông vừa mới tới nơi khí thế đang thịnh, đúng là một lựa chọn không tệ. Chiến đấu với người Tây Mông ở trên bình nguyên Dương Túc Phong không dám nói là chắc chắn chiến thắng, nhưng dựa vào thành thị cứ điểm quần nhau với kẻ địch thì Dương Túc Phong hoàn toàn không lo lắng, y chẳng tin người Tây Mông có thể cưỡi ngựa nhảy qua tường thành cao mười mét.

“Kẻ kia hình như là… Ai Đức Mông Đa?” Ánh mắt của Tri Thu rất tinh, phát hiện ra mục tiêu mới.

Dương Túc Phong thuận theo phương hướng của hắn nhìn tới, quả nhiên ở khoảng cách hơn bốn nghìn mét phát hiện ra thủ lĩnh của người Tây Mông là Ai Đức Mông Đa, hắn cũng đang ở đằng xa chú ý theo dõi tình huống tấn công của cung kỵ thủ người Tây Mông, do khoảng cách có hơi xa một chút, nên Dương Túc Phong không nhìn thấy rõ sắc mặt của hắn, bất quá y nghĩ sắc mặt của Ai Đức Mông Đa có lẽ là không thể tốt lắm.

Mình giành trước chiếm lấy Cao Ninh phủ, đi trước Ai Đức Mông Đa một bước, làm cho hắn cưỡi hổ khó xuống, hiện giờ hẳn là hắn đang tức giận với mình vô cùng, hận không thể lóc thịt lột xương mình ra, nhưng lại không thể tìm được con đường phát tiết. Người Tây Mông không mang theo nhiều vũ khí công thành, muốn chỉ dựa vào mỗi cung tiễn mà đánh hạ Nham Long phủ thực sự là chuyện không thể nào, điều này đối với Ai Đức Mông Đa mà nói đương nhiên là rất khó chịu rồi.

Đúng thế, tâm tình của Ai Đức Mông Đa rất khó chịu, bắt đầu từ lúc hắn một lần nữa nhìn thấy tường thành của Cao Ninh phủ, hắn đã biết ngay rằng quân Lam Vũ không dễ nuốt, nhưng cho dù không dễ nuốt thì cũng phải nuốt, cung bắn đi không quay lại được, cung kỵ thủ người Tây Mông không thể đánh mất uy phong trước quân Lam Vũ.

Ai Đức Mông Đa phất tay, tăng thêm số cung kỵ thủ người Tây Mông gia nhập vào trong đội ngũ quanh quẩn gần tường thành kia, mặc dù không ngừng có cung kỵ thủ ngã xuống, nhưng Ai Đức Mông Đa căn bản không để vào trong lòng, một chút xíu thương vong đó có là cái gì.

“Đáng tiếc ….” Tri Thu tiếc nuối nói.

Ai Đức Mông Đa cách quân Lam Vũ ít nhất cũng trên ba nghìn mét, mà súng ngắm Già Lan Mã loại mới nhất của quân Lam Vũ có tầm bắn xa nhất cũng chỉ là một nghìn tám trăm mét, cự ly sát thương hữu hiệu một nghìn hai trăm mét, bất kể như thế nào cũng không bắn được Ai Đức Mông Đa. Pháo trái phá thì lại là một lựa chọn rất tốt, bất quá muốn một phát pháo bắn trúng ngay, đại khái cũng rất khó, tốc độ của kỵ binh dân tộc du mục quá nhanh, cho dù nhìn thấy pháo đạn rơi xuống cũng có thể tức tốc chạy đi, nếu không sớm đã dùng một loạt xạ kích bắn chết hắn rồi.

Nhưng Dương Túc Phong lại không tán đồng, y không muốn để Ai Đức Mông Đa chết sớm như thế.

Nếu Ai Đức Mông Đa chết rồi người Tây Mông nhất định sẽ lập tức rút lui, co trở lại bên trong nơi sâu nhất của cao nguyên Huyết Sắc, quân Lam Vũ nếu muốn tiêu diệt bọn chúng một lần nữa, sẽ phải bỏ càng nhiều công sức hơn, còn không bằng gắng sức tiêu hao sinh lực của kẻ địch ở nơi này. Tốc độ của kỵ binh dân tộc du mục rất nhanh, tính cơ động cũng rất mạnh, khả năng quân Lam Vũ tiêu diệt được hoàn toàn bọn chúng là không cao lắm, nhưng lợi dụng cơ hội hiếm có này tiêu hao thật nhiều bộ phận sinh lực của địch thì vẫn có thể, sau này tiến vào cao nguyên Huyết Sắc cũng có thể nhẹ nhàng hơn một chút.

Cung kỵ thủ của người Tây Mông vẫn cứ lởn vởn chạy vòng vòng qua lại quanh tường thành không biết mệt mỏi, tìm kiếm nhược điểm của quân Lam Vũ, tựa hồ không ngừng có lực lượng khỏe mạnh gia nhập vào trong số đó, nhân số của bọn chúng luôn luôn duy trì hơn một nghìn tên, đối diện với súng bắn tỉa của quân Lam Vũ, bọn chúng tựa hồ như không để ý lắm.

Điều này đã khiến các chiến sĩ của quân Lam cơ hội tốt rèn luyện kỹ thuật bắn, nhất là những Lỗ Ni cuồng chiến sĩ mới gia nhập, bọn họ thiếu thời gian huấn luyện, hiệngiờ vừa vặn có thể sử dụng như là huấn luyện kỹ thuật bắn. Theo lẽ tự nhiên, bọn họ trở thành chủ lực xạ kích bắn tỉa của quân Lam Vũ, dưới sự chỉ điểm cẩn thận của các chiến sĩ kỳ cựu, Lỗ Ni cuồng chiến sĩ không ngừng nổ súng bắn vào những tên kỵ binh người Tây Mông đang phi ngựa với tốc độ cao, mặc dù lúc mới bắt đầu độ chuẩn xác không được tốt lắm, hiệu quả không được lý tưởng, rất nhiều phát súng cuối cùng mới bắn hạ được một tên cung kỵ thủ của người Tây Mông, nhưng cùng với kỹ thuật xạ kích không ngừng được nâng cao, rất nhiều Lỗ Ni cuồng chiến sĩ tìm được cảm giác, kẻ địch ngã xuống dưới họng súng của bọn họ ngày một nhiều.

Bắn tỉa náo nhiệt nhất vẫn là ở phụ cận cổng thành nam, nơi này chính là trọng điểm công kích của cung kỵ thủ người Tây Mông, không ngừng có mũi tên sạt qua bên người, trên tường thành cắm đẩy những mũi tên có ngạnh gai của kẻ địch. Nơi này là khu vực nóng quân Lam Vũ đánh trả, các chiến sĩ của tiểu đoàn đột kích Lão Hổ Câu do Lăng Uy chỉ huy nấp sau ụ thành chuyên tâm đánh trả, trong làn mưa tên qua lại của đôi bên là cách thử thách nhất sự can đảm và trấn tĩnh tự nhiên của một người, nhất là khi những mũi tên của người Tây Mông bắn sát qua bên mang tai của ngươi, bản thân cũng phải không đổi sắc mặt bóp cò súng.

Đám người Đồ Đấu Châu và Đao Vô Phong cũng dẫn lục quân đặc chiến đội xen vào nơi này tham dự náo nhiệt, vốn là không có nhiệm vụ chiến đấu của bọn họ, nhưng bọn họ cũng chen chúc ở trên tường thành ở cửa nam, so gan với cung kỵ thủ của người Tây Mông, mắt không chớp nhìn mũi tên của người Tây Mông bắn về phía mình, sắc mặt không đổi, cho tới khi mũi tên sắp bắn trúng mình mới xoạt một phát lách mình tránh đi, lấy đó để rèn luyện đảm lượng của mình.

Hai người Đồ Đấu Châu và Đao Vô Phong đọ tài bắn súng. Đám người Ninh Ba, Tôn Điều La, Lữ Tứ Lang cũng tham gia vào trong đó, dưới sự cổ vũ của đám thuộc hạ phe mình, hai người đấu tới mặt đỏ tía tai, không phân cao thấp, không chút để ý tới trận mưa tên ngợp trời của người Tây Mông, trong con mắt chỉ có chuyên tâm nhắm vào những cung tiến thủ người Tây Mông đáng thương chạy qua kia, không cẩn thận một chút thôi là thành vong hồn dưới súng của hai người.

Bọn họ cùng sử dụng súng trường Mauser bắn từng phát một, thay phiên nhau nổ súng, nếu ai không bắn trúng thì chính là người đó thua. Kết quả là bắn hơn mười lăm băng đạn mà cũng không phân được thắng bại. Cả hai đều nổ súng là có kẻ ngã gục, không phát nào hụt cả, cung kỵ thủ người Tây Mông ngã gục ở ngoài cửa thành nam càng lúc càng nhiều, hai người vẫn cứ đánh ngang tay. Cuối cùng hai người đều nhận ra cứ tiếp tục như thế cũng không có kết quả, quyết tâm dùng cách chơi hoàn toàn mới.

Lữ Tứ Lang kiến nghị hai người dùng súng trường Mễ Kỳ Nhĩ bắn nhanh, hạn định là trong năm giây hoặc là thời gian ngắn hơn nữa bắn hết đạn dược, ai bắn trúng nhiều kẻ địch thì coi như thắng. Cuộc thi dùng chế độ năm ván thắng ba, nếu ai thắng năm ván, thì coi như là quan quân chiến thắng cuối cùng. Đao Vô Phong và Đồ Đấu Châu đều vui vẻ đồng ý.

Đao Vô Phong thi trước, hắn cầm lấy một khẩu súng trường Mễ Kỳ Nhĩ, dựa vào sau lưng tường thành, đoàng đoàng đoàng liên tục bóp cò súng, quả nhiên trong năm giây đã bắn sạch tất cả đạn dược, chỉ nghe thấy tiếng sủng nổ như rang lạc, cung kỵ thủ của người Tây Mông ở phía dưới liên tục ngã xuống, tiếng ngựa hí vang xen lẫn với nhau, các chiến sĩ ở bên cạnh đều đang đếm số người ngã xuống, hắn tổng cộng bắn ngã bảy tên cung kỵ thủ người Tây Mông.

Đồ Đấu Châu nhổ một bái nước bọt lên tay rồi xoa thật mạnh, sau đó nhận lấy súng trường Mễ Kỳ Nhĩ, lắp băng đạn vào, thử qua cảm giác của tay, cảm thấy không tệ, vì vậy khẽ hít một hơi, nhắm chuẩn vào cung kỵ thủ của người Tây Mông ở phía dưới, cũng liên tục bóp có sùng, một loạt tiếng súng vang lên, cũng có bảy tên cung kỵ thủ người Tây Mông bị bắn cho người ngã ngựa nhào, lăn như hồ lô lẫn lộn vào với nhau.

“Giỏi lắm!” Các chiến sĩ bộ hạ của mỗi người đều hô lên.

Nhưng tiếng reo hò ngừng bặt, thì ra là cung kỵ thủ người Tây Mông ở phía dưới cũng dùng mũi tên mãnh liệt đánh trả bọn họ, bọn họ vội vàng úp sấp xuống, kết quả Đao Vô Phong động tác hơi chậm một chút, trong khoảnh khắc liền có một mũi tên bay sát qua đầu hắn, tước mất một mảng da đầu lớn, máu tươi không ngừng tràn ra, gáy của hắn nhiều mồ hôi, mồ hôi thấm vào vết thương, đau rát vô cùng.

“Con mẹ nó cái bọn vương bát đản!” Đao Vô Phong tức phát điên, cầm lấy súng trường Mễ Kỳ Nhĩ, đoàng đoàng đoàn bắn liền mấy phát, nhưng đạn còn chưa bắn hết, hắn lại vội vàng hạ đầu xuống, thì ra những mũi tên bắn trả của người Tây Mông lại tới, tiếng mũi tên xé gió vô cùng sắc bén, hắn không dám đấu cững với những mũi tên dài nửa mét .

Phập phập phập …..

Cung kỵ thủ người Tây Mông nhắm chết vào mấy người ngông nghênh nhất quân Lam Vũ bọn họ, gần như không ngừng có cung tiễn chiếu cố tới phương phướng của bọn họ, người phía sau ụ thành chen chúc, bọn họ chỉ đành úp sấp trên tường thành, thân thể ép sát vào mặt đất, cảm giác mũi tên sát qua trên đầu, loại cảm giác tử vong rét buốt đó rất thích hợp để rèn luyện lá gan của con người.

Bỗng nhiên, Đao Vô Phong nhảy bật lên, hướng ra đằng sau kính lễ.

Mọi người quay đầu lại nhìn, thì ra là Dương Túc Phong tới.

Dương Túc Phong vừa mới đi lên tường thành, liền không ngừng có mũi tên bắt đầu chiếu cố tới y, thậm chí còn có mũi tên sượt qua da đầu y, mang theo một nhúm tóc nhỏ, y chỉ đành cũng úp người xuống, Đao Vô Phong thuận tay đem mũ sắt của mình đội lên đầu y. Dương Túc Phong hỏi bọn họ mấy câu, cũng tỏ ra vô cùng hứng thú với cuộc thi xạ kích của bọn họ. Lữ Tứ Lang thừa cơ khích bác: “Phong lĩnh, hai lão đại của chúng tôi đều bắn được thành tích bảy phát, ngài hẳn là có thể dễ dàng vượt qua chứ?”

Dương Túc Phong cũng ngứa ngáy, hăm hở nói: “Được, để ta thử xem sao.”

Hai người Đao Vô Phong và Đồ Đấu Châu cảm thấy rất hưng phấn, tự mình chuẩn bị cho Dương Túc Phong một khẩu súng, các chiến sĩ khác nghe nói Phong lĩnh muốn tham gia thi tài đều hưng phấn hết sức, cũng không đề ý tới cung tiễn của người Tây Mông nữa, ào ào chen lấn tới vị trí ụ thành, xem Dương Túc Phong thể hiện.

Dương Túc Phong một tay chống đất, bò tới bên mép tường thành, nhìn xuống phía dưới, một tay cầm súng trường Mễ Kỳ Nhĩ, bóp cò không hề gián đoạn, một loạt tiếng súng đùng đoàng liên tiếp vang lên, gần như là trong cùng một lúc, mười tên kỵ binh người Tây Mông nối nhau ngã xuống, do số người ngã xuống cùng một lúc quá nhiều. Đội ngũ cung kỵ thủ người Tây Mông tức thì rơi vào hỗn loạn, cung kỵ thủ ngã xuống ảnh hướng tới chiến hữu ở đằng sau, rất nhiều tên cũng bị chến mã ngã xuống mắc vào, nhất thời trên vùng đất trống ở phía dưới cổng thành nam, mấy mục tên cung kỵ thủ vây lại thành một cục, còn có tên bị xô thẳng xuống sông hộ thành đi mò tôm, thành một cảnh tượng hiếm có.

“Còn tạm được, chưa bị cứng tay.” Dương Túc Phong bình thản nói.

Các chiến sĩ của hai đơn vị lục quân đặc chiến đội đều bất giác đưa ánh mắt mang theo sự sùng kính nhìn Dương Túc Phong, rất nhiều người còn há hốc mồm ra, dáng vẻ như không tài nào tin nổi. Nếu là luận bắn từng phát một, mỗi người bọn họ đều có thể làm được bách phát bách trúng, nhưng liên tục xạ kích trong cường độ cao như vậy vẫn có thể bách phát bạch trúng, thì thực sự là chuyện không thể tin được, phải biết rằng tốc độ phóng ngựa của cung kỵ thủ người Tây Mông là cực nhanh.

Đồ Đấu Châu tâm phục khẩu phục nói: “Lợi hại, tôi phục rồi.”

Đao Vô Phong cũng lộ ra ánh mắt hâm mộ.

Lữ Tứ Lang cũng bị khơi lên hứng thú, vội vàng nói: “Tôi cũng tham gia.”

Dương Túc Phong đưa súng trường Mễ Kỳ Nhĩ ném cho hắn. Sau một loạt tiếng súng, kẻ địch chỉ ngã xuống sáu tên.

Lữ Tứ Lang không phục nói: “Tốc độ bắn quá nhanh, không tìm được mục tiêu của kẻ địch.”

Tôn Điền La cũng ngứa ngáy tay chân, trầm giọng nói: “Tôi cũng tới thử xem sao.”

Tiếng súng nổ vang liên tục mấy phát liền, Tôn Điền La bắn ngã năm tên địch.

Các chiến sĩ khác cũng lần lượt nhau liên tục xạ kích. Nhiều nhất là bắn chết sáu tên, ít nhất thì bắn chết bốn tên. Về sau cung kỵ thủ người Tây Mông càng ngày càng thưa thớt, tỉ lệ bắn trúng giảm sút rất lớn, khi lại một lần nữa tới lượt Đao Vô Phong, hắn cũng chỉ bắn trúng bốn tên.

Đao Vô Phong hạ súng trường Mễ Kỳ Nhĩ xuống, thực lòng nói: “Chỉ cần chậm hơn một chút thôi, là tôi khẳng định có thể bắn trúng được mười tên. Nhưng tốc độ quá nhanh không nắm chắc được. Phong lĩnh, kỹ thuật này ngài học được từ đâu vậy?”

Dương Túc Phong thuận miệng nói: “Học được lúc bắn sói hoang ở vùng ngoại ô đấy, không nhanh không được, nếu không sói hoang nó cắn vào cổ mình.”

Đồ Đấu Châu và Đao Vô Phong đều tỏ ra rất kinh ngạc, không hẹn mà cùng hỏi: “Sói hoang ư?”

Dương Túc Phong gật đầu.

Đao Vô Phong hỏi gấp: “Sói hoang ở đâu?”

Bọn họ chưa từng nghe thấy nơi nào ở địa khu Mỹ Ni Tư có sói hoang, cho dù là có cũng là ở phụ cận cao nguyên Huyết Sắc. Nhưng Dương Túc Phong tới phụ cận cao nguyên huyết sắc rồi sao? Trên thực tế, ở đại lục Y Vân, dã thú hung dữ rất nhiều, ví dụ những loại động vật nhỏ đáng ghét như con nhím, nhưng sói hoang thì vô cùng hiếm, cho dù là đại lục Y Lan cũng không có nhiều.

Lúc này Dương Túc Phong mới tỉnh ngộ ra, biết là mình lại lẫn lộn thời đại rồi, vì thế hàm hồ qua quít cho xong, nhưng các chiến sĩ của lục quân đặc chiến đội đều nửa tin nửa ngờ, bọn họ đều là tay súng nhà nghề, biết được loại kỹ thuật xạ kích này ngoại từ chú trọng vào thiên phận ra, thì cao thủ cơ bản là đều dùng đạn nuôi lớn, bọn họ gần như đã là những xạ thủ xuất sắc rồi, nhưng Dương Túc Phong sống trong nhung lựa không ngờ lại còn lợi hại hơn cả bọn họ nên đương nhiên là bọn họ phải truy hỏi tới tận cùng.

Dương Túc Phong trong lòng thầm kêu khổ, không biết phải làm sao để lừa bịp cho qua, vừa vặn Sương Nguyệt Hoa tới tìm, nói là ban hậu cần đưa tới một thứ do trung đoàn hải quân lục chiến thứ nhất đưa tới, dùng hộp gỗ để dựng. Bọn họ đã kiếm tra qua, bên trong là một bản chép tay, bản chép tay liên quan tới Đường Lãng - nguyên soái hải quân của đế quốc Đường Xuyên. Bởi vì trên bản chép tay có dòng chữ Dương Túc Phong tự mở ra xem, nàng không biết là có quan trọng hay không, nên mời Dương Túc Phong tự mình về xem.

Dương Túc Phong lập tức mượn cớ rời đi, bỏ lại sau lưng một đám ánh mắt thất vọng và nửa tin nửa ngờ. Trở về vị trí Tu La điện, Tri Thu đã đợi y ở nơi đó từ rất lâu rồi, hơn nữa nhìn thần tình của Tri Thu, tựa hồ vô cùng chú ý tới bản chép tay này, loại vẻ mặt sốt ruột mong ngóng đó cứ như là đang đợi bạn gái của mình vậy.

Dương Túc Phong mở chiếc hộp gỗ ra, nhìn thấy hàng chữ bên trong, hồ nghi hỏi: “Bản chép tay của Đường Lãng?”

Tri Thu hân hoan cổ vũ nói: “Vâng! Là tiểu sử liên quan tới nguyên soái Đường Lãng! Thực là kỳ quái, tiểu sử của nguyên soái Đường Lãng không ngờ lại viết ra bởi tay của một vương tử nước Mã Toa, thực sự là quá kỳ quái. Tôi rất muốn xem nội dung bên trong …”

Dương Túc Phong tùy ý nói: “Ngươi tự mở ra mà xem đi, không phải bày ngay trước mặt ngươi đấy à?”

Tri Thu lập tức cầm một quyển sách lên, thần tình nghiêm túc bắc đầu đọc.

Dương Túc Phong cũng thuận tay cầm lấy một quyển, là quyển sách cuối cùng. Đây là thói xấu khi đọc sách của y, mỗi lần xem sách đều xem kết cục trước, chơi game cũng là như vậy, kết cục bi kịch luôn không được y hoan nghênh. Thế nhưng đây lại cứ là một cái kết cục mang tính bi kịch, cho nên y chỉ lướt qua như gió, cũng chẳng hề xem kỹ.

Bỗng nhiên Tri Thu nghe thấy Dương Túc Phong lẩm bẩm đọc: “Dương Túc Phong có phải là cháu của Đường Lãng?”

Tri Thu toàn thân run lên, miệng rõ ràng là há hốc thành chứ O, vội vàng dứng lên, ghé sát vào bên người Dương Túc Phong xem qua, chính là như vậy, bên trên viết rất rõ ràng, căn cứ vào khảo chứng, Dương Túc Phong chính là cháu của Đường Lãng, nhưng nhìn vào sắc mặt của Dương Túc Phong thì lại giống như một người khác mới là cháu của Đường Lãng vậy, một chút vẻ bi thương hoặc vui mừng y đều không có.

Dương Túc Phong vẫn còn đang lầm bẩm nói: “Dương Túc Phong sao có thể có quan hệ với Đường Lãng? Thật kỳ quái…”

Tri Thu hưng phấn nói: “Phong lĩnh, thì ra ngài chính là cháu của nguyên soái Đường Lãng, tôi, tôi… quá kích động rồi!”

Dương Túc Phong cứ dửng dưng như không: “Ngươi kích động cái gì?”

Tri Thu vỗ tay nói: “Ngài là cháu của nguyên soái Đường Lãng đó! Tôi có thể không kích động sao?”

Dương Túc Phong lúc này mới tỉnh ngộ, biểu tình và phản ứng của bản thân không nên như vậy, nhưng cụ thể phải phản ứng như thế nào thì y cũng không biết. Dựa theo lý mà nói Dương Túc Phong thực sự biết được cái tin tức này hẳn là có phản ứng cực lớn, hoặc là rất kinh ngạc, hoặc là rất vui mừng, tuyệt đối không thể chẳng chút phản ứng như mình được. Nhưng là một kẻ bên ngoài, y thực sự không thể thay đổi tình cảm của mình để đổi thành một vai trò khác được.

Bất quá cuối cùng y cũng nhớ ra rồi, chẳng trách nhiều lần khi nhìn thấy những dấu vết của Đường Lãng lưu lại, rất nhiều người bên cạnh đều cảm giác quai quái, khi đó bản thân cũng lờ mờ cảm thấy mình và Đường Lãng có dính dáng gì đó. Nhưng không ngờ rằng, tên Dương Túc Phong này lại còn là cháu của Đường Lãng. Nhưng Dương Túc Phong làm sao có thể là cháu của Đường Lãng được? Nam Hải Dương gia và Đường Lãng sao có thể có quan hệ với nhau chứ? May mắn là mình không phải là chính Dương Túc Phong, nếu không chẳng gấp tới chết mới lạ.

Tri Thu kích động nhìn Dương Túc Phong, lắp ba lắp bắp nói: “Phong lĩnh, chúng tôi đã biết ngài không phải là người thường, thì ra ngài còn là hậu duệ của nguyên soái Đường Lãng… tôi, tôi thực sự quá kích động rồi!”

Dương Túc Phong vẫn có chút hờ hững nói: “Ngươi kích động cái gì?”

Tri Thu hưng phấn tới mức ngay cả mụn trên mặt cũng ửng cả lên, phấn khích nói: “Ngài không biết sao? Đường Lãng chính là thần tượng của chúng tôi đó! Ngài nhìn nơi này đi, trên tay của tôi cũng có săm dấu hiệu của Đường Lãng.”

Dương Túc Phong ghé tới nhìn, quả nhiên là trên cánh tay của Tri Thu có xăm hình Đường Lãng, hơn nữa nhìn qua thì hình săm đã tồn tại từ rất lâu rồi, một số họa tiết trông đã rất mờ nhạt, ít nhất cũng phải có hơn mười năm rồi.

Tri Thu kích động nói: “Cái này có khi tôi chín tuổi, nghe người ta kể chuyện về Đường Lãng, nên tôi quyết định xăm lên.”

Dương Túc Phong cười nhạt nhẽo: “Vì sao ngươi lại sùng bái Đường Lãng?”

Tri Thu kiêu ngạo nói: “Ông ấy là chiến sĩ chân chính!”

Dương Túc Phong cau mày, quyết định thu chỗ bản chép tay lại, đợi bản thân có thời gian mới nghiên cứu thêm, hiện giờ suy nghĩ vấn đề này thực sự quá phức tạp. Dương Túc Phong không ngờ lại là cháu Đường Lãng, quả thực là quá sức tưởng tượng, mà món hàng như giả mình đây phải phản ứng như thế nào cũng phải tìm thời gian nghiên cứu cho thật kỹ, vì thế bình thản nói: “Ta là hậu duệ của ai cũng không quan trọng.”

Tri Thu nói gấp: “Làm sao mà giống nhau được chứ?”

Bỗng nhiên, bên ngoài truyền tới tiếng ầm vang cực lớn, giống như có thiên quân vạn mã đang sóng vai tiến bước vậy, hai người đi ra bên ngoài nhìn tới, quả nhiên là nhìn thấy người Tây Mông chính thức phát động tiến công, vô vàn cung kỵ thủ nguời Tây Mông ùn ùn kéo đến.

“Nếu ai nói kỵ binh du mục không có vũ khí công thành, ta nhất định vả chết hắn.” Dương Túc Phong hờ hững nói.

Tri Thu len lén rút đầu lại.

Hắn biết câu nói này của Dương Túc Phong là nhắm vào mình, bởi vì căn cứ vào phân tích tình báo, người Tây Mông lần này nam hạ, không hề mang theo vũ khí công thành, cho nên hắn thuận miệng cũng báo cáo như vậy với Dương Túc Phong. Nhưng người Tây Mông lại xuất hiện với rất nhiều vũ khí công thành, thực khiến hắn có miệng khó cãi.

Hắn cũng chẳng biết người Tây Mông sao có thể trong thời gian ngắn ngủi như vậy làm sao kiếm ra được nhiều vũ khí công thành đến như thế, chỉ riêng máy ném đá đã có mấy chục cỗ, còn có hơn trăm khẩu đại pháo, những cỗ máy bắn đá kia còn có thể nhìn ra được là tạm thời chế tạo ra, thậm chí ngay cả vỏ cây cũng không tước đi, nhưng những khẩu pháo hàng thật giá thật kia, dù cho là một số khẩu pháo nòng đã bị rỉ sét, nhưng cỡ nòng cực lớn nhìn qua giống như từng cái hang động, bất kể lúc nào cũng có thể nuốt chửng tính mạng của quân Lam Vũ.

Kỵ binh của người Tây Mông yểm hộ vũ khí công thành chầm chậm tiếp cận Nham Long phủ, pháo binh của quân Lam Vũ mau chóng khai hỏa xạ kích, pháo đạn rơi lên vũ khí công thành của kẻ địch, phát nổ thành từng chùm dày đặc, lóe lên từng quầng lửa, trong ánh lửa chói lòa, những cỗ máy bắn đá vừa mới được làm xong kia bị bắn cho tan thành từng mành, khúc gỗ văng tán loạn, những bánh xe của đại pháo đồng thời bị bắn sập, nòng pháo nặng nề lập tứng rơi vào trong đất bùn, không cách nào nhấc lên được nữa.

Ai Đức Mông Đa sắc mặt trở nên âm trầm, ý thức được dưới hỏa pháo tầm xa của quan Lam Vũ, cung kỵ thủ của người Tây Mông và vũ khí công thành căn bản không thể phát huy được tác dụng, tiếp tục tấn công chỉ là nộng mạng vô ích, phải nghĩ biện pháp khác, vì thế quát lớn: “Rút!”

Người Tây Mông nhanh chóng rút lui, nhưng vẫn bao vây kín mít lấy Nham Long phủ, doanh trướng tạm thời của người Tây Mông cách ly Nham Long phủ một cách nghiêm ngặt, cung kỵ thủ của người Tây Mông không ngừng qua lại tuần tra, bọn chúng cố ý biến nơi này thành một tòa cô thành, một tòa thành chết.

Bất quá Dương Túc Phong lại chẳng hề lo lắng bởi sự bao vậy của người Tây Mông, y biết, chiến dịch ở Nham Long phủ sẽ là một chiến dịch hết sức kỳ quái, không phải thuần túy là một trận chiến phòng ngự, mà cuộc chiến hai bên bao vây và chống bao vây. Người Tây Mông không chủ động tấn công, vậy thì quân Lam Vũ phải chủ động xuất kích, nói chung, chiến tranh yên lặng là tuyệt đối không thể xuất hiện. Nếu hiện giờ người Tây Mông đã lắng xuống rồi, thế thì tới lượt quân Lam Vũ lên đài biểu diễn.

“Gọi Sử Lực Uy tới đây!” Dương Túc Phong trầm tĩnh nói.

Bóng đem âm trầm.

Bầu trời tăm tối nhìn không thấy thấy ánh trăng, tựa hồ như sắp đổ mưa rồi, trên mặt đấy cũng là một mảng bùn lấy dính nhớp, trải qua sự dày xéo lúc ban ngày của cung kỵ thủ người Tây Mông, mặt đất ở phụ cận cổng thành nam của Nham Long phủ biến thành những hầm hố lồi lõm, rất nhiều chỗ có nước đọng, khắn nơi đều là thi thể cung kỵ thủ người Tây Mông năm ngang dọc, chỉ có quân kỳ của người Tây Mông bị xé rách, đang lặng lẽ thuật lại tất cả mọi thứ phát sinh vào ban ngày.

Dương Túc Phong đứng ở trên tường thành ở cửa nam, cúi đấu nhìn xuống vùng đất trống trái ở phía dưới, nơi đó chỉ có ánh đèn lờ mờ, ở chỗ cách đó năm sáu kilomét, mới có được một ít ánh đèn, đó là nơi đặt doanh trướng của người Tây Mông. Vì đề phòng quân Lam Vũ pháo kích, người Tây Mông đem vòng vây của mình bố trí rất lớn rất xa, chỗ cách phủ Nham Long gần nhất cũng phải có tới năm sáu kilomet, mặc dù đạn pháo cũng có thể bắn tới, nhưng hiệu quả sẽ không thể rõ rệt, vì vậy Dương Túc Phong quyết tâm dùng biện pháp mới, để cho người Tây Mông tự đâm đầu vào lưới.

Cửa thành mở ra, cầu treo cũng hạ xuống, hơn ba trăm chiến sĩ quân Lam Vũ võ trang đầy đủ nối đuôi nhau đi ra, lặng lẽ tiềm phục hướng tới chỗ của người Tây Mông. Xuất thành đầu tiên là lục quân đặc chiến đội do Đao Vô Phong suất lĩnh, tiếp sau đó là bộ đội tinh nhuệ của trung đoàn 314 lục quân quân Lam Vũ dưới sự chỉ huy của Sử Lực Uy. Sau khi ra khỏi cửa thành, bọn họ liền dựa theo đội hình rẻ quạt bày trận, hướng về phía trận địa của người Tây Mông chầm chậm áp sát, mỗi khi đi được ướng chừng một trăm mét, đều phải đào một cái công sự cá nhân, đồng thời lắp súng máy ở bên trên đó.

Ở giữa khoảng đất trống trải này người Tây Mông cũng phái ra chòi canh di động, đó là những tên trinh sát người Tây Mông cưỡi trên lưng ngựa qua qua lại lại tuần tra, từ trên cao nhìn xuống lại chẳng ngờ không nhìn thấy sự xuất hiện của quân Lam Vũ. Bởi vì ví trị của hắn thực sự là không tốt lắm, sau lưng bản thân có ánh lửa, mà phía trước mắt lại tối om mịt mù, có thể nói là đứng ở chỗ sáng nhìn chỗ tối, động tác của quân Lam Vũ lại rất chậm, cho nên bọn chúng chẳng nhìn thấy gì cả.

Danh trướng của người Tây Mông cũng rất yên tĩnh, trừ bộ đội canh gác đang trực ban ra, đại bộ phận người Tây Mông đều ngủ rồi, trải qua thời gian dài hành quân, rất nhiều cung kỵ thủ của người Tây Mông thực sự đã sức cùng lực kiệt, hiện giờ đương nhiên là phải tranh thủ thời gian để nghỉ ngơi, tới ngay cả bản thân Ai Đức Mông Đa, sau khi an bàn xong cảnh giới cũng đã đi ngủ từ sớm rồi, hắn không lo lắng quân Lam Vũ rời thành, hắn lo lắng nhất là quân Lam Vũ không rời thành.

Tác chiến dã ngoại, Ai Đức Mông Đa có đủ sự tự tin, không một ai là đối thủ của người Tây Mông.

Đoàng! Đoàng! Đoàng!…

Bất thình lình, liên tục những tiếng súng phá vỡ sự yên tĩnh của màn đêm, những cung kỵ thủ chòi canh di động của người Tây Mông lũ lượt từ trên lưng ngựa ngã xuống. Đây chính là chuyện tốt do bọn Đao Vô Phong làm, tiếng súng lập tức đánh thức người Tây Mông, Ai Đức Mông Đa cũng bật dậy tức thì, theo phản xạ điều kiện vớ ngay lấy hoàng kim mã đao của bản thân. Những tên cung kỵ thủ người Tây Mông khác cũng ào ào xông ra khỏi doanh trướng của mình, giấc mộng đẹp của bọn chúng tòan bộ bị cắt ngang.

Ai Đức Mông Đa nhìn đồng hồ cát, vừa vặn hơn hai giờ sáng, chính vào lúc giấc ngủ ngon nhất.

Mông Đế và những tên vạn phu trưởng khác cũng lần lượt đi tới doanh trướng của Ai Đức Mông Đa, chờ đợi mệnh lệnh của hắn.

Ai Đức Mông Đa nhìn chằm chằm vào vạn phu trưởng A Đồ La, chậm rãi nói: “Quân Lam Vũ xuất động bao nhiêu người?”

Vạn nhân đội của A Đồ La phụ trách trực ban chiến đấu đêm nay, đảm nhận nhiệm vụ cảnh giới, nhưng bản thân A Đồ La cũng không hiểu rõ tình hình, hắn chỉ biết, có một bộ phận quân LamVũ lặng lẽ lẻn ra khỏi thành, sau đó hướng về phía người Tây Mông phát động tập kích, nhưng bộ phận quân Lam Vũ này rốt cuộc có bao nhiêu người, có mục đích gì, thì hắn còn hoàn toàn chưa làm rõ được.

“Đi làm rõ đã rồi hãy tới.” Ai Đức Mông Đa lẩm bẩm nói, sắc mặt âm trầm.

A Đồ La vội vàng rời đi.

Ai Đức Mông Đa càng nghĩ càng thấy bất an, khoác áo choàng lông lên đi ra phía bên ngoài doanh trướng, chỉ thấy màn đêm sâu thẳm, bầu trời mịt mù u tối, đằng xa cũng là một mảng tối như mực, không nhìn thấy được gì cả, chỉ có những tiếng súng lác đác của đối phương, tựa hồ đến từ phương hướng cửa thành phía nam của Nham Long phủ, hơn nữa loáng thoáng còn có thể nghe thấy có kẻ gào lên thảm thiết trước khi chết, tiếng kêu gào đó, chỉ có cung kỵ thủ của người Tây Mông bị chính chiến mã của mình đạp trúng mới có thể phát ra.

Sắc mặt của Ai Đức Mông Đa càng thêm âm trầm.

Mông Đế cũng cảm giác tiếp tục như thế này là không được nên tự mình đi kiểm tra cho rõ.

Quân đội của người Tây Mông cách Nham Long phủ ước chừng năm sáu kilomet, có địa phương thậm chí là còn cách chừng mười kilomet, điều này là để đề phòng pháo kích tầm xa của quân Lam Vũ. Mười lăm vạn cung kỵ thủ của người Tây Mông đem phủ Nham Long bao vây tới không còn một kẽ hở cho nước chảy, nhưng lại không phát động tấn công. Ai Đức Mông Đa cho rằng, cách bao vây như thùng sắt này có thể hoàn toàn vây khốn được quân Lam Vũ, chỉ cần quân Lam Vũ dám rời thành, kỵ binh của người Tây Mông lập tức dùng vó sắt dẫm cho chúng thành mảnh vụn, nhưng khi quân Lam Vũ thực sự xuất hiện, thì Ai Đức Mông Đa lại thấy phiền toài đã tới rồi.

Bởi vì vòng vây quá lớn, binh lực của người Tây Mông không tránh khỏi bị phân tán, hơn nữa khoảng cách giữa các đội cũng bị kéo tương đối giãn cách, binh lực đơn độc ở một phương hướng nào đó là tương đối mỏng, không thể nào ứng phó được với sự đột kích thậm chí là đột vây của quân Lam Vũ. Vừa nghĩ tới hai chữ đột vây, Ai Đức Mông Đa lập tức ý thức được chuyện không hay, hắn mẫn cảm cho rằng, quân Lam Vũ muốn đột vây.

“Khám Bội, đem đội vạn người của ngươi điều động tới phương hướng cửa nam.” Ai Đức Mông Đa tuyệt đối không cho phép quân Lam Vũ ở Nham Long phủ đột vây trong đêm nay, không phải là không cho quan Lam Vũ đột vây, mà là đêm nay thì không được, đêm nay người Tây Mông còn chưa chuẩn bị để sẵn sàng truy kích quân Lam Vũ vào trong đêm tối, đợi qua đêm nay rồi, thì quân LamVũ đột vây là chuyện không thể tốt hơn nữa, cung kỵ thủ của người Tây Mông có thể tiêu diệt bọn chúng trên đồng hoang dễ như trở bàn tay.

Vạn phu trưởng Khám Bội tuân lệnh rời đi.

Nhưng Khám Bội còn chưa đi được bao xa, bỗng nhiên, ở phụ cận cửa thành nam tiếng súng pháo vang lên mãnh liệt, còn xen lẫn với tiếng hò hét của vô số quân Lam Vũ. Giống như có thiên quân vạn mã đang tấn công vòng bao vây của người Tây Mông, ở nơi đó ánh lửa cũng trở nên vô cùng sáng rõ, đó là ánh lửa do hỏa pháo khơi lên, trong ánh lửa thấp thoáng của hỏa pháo, tựa hồ còn có rất nhiều bóng dáng của các chiến sĩ quân Lam Vũ, đang hung dữ nhào bổ vào doanh trướng của người Tây Mông.

Mấy tên tướng lĩnh người Tây Mông khác bên cạnh Ai Đức Mông Đa tức thì trở nên khẩn trương.

Thế công của quân Lam Vũ mãnh liệt như thế, làm cho mỗi một tên tưỡng lĩnh của người Tây Mông có mặt chỗ này đều cho rằng quân Lam Vũ muốn đột vây rồi.

Vạn phu trưởng Tra Mạt La lo lắng nói: “Liệu có phải là Dương Túc Phong muốn rời khỏi Nham Long phủ hay không?”

Không ai trả lời được.

Từ trên mặt lý trí mà nói, bọn chúng không tin Dương Túc Phong có thể rời khỏi Nham Long phủ vào lúc này, bởi vì trước khi người Tây Mông tới, Dương Túc Phong có rất nhiều thời gian để rời đi, không cần phải chọn đột vây vào cái thời điểm như thế này, bất quá, đây cũng là chuyện mà không ai có thể đảm bảo được, có lẽ là vì trong nội bộ bản thân quân Lam Vũ xảy ra chuyện gì đó, cho nên Dương Túc Phong mới gấp gáp muốn rời đi.

Tiếng pháo, tiếng súng và tiếng chém giết ở phía phụ cận thành nam càng ngày càng kịch liệt, cung kỵ thủ người Tây Mông phụ trách cản trở quân Lam Vũ ở phía đó từ trong giấc ngủ tỉnh lại, lập tức tham gia vào trong chiến đấu, trong bóng đêm bọn chúng không thể nào phân biệt được rốt cuộc là có bao nhiêu quân Lam Vũ, chỉ có thể dựa vào trực giác đặc biệt và sự dũng cảm của dân tộc du mục để chiến đấu, bọn chúng không ngừng tấn công bước tiến của quân Lam Vũ, ý đồ dùng cũng bước tiến của mình phong tỏa lấy quân Lam Vũ. Thế nhưng hỏa lực của quân Lam Vũ rất mạnh, hơn nữa những viên đạn ào ào trút xuống trên người cung kỵ thủ người Tây Mông như mưa bão, cung kỵ thủ của người Tây Mông tạm thời không thể phát huy ưu thế tốc độ của bọn chúng, từng mảng từng mảng một đổ gục.

“Dãn ra một chút! Dãn ra một chút nữa!” Sử Lực Uy không ngừng sai các chiến sĩ bên cạnh gắng hết sức kéo dãn khoảng cách, bọn họ muốn dùng số ít bộ đội giả làm có rất nhiều bộ đội, tạo thành ấn tượng sai lầm cho người Tây Mông, để người Tây Mông cho rằng, đây là quân Lam Vũ muốn đột vây rồi.

Vì thế các chiến sĩ quân Lam Vũ càng kéo dãn ra, cách nhau một khoảng trên năm mét, cung tiễn của cung kỵ thủ người Tây Mông đại bộ phận là bắn vào khoảng đất trống, trên thực tế thì cung kỵ thủ người Tây Mông chỉ bắn bừa bãi, bọn chúng xưa nay không sở trường dạ chiến, hiện giờ ở vào trạng thái phòng vệ thì lại càng bắn cung một cách mù quáng, vì thế có rất ít chiến sĩ của quân Lam Vũ bị thương.

Rất nhanh, Ai Đức Mông Đa nhận được tin tức, nói đội vạn người Lan Đạt phụ trách trông giữ phương hướng thành nam gặp phải thương vong cực lớn, thỉnh cầu chi viện, hai đội vạn người đóng giữ ở phụ cận chỗ Lan Đạt là Gia Lâm Đa và Ô Quan đã chủ động tham gia vào chiến đấu, nhưng trong bóng tối không có cách nào phân biệt được mục tiêu công kích của quân Lam Vũ, thậm chí là không thể nào phán đoán được mục tiêu công kích của quân Lam Vũ, hơn nữa thế công của quân Lam Vũ kéo rất dài, có một bố phận thậm chí xông tới khu vực phòng ngự của bọn chúng, bọn chúng sợ trúng phái kế điệu hổ ly sơn của quân Lam Vũ, cho nên không dám phái chủ lực tiến hành tăng viện.

“Điệu hổ ly sơn…” Ai Đức Mông Đa cẩn thận nghiền ngẫm câu nói này, tạm thời không thể đưa ra phán đoán, nhưng hắn rất mau chóng hạ lệnh điều động một vạn đội thiết giáp cung kỵ của bản thân tiến về phía cửa thành nam, đâm thẳng vào phụ cận cửa thành nam, đem đường lui của nhóm bộ đội quân Lam Vũ cắt đứt. Mặc dù bộ đội quân Lam Vũ ở trên cổng thành khẳng định là sẽ dùng hỏa lực mãnh liệt để tăng cường yểm hộ, nhưng Ai Đức Mông Đa tin chắc bản thân có thể trước khi gánh chịu thương vong lớn hoàn toàn tiêu diệt nhóm quân Lam Vũ này.

Ở trên bình nguyên hoang dã, thiết giáp cung kỵ của người Tây Mông cho dù không sử dụng cung tiễn, thì cũng có thể trong thời gian mấy phút đạp bằng hoàn toàn số quan Lam Vũ này. Quân Lam Vũ ở bên trong thành xông ra, không thể xây dựng được công sự phòng ngự kiên cố, đây chính là chỗ cung kỵ thủ của người Tây Mông có thể phát huy được uy lực ở mức độ cao nhất.

Mông Đế vội vàng quay trở về, báo cáo với Ai Đức Mông Đa, hắn cuối cùng đã làm rõ được tình hình, căn cứ vào cường độ và quy mô đột kích của quân Lam Vũ để phán đoán thì hẳn là không phải bộ đội chủ lực ở trong thành, có khả năng là quấy nhiễu người Tây Mông không thể nghỉ ngơi hiệu quả được. Bất quá đối với quan điểm quân Lam Vũ muốn đột vây của một số vạn phu trưởng đưa ra, hắn cũng không thể nào phủ nhận, bởi vì hắn phán đoán binh lực của quân Lam Vũ ước chừng từ ba nghìn tới bốn nghìn người, số lượng này đã vượt qua rất nhiều tính chất quấy rối rồi.

“Mặc kệ là kẻ địch tới quấy nhiễu hay là để đột vây, cứ tiêu diệt bọn chúng!” Ai Đức Mông Đa hạ quyết định cuối cùng.

Chỉ cần quân Lam Vũ xuất hiện trên bình nguyên hoang dã, là bọn chúng tự tìm lấy cái chết.

Nhưng cứ nhằm vào đúng lúc này, lại các bộ đội khác của người Tây Mông báo cáo lên, nói là chính diện của bọn chúng cũng xuất hiện bộ đội quấy nhiễu của quân Lam Vũ, mặc dù nhân số không nhiều, nhưng ở trong bóng tối không dễ đối phó, hơn nữa khả năng bắn súng của quân Lam Vũ rất chuẩn, cung kỵ thủ người Tây Mông còn chưa tiếp cận đã bị bắn chết rồi. Bọn chúng hi vọng Ai Đức Mông Đa có thể phê chuẩn, để bộ đội bản bộ của mình toàn lực truy kích những kẻ tập kich này. Ai Đức Mông Đa tức tới mức lỗ mũi muốn xì khói, quân Lam Vũ thực sự quá đáng ghét, người Tây Mông không chủ động đi chọc ghẹo gì bọn chúng, ngược lại bọn chúng lại đi phá rối người Tây Mông.

“Giữ vững lấy chỗ của bản thân.” Ai Đức Mông Đa hung dữ nói, trước khi làm rõ được mục đích và phương hướng hành động của quân Lam Vũ, hắn không thể để bộ đội đều tham gia chiến đấu, đầu tiên là phải giữ lại đầy đủ bội đội dự bị.

Ai Đức Mông Đa và Mông Đế thương lượng một chút, nhận thấy quân Lam Vũ ở phụ cận cửa thành nam Nham Long phủ mới là lực lượng lớn nhất, có giá trị tiêu diệt nhất, hơn nữa nhóm quân Lam Vũ ngày cũng ngông nghênh nhất, không ngờ lại dám xâm nhập vào vị trí cách Nham Long phủ hơn bốn kilomet, đây quả thực là khinh miệt năng lực cơ động của cung kỵ thủ người Tây Mông, Ai Đức Mông Đa quyết tâm phải đem đám quân Lam Vũ này diệt trừ hoàn toàn, để Dương Túc Phong thấy được sự lại hợi trong dã chiến của cung kỵ thủ người Tây Mông.

“A Đồ La, suất lĩnh đội vạn người của ngươi truy đuổi kẻ địch, bao vây tiêu diệt bọng chúng. “ Ai Đức Mông Đa hung dữ nói.

Vạn phu trưởng A Đồ La của người Tây Mông tuân lệnh, dẫn đội vạn người của mình xuất kích. Như vậy, ở phụ cận cửa thành nam, Ai Đức Mông Đa đã điều động hai đội kỵ binh vạn người bình thường, còn có một đội vạn người thiết giáp cung kỵ, thêm vào ba đội vạn người bình thường vốn đồn trú ở nơi đó, tổng cộng có sáu vạn cung kỵ thủ của người Tây Mông, cùng lúc dồn xuống địa phương chỉ có chu vi ba bốn kilomet.

“Dù nơi đó có là một khối sắt, cũng sẽ bị dẫm nát hoàn toàn.” Mông Đế tự tin nói.

Trên lịch sử chiến đấu của người Tây Mông, còn chưa có kẻ địch nào có thể kháng cự lại ba vạn nhân đội cung kỵ thủ của người Tây Mông ở bình nguyên hoang dã, bởi vì đây là chuyện không thể nào, cho dù là người Ngõa Lạp tử địch của người Tây Mông cũng không thể.

Quả nhiên, Ai Đức Mông Đa rất mau chóng thu được báo cáo, quân đội người Tây Mông điều động lập tức khiến cho quân Lam Vũ vô cùng chú trọng, nhóm nhỏ quân Lam Vũ đó hoàn toàn sợ hãi rồi, bọn chúng đã bắt đầu rút lui, hiện giờ người Tây Mông bắt đầu chuyển thủ thành công. Nửa đêm canh ba người Tây Mông bị quấy rối giấc mộng đẹp, tên nào tên nấy đều đầy ứ một bụng tức, muốn giáo huấn cho quân Lam Vũ một trân nhớ đợi, báo thù rửa hận, cho nên quấn chết lấy quân Lam Vũ không chịu buông tha, cung tiễn của bọn chúng khôn ngừng rơi vào trong bóng tối, cũng không biết là có bắn trúng mục tiêu hay không, nhưng bản thân bọn chúng lại không ngừng bị đạn của quân Lam Vũ bắn trúng.

Người Tây Mông cưỡi trên mình ngựa, mục tiêu thực sự quá lớn, hơn nữa bọn chúng tựa hồ chưa từng có ý thức che dấu bản thân.

“Tang Đốn, đã xử lý xong chưa?” Sử Lực Uy thấp giọng hô lên.

“Kiên trì thêm hai phút nữa.” Giọng Tang Đốn vững vàng đáp, trên cổ của hắn còn quấn băng, hoạt động không được mau lẹ lắm, hơn nữa chôn địa lôi là một công việc rất chuyên nghiệp, bọn họ phải nằm sấp xuống, cẩn thận đem dây nổ bố trí cho tốt, trong khoảng thời gian ngắn ngủi, chôn liền một mạch hai mươi tám quả địa lôi, hơn nữa toàn là địa lôi giây kéo, đây chẳng phải là một chuyện dễ dàng gì, Tang Đốn cảm thấy cái cổ mình mỏi nhừ, cái đầu cứ như muống gục xuống.

Sử Lực Uy gật đầu.

Tiếng vó ngựa càng lúc càng dồn dập, dường như có thiên quân vạn mã đang rầm rầm vượt qua mặt đất, Sử Lực Uy có thể cảm giác được đất đai ở phía dưới chân mình bắn đầu trở nên run rẩy, mặc dù từ mặt chiến lược quân Lam Vũ có thể khinh thường sự tồn tại của cung kỵ thủ người Tây Mông, nhưng về mặt chiến thuật thì không thể không thừa nhận, đứng ở trên tường thành và ở trên vùng hoang dã đối diện với người Tây Mông kéo tới, hoàn toàn là hai loại cảm thụ tâm lý khác nhau.

Đứng ở trên tường thành cao cao nhìn xuống cung kỵ thủ người Tây Mông khí thế hung hãn, Sử Lực Uy không hề có chút cảm giác khẩn trương nào, nhưng hiện giờ nằm trên vùng đất trống, cảm thụ tiếng động do vó sắt của người Tây Mông phát ra, Sử Lực Uy có thể cảm giác rõ ràng tim minh đập mỗi lúc một nhanh hơn, đây tuyệt đối là một sự thử thách lòng can đảm và tốc độ hoạt động của các chiến sĩ, trong toàn bộ sư đoàn 103, đại khái là trừ những bộ hạ do mình dày công lựa chọn ra này, thì những người khác đều không thể đảm đương nổi.

Bất quá điều quan trọng nhất chinh là phải khớp thời gian cho thật chuẩn, mặt dù có lòng tin trọn vẹn vào Dương Túc Phong, nhưng trái tim của Sử Lực Uy vẫn không kiềm chế được mà giật lên thon thót. Cái thời gian này chỉ cần chênh lệnh một phút thôi, thậm chí là lệnh hai mgươi giây, đều có thể tạo thành hậu quả mang tính thảm họa, hơn ba trăm người bọn họ, mặc dù bình thường thì rất mạnh mẽ, nhưng ở trên bình nguyên đối diện với hàng vạn thậm chí là hàng chục vạn cung kỵ thủ của người Tây Mông, đừng nói là kháng cự, chỉ chạy chậm một phút thôi thì trong chớp mắt cũng có thể bị vó sắt của cung kỵ thủ người Tây Mông dẫm cho nát bét.

Rầm rầm rầm …

Tiếng vó ngựa của người Tây Mông càng lúc càng gần.

Sử Lực Uy xuất thân là thổ phỉ nên hoàn toàn chẳng lạ gì kỵ binh nữa, hắn có thể nghe ra được đây chính là tiếng vó ngựa đội ngũ hình vuông của kỵ binh người Tây Mông đang lao tới với tốc độ cao, tiếng vó ngựa tương đối nằng nề, từ đó có thể phán đoán ra được, đây tuyệt đối không phải là cung kỵ thủ bình thường của người Tây Mông, mà là thiết giáp cung kỵ thủ dũng mãnh nhất của người Tây Mông, thiết giáp cung kỵ thủ của nước Mã Toa đã có uy lực tương đối ghê người rồi, nhưng thiết giáp cung kỵ thủ của người Tây Mông thì lại càng hơn bọn chúng một bậc. Người Tây Mông quanh năm sống trên cao nguyên Huyết Sắc điều kiện sinh hoạt gian khổ, bất kể là kỵ thuật hay là tiễn thuật đều càng xuất sắc hơn người tộc Bản Đô sinh sống trên thảo Nguyên Phan Mạt Tư màu mỡ.

Cho dù là ở trong bóng tối, Sử Lực Uy cũng có thể cảm giác được hô hấp của các chiến sĩ ở đằng sau càng lúc càng gấp gáp, đây là biểu hiện của sự căng thẳng. Không một ai có thể không khẩn trương khi đối diện với thiết giáp cung kỵ của người Tây Mông trên đồng hoang đất trống, nói thực sự, không xón ra quần đã là giỏi lắm rồi.

Cuối cùng âm thanh chờ đợi đã lâu của Tang Đốn cũng vang lên: “Làm xong rồi! Rút!”

Sử Lực Uy lập tức thấp giọng hô lên: “Rút! Dùng tốc độ nhanh nhất rút lui!”

Không đợi cho người khác có phản ứng, Sử Lực Uy đã quay người lại, co cẳng chạy bạt mạng về phương hướng cửa thành nam của Nham Long phủ. Hắn có thể cảm thấy bàn chân của mình dường như dẫm lên rất nhiều thứ, có thi thể của người Tây Mông, có vũng nước, còn có cà bàn chân đứt gãy của chiến mã, nhưng chẳng quan tân được nhiều như vậy, chỉ biết có dốc hết sức mà chạy, chạy thục mạng, hướng về phía cửa thành nam chạy thục mang.

“Chạy được về là thắng lợi!” Trước khi xuất phát, Dương Túc Phong thần sắc nghiêm nghị căn dặn mỗi một chiến sĩ quân Lam Vũ tham dự hành động bí mật lần này.

Tham dự lần hành động này, không phải là chiến sĩ quân Lam Vũ ưu tú nhất mà là quân Lam Vũ chạy giỏi nhất.

Tang Đốn cũng đang chạy thục mạng, những chiến sĩ quân LamVũ khác cũng chạy thục mạng về phía sau, trong bóng đêm cung kỵ thủ của người Tây Mông còn chưa phát hiện ra bọn họ đang chạy bán sống bán chết về cửa thành của mình như chó nhà có tang, bởi thế vẫn đang ở bên ngoài thận trọng dè dặt theo sau tiến lên, tiếng súng lác đác vẫn vang lên không ngừng, cũng làm cho người Tây Mông sinh ra một nhận định sai lầm là quân Lam Vũ vẫn đang tiếp xúc với bọn chúng, trên thực tế, vào lúc này đã chỉ còn các chiến sĩ lục quân đặc chiến đội quân Lam Vũ vừa đánh vừa rút nữa thôi.

Đao Vô Phong gánh vác nhiệm vụ đoạn hậu kích thích nhất cũng là nguy hiểm nhất.

Vì sao lại lựa chọn bọn họ.

Bởi vì bọn họ đánh giỏi nhất cũng là chạy giỏi nhất.

Căn cứ vào sự an bài trước đó, bọn họ chỉ có không tới thời gian hai mươi giây thoát khỏi sự tiếp xúc với cung kỵ thủ người Tây Mông.

Hai mươi giây là khái niệm như thế nào?

Đối với cung kỵ thủ người Tây Mông mà nói, hai mươi giây có thể từ ngoài một nghìn mét đánh tới trước mặt kẻ địch rồi.

Rầm rầm rầm …

Phảng phất như bóng đêm trên mặt đất trong chớp mắt bị xé nát, toàn bộ phia tây nam của Nham Long phủ đều bừng sáng, một quầng lửa chiếu rọi lên bầu trời xuất hiện trên mặt đất phía tây nam, giống như ngọn lửa lớn vô biên hoàn toàn bao phủ lên mặt đất. Ngọn lửa lớn ngút trời này càng ngày càng gần, càng ngày càng mãnh liệt, tựa hồ như muốn đem cả mặt đất thiêu đốt.

Sử Lực Uy vừa mới chạy tới vị trí cầu treo, tức thì hít một hơi khí lạnh.

Thiết giáp cung kỵ của người Tây Mông tới rồi.

Thiết giáp cung kỵ của người Tây Mông giống như một trận lửa lớn hừng hực lan tới.

Một tay kéo một chiến sĩ quân Lam Vũ thiếu chút nữa rơi vào sông hộ thành lên, đẩy hắn vào trong thành, Sử Lực Uy và Tang Đốn tự minh đoạn hậu, đưa những chiến sĩ quân Lam Vũ vừa rồi mới xuất thành vào trong thành, những chiến sĩ quân Lam Vũ bị thương được các chiến hữu quân Lam Vũ cõng ở trên lưng, cũng thành công tới được vị trí cửa thành, làm trái tim treo lên tới cổ họng của Sử Lực Uy cuối cùng cũng được hạ xuống.

Kiểm tra nhân số, không thiếu một ai.

Chốc lát sau, liền nhìn thấy những chiến sĩ của lục quân đặc chiến đội do Đao Vô phong suất lĩnh đã tới nơi, bởi nhu cầu trang bị gọn nhẹ, bọn họ thậm chí vứt đi cả ba lô, có người thậm chí bởi vì giày dính vào trong bùn đất không rút ra được, vì thế vứt béng luôn cả giày, đi chân trần chạy trở về, có rất nhiều các chiến sĩ của lục quân đặc chiến đội đại khái là bởi vì ngã vào trong vũng bùn nên trên người toàn bộ đều là bùn đất.

“Mau!” Đao Vô Phong không dừng lại một giây phút nào, lao thẳng qua giữa Sử Lực Uy và Tang Đốn, thiếu chút nữa là đụng ngã cả hai tên gia hỏa đó, những chiến sĩ khác của lục quân đặc chiến đội cũng học y theo như vậy, lao thẳng qua giữa hai người, thiếu chút nữa là xô văng cả Sử Lực Uy và Tang Đốn xuống sông hộ thành, may mắn là hai người tóm chặt lấy dây thừng nên mới không bị rơi xuống, nhưng thân thể của Tang Đốn đã treo lơ lửng trên không rồi.

“Các ngươi là lũ khốn kiếp!” Tang Đốn dậm chân chửi bới.

Sử Lực Uy không có thời gian mà chửi người, kéo luôn cánh tay hắn đi, hai người lập tức dùng tốc độ nhanh nhất lao vào trong cổng thành.

Két két…

Cánh cửa lớn bằng sắt nặng nề chầm chậm đóng lại, đem những mũi tên như mưa bão của người Tây Mông chắn ở bên ngoài cánh cửa sắt, tốc độ của thiết giáp cung kỵ rất nhanh, nhưng cung kỵ thủ người Tây Mông trang phục gọn nhẹ càng nhanh hơn, gần như trong chớp mắt hai người tiến vào cổng thành, cũng xông tới phụ cận cửa thành nam.

Sau khi vào thành, hai người Sử Lực Uy và Tang Đốn đã không khống chế nổi bước chân của mình nữa, ngã sõng soài trên con đường cứng rắn, không còn chút sức lực nào nữa, trong lúc vô tình ngẩng đầu lên, chỉ nhìn thấy Đao Vô Phong và những chiến sĩ của hải quân lục chiến đội sớm đã nằm lăn quay ra cả đống rồi, cũng chỉ còn lại ti