ịa cung ngàn năm. trung
Mộ Thanh Yến nhìn vòng ôm trống rỗng của mình, lại nhìn cô gái đứng trong thính đường đang hưng phấn, “Nàng mù hay là không biết đếm thế, nơi này rõ ràng có sáu mặt tường mà.”
Hắn chỉ chung quanh, toà đại sảnh do năm mặt tường cao to bằng nhau dựng thành, trên mỗi mặt vách đá đều khắc bích hoạ cổ xưa phức tạp, ngoài vách đá là lớp tường thép tinh dày ba thước. Trong năm mặt vách có hai mặt hơi mở ra phía ngoài, chừa giữa hai mặt một khe hở chừng vài thước.
Mà giữa hai khe hở, chia chính giữa hai vách tường hai bên chính là chỗ vách tường chật hẹp bọn họ vừa tiến vào.
Năm mặt tường đá thêm một mặt tường sắt, vừa vặn sáu mặt.
“Huynh mới mù á!” Thái Chiêu quay lại, “Huynh qua đây nhìn xem, lại đây lại đây…” Hai tay cô giữ chặt tay trái Mộ Thanh Yến, hào hứng kéo hắn từ dưới đất lên.
“Trước đó tôi không dám nói, vì tuổi những vật bằng kim loại không dễ đoán tuổi như gỗ đá, hiện giờ tôi dám đoán chắc, vách tường sắt này và cả tòa địa cung không phải xây dựng cùng thời điểm.” Thái Chiêu kéo Mộ Thanh Yến vào ngay khe hở trước bức tường họ đang đứng, lúc này, bên ngoài mưa tên đã ngừng, chỉ để lại những đuôi tên trên vách và mặt đất lối đi.
Mộ Thanh Yến cúi đầu xem xét kỹ, phát hiện vách tường bị hắn xé mở ban nãy kia chỉ dày vài tấc, so với vách tường đối diện vừa mới bị hắn đập nứt là một trời một vực; kỹ thuật rèn đúc cũng không đủ tinh tế, màu thép hơi phát xám chứ không phải đen đặc như cả tòa địa cung bằng huyền thiết.
Đúng như Thái Chiêu nói, toà đại sảnh thật sự do năm mặt vách đá vây thành hình ngũ giác, mà chỗ vách sắt họ đi vào là do người khác xây thêm sau này.
“Chẳng những vách tường sắt này và địa cung không phải xây dựng cùng lúc, mà năm mặt vách đá này cũng không phải.” Thái Chiêu đảo mắt qua năm vách đá, chỉ trỏ, “Huynh nhìn đường vân trên tảng đá kia, cả vết khắc trên ấy, hình ảnh trên năm vách đá này đang kể về chuyện hai trăm năm trước. Ma giáo các người cũng được lập từ hai trăm năm trước, mà toà địa cung lại là do Giáo chủ đời thứ năm của các người cho xây dựng, xem như bốn vị Đại giáo chủ có đoản mệnh chút thì cũng phải mấy chục năm mới đến phiên đời thứ năm nhỉ…”
“Một trăm ba mươi năm.” Mộ Thanh Yến đột ngột nói.
Thái Chiêu: “?”
Mộ Thanh Yến nói: “Giáo chủ Mộ Đông Liệt kế vị là vào hơn 130 năm trước, mười lăm năm sau, cũng tức là khoảng một trăm hai mươi năm trước đã vứt ngôi vị bỏ đi, không còn tin tức.”
Nghe đến năm ấy, Thái Chiêu thoáng giật mình, một ý nghĩ chợt lóe trong đầu, cô chưa kịp bắt lấy đã chạy mất tăm mất tích.
“Ngồi trên ngôi vị mười lăm năm, vứt lại ngôi vị bỏ đi…” Cô tự lẩm bẩm, chợt hỏi, “Đến cùng là vì sao ông ấy lại muốn xây toà địa cung này nhỉ? Xem như lúc bấy giờ gia nghiệp Ma giáo các huynh có như lửa dầu đỏ rực, ông ấy cũng sẽ không vô duyên vô cớ hạ một thủ bút hùng vĩ như thế.”
Mộ Thanh Yến tập trung nhíu mày, “Thật ra từ nãy ta đã có một suy nghĩ kì lạ. Giáo chủ Mộ Đông Liệt xây dựng toà địa cung này, có vẻ như là vì giấu đi thứ gì đó.”
“Giấu thứ gì đó?” Thái Chiêu ngẩng lên nhìn vách đá quanh mình, “Nếu bức địa đồ kia không gạt người, năm mặt vách đá này chính là trung tâm địa cung, chả lẽ là ông ấy giấu năm vách đá này?”
“Không giống.” Mộ Thanh Yến lắc đầu, “Như nàng nói, không gian này vốn do năm mặt vách đá lớn nhỏ tạo thành, ở giữa cố ý để lại khe hở rộng vài thước đủ cho người đi vào. Làm thế, nom không giống như muốn giấu năm vách đá này.”
Thái Chiêu: “Hay ở đây thật sự có giấu kho báu gì nhỉ?”
Mộ Thanh Yến: “Giáo chủ Mộ Đông Liệt có để lại vật báu gì không thì ta không biết, nhưng mấy cái xác bên ngoài kia tất nhiên là tin nơi đây có giấu bảo vật.”
Hai người không có manh mối, cuối cùng Thái Chiêu thở dài một tiếng, dựa vào vách đá trượt ngồi xuống, “Lại đây nào, mời Thiếu Quân kể xem vị Giáo chủ Mộ Đông Liệt của quý giáo là người thế nào đi.”
Mộ Thanh Yến cũng ngồi xuống sát bên cô gái, thong thả duỗi ra tứ chi thon dài, “Giáo chủ Mộ Đông Liệt là vị Giáo chủ có mưu lược vĩ đại, kế hoạch dài rộng nhất từ lúc bản giáo lập giáo đến nay, thiếu tí nữa là có thể chiếm được sáu phái Bắc Thần thống nhất thiên hạ — ít ra là sử sách ghi lại như thế.”
“Cũng huynh nói, nói hơi khác nha.” Là một đệ tử sáu phái Bắc Thần ‘suýt chút bị thâu tóm’, giọng điệu Thái Chiêu chua loét..
Mộ Thanh Yến ngẫm nghĩ, nói: “Lúc Mộ Đông Liệt kế vị, mới mười hai mười ba tuổi.”
“Hở?!” Thái Chiêu cực kỳ bất ngờ, cô chợt nhớ tới một chuyện, “Đúng rồi đúng rồi, trước đó huynh đã kể với ta, đời Giáo chủ đầu tiên bắt đầu thu nhận con nuôi, dùng để phụ tá con ruột bị khiếm khuyết về năng lực, là Giáo chủ đời thứ ba. Mà Mộ Đông Liệt là Giáo chủ đời thứ năm, thế thì cha ông ấy chính là…”
“Đúng thế, cha của Giáo chủ Mộ Đông Liệt chính là Mộ Hoa Ninh Giáo chủ đời thứ tư, người con trai độc nhất khuyết thiếu năng lực của nhà họ Mộ.” Mộ Thanh Yến rất thẳng thắn thừa nhận.
Đã trải qua khoảng đời một trăm ba mươi năm rõ rành rành, nhà họ Mộ năm ấy cùng với nhà họ Mộ thời điểm này thật có nhiều điểm tương tự — cậu bé Mộ Thanh Yến trong lúc đọc sử sách về ly giáo thường xuyên nghĩ vậy.
Cũng như tằng tổ phụ (ông cố) của Mộ Thanh Yến, Giáo chủ đời thứ ba Mộ Thịnh cũng là một người khoan dung nhân hậu, đến mức không thể nghiêm khắc quản giáo người con trai độc nhất, nuôi Mộ Hoa Ninh thành một người đa sầu đa cảm, yếu đuối nhu nhược. Mà lúc đó sáu phái Bắc Thần vừa chia nhà xong, tự lập môn hộ chưa quá mười năm, thanh thế như mặt trời ban trưa, chăm chăm ngó ly giáo như đối thủ một mất một còn.
Mộ Thịnh biết không thể giao phó chức đảm nhiệm giáo quyền cho cậu con trai nhu nhược, thế là mới ra quy chế nhận con nuôi.
Mà người con nuôi đời thứ nhất cũng giống Nhiếp Hằng Thành, là một tài tuấn anh minh quả quyết văn võ song toàn tuyệt thế, trên có thể trợ giúp cha nuôi trấn áp Giáo chúng, dưới có thể quản lý ly giáo chỉnh chu rõ ràng vô cùng thịnh vượng.
Thế là, cũng như thế, giống như ông cố của Mộ Thanh Yến, đối với đứa con nuôi, Giáo chủ Mộ Thịnh sau khi yên tâm vui mừng lại không khỏi sinh nỗi lo lắng mơ hồ. Nhưng vận may của ông ta không tệ, mặc dù con trai con dâu bình thường vô dụng, song đứa cháu trưởng lại là một thiếu niên dũng mãnh hổ hổ sinh uy, tuổi còn nhỏ đã tài hoa xuất chúng.
Vị thiếu niên đó chính là Mộ Đông Húc anh trưởng của Mộ Đông Liệt.
Sau khi Mộ Thịnh qua đời, quả nhiên người con nuôi nắm quyền dài ngày, tuy Mộ Hoa Ninh mang danh là Giáo chủ, song mọi giáo quyền lại nằm trong tay người anh em nuôi, một đám lão thần mang lòng trung thành lúc nào cũng lo lắng, chỉ mong Thiếu Giáo chủ Mộ Đông Húc mau lớn, nhanh chóng tiếp nhận ngôi vị Giáo chủ.
Ai ngờ, ngay trước khi Mộ Đông Húc tròn mười tám một tháng, hắn bỗng bất ngờ ngã xuống núi chết.
“Thật sự là ngoài ý muốn sao? Không phải là người con nuôi kia âm thầm hạ thủ ư.” Không thể trách Thái Chiêu âm mưu luận đầy một đầu, mấy hôm nay cô đã nghe chuyện xấu năm ấy của Nhiếp Hằng Thành quá nhiều.
Mộ Thanh Yến: “Sử sách có đề cập, sau này Giáo chủ Mộ Đông Liệt từng điều tra nhiều lần, cái chết của Mộ Đông Húc kia đúng là chuyện xảy ra ngoài ý muốn, không liên can đến người con nuôi kia.”
Mộ Hoa Ninh nghe tin con trai trưởng chết đột ngột, lập tức phun máu tươi ngất đi, chừng tỉnh lại cũng chỉ còn thừa nửa cái mạng.
Mà bên cạnh ông, là Mộ Đông Liệt người con trai thứ chỉ chừng mười hai mười ba tuổi, so với ngọn núi cao Mộ Đông Húc kia chỉ là đứa bé bi bô tập nói, lại còn do hầu thiếp xuất thân nghèo hèn sinh ra.
Với tình hình đó, phe ủng hộ người con nuôi lập tức có động, họ câu kết các nơi, tranh nhau la gào, ngoài sáng trong tối tuyên truyền rằng Mộ Hoa Ninh nên bắt chước Minh chủ Nghiêu Thuấn thời cổ đại, nhường ngôi vị Giáo chủ cho người anh em nuôi trẻ trung khoẻ mạnh lại đầy rẫy chiến công.
Mộ Hoa Ninh thật sự đã dao động.
Đáng tiếc, bọn hắn đụng đến không phải là người cha của Mộ Thanh Yến hờ hững vô dục vô cầu, mà là Mộ Đông Liệt hung ác nham hiểm hùng đoán thiên hạ có một không hai.
Khi đứa con thứ xưa nay im lặng lầm lì bảo rằng muốn thay huynh trưởng kế thừa ngôi vị Giáo chủ, Mộ Hoa Ninh còn thấy là trò cười, an ủi đứa con nhỏ đừng gấp gáp, cha già đây vẫn còn gắng gượng chống đỡ một hai phần.
Mộ Đông Liệt không tốn miệng lưỡi thuyết phục cha mình, không nói không rằng lui ra.
Ngày hôm sau, đương lúc một đám trưởng lão hộ pháp và người con nuôi ở cấp từ trung đẳng trở lên chờ trước giường bệnh của Mộ Hoa Ninh cãi cọ, thiếu niên nửa người nhuốm máu lạnh lùng xách hai đầu người bước vào. Cậu ta xốc túi đồ, hai cái đầu lăn tới dưới chân đám người, chính là hai kẻ tâm phúc bên cạnh người con nuôi kêu gào nhường ngôi to mồm nhất, cũng là hai trong số Thất Tinh trưởng lão.
“Một mình ông ấy giết hai trưởng lão? Mới mười hai mười ba tuổi!” Thái Chiêu kinh hãi, “Hay là bản lĩnh Thất Tinh trưởng lão thời bấy giờ không cao.”
Mộ Thanh Yến tức giận chọc vào dưới ót cô.
Lúc ấy trước giường bệnh của Mộ Hoa Ninh lập tức rối nùi một cục.
Chẳng ai ngờ rằng, Mộ Đông Liệt tuổi còn bé mà tu vi đã kinh người thế, hơn nữa hoàn toàn không ai biết.
Dựa theo giáo quy của ly giáo, giáo chúng không thể tự giết lẫn nhau, dù có hành vi phản giáo hay phạm vào giáo quy, cũng phải được lệnh mới có thể ra tay, không thể tự ý chém giết.
Trên dưới cả giáo, chỉ một người có thể là ngoại lệ, là chính bản thân Giáo chủ.
Bây giờ, Mộ Đông Liệt vô duyên vô cớ g iết chết hai Thất Tinh trưởng lão, bày ra trước mặt Mộ Hoa Ninh chỉ có hai con đường, hoặc là theo giáo quy trừng phạt đứa con trai nhỏ, hoặc là sớm truyền ngôi vị cho cậu ta.
Mộ Hoa Ninh đương nhiên chọn vế sau.
“Người con nuôi cứ thế mà nghe lệnh sao?” Thái Chiêu có vẻ không dám tin.
Vẻ mặt Mộ Thanh Yến phức tạp: “Từ những ghi chép sau này, người con nuôi kia cũng không phải người có chủ ý mưu quyền. Thời kỳ đầu Giáo chủ Mộ Đông Liệt cầm quyền, tuy hai người có tranh chấp, nhưng mọi thứ cũng chỉ vì chuyện công. Sau này, ông ta càng trung thành tuyệt đối, không biết bao nhiêu lần xông pha chiến đấu vì Giáo chủ Mộ Đông Liệt đến chết mới thôi.”
Thái Chiêu có phần cảm khái: “Ôi, cho nên mới nói, dã tâm cũng do nuôi dường mà ra cả. Nếu lệnh tôn cũng giống Giáo chủ Mộ Đông Liệt, nói không chừng Nhiếp Hằng Thành…” Cô lắc đầu, “Không đúng, Nhiếp lão cẩu từ lúc ông nội huynh chưa thành hôn đã bắt đầu tính toán rồi, quyết rắp tâm hại người từ rất sớm.”
Mộ Thanh Yến không nói gì, một tia cảm xúc kì diệu khó lòng phát hiện chảy qua trong lòng.
Thái Chiêu đứng dậy, đi tới đi lui mấy bước, ngẩng đầu nói: “Vậy là chẳng ai nghi ngờ khả năng Giáo chủ Mộ Đông Liệt vì cướp vị trí Giáo chủ mà mưu hại huynh trưởng của mình ư?”
Mộ Thanh Yến lắc đầu: “Ban đầu đúng là có tin đồn như thế, nhưng sau này Giáo chủ Mộ Đông Liệt bảo thoái vị là thoái vị, bỏ ngôi Giáo chủ và quyền thế lộng trời nói đi là đi, hiển nhiên không phải là người tham luyến quyền vị.”
Thái Chiêu ngẫm nghĩ: “Sau khi ông ấy đi thẳng một mạch, Giáo chủ kế nhiệm ắt là người con trai của anh ông ấy nhỉ.”
Mộ Thanh Yến: “Không sai, chính là Mộ Tung nhậm chức Giáo chủ đời thứ sáu. Lúc ông ấy kế vị mới mười bảy tuổi, cũng may là tâm phúc mà người chú lưu lại đều là hạng người trung dũng, trong giáo cũng không có sai sót. Giáo chủ Mộ Tung cực kỳ kính yêu Giáo chủ Mộ Đông Liệt, tình cảm quấn quýt có thể so với tình cha con.”
“Nhìn ra mà.” Thái Chiêu cười ra tiếng, “Ông ấy cho ghi lại những chuyện mà Giáo chủ Mộ Đông Liệt trải qua trầm bổng chập trùng sinh động như thật, có thể so với phiên bản thoại bản náo nhiệt nhất trên thị trường rồi.”
Mộ Thanh Yến cũng cười, “Đúng thật. Lúc ta đọc sách sử, các Giáo chủ còn lại dù có công tích vĩ đại, cũng chỉ rải rác mấy lời, chỉ mong ghi chép rõ ràng chính xác là được. Còn mỗi một sự tích về cuộc đời Giáo chủ Mộ Đông Liệt kia, không những chi tiết, lời ca tiếng tụng mà trong câu chữ đều là tình cảm kính ngưỡng yêu quý. Cũng khó trách, dù gì Giáo chủ Mộ Tung cũng là nhờ chú mình tự tay nuôi dưỡng.”
“Đã rõ đến từng chi tiết, thế thì sao không viết đến chuyện Giáo chủ Mộ Đông Liệt xây dựng địa cung và nguyên nhân thoái ẩn nhỉ?” Thái Chiêu ngạc nhiên nói.
“Đúng là mười hai mười ba năm trước thì cực rõ chi tiết, nhưng đến hai năm trước khi Giáo chủ Mộ Đông Liệt rời đi, ghi chép đã bắt đầu mập mờ suy đoán, ở mấy điểm mấu chốt thì ghi đến Xuân Thu, đến cuối khi Giáo chủ Mộ Đông Liệt rời đi lại càng sơ sài.” Mộ Thanh Yến nhíu mày, “Ta luôn cảm thấy Giáo chủ Mộ Tung đã che giấu thứ gì đó.”
Thái Chiêu vừa lắc đầu vừa đi loạn xạ, “Hầy, xem ra tâm sự tổ tiên nhà huynh đoán không nổi. Thôi được rồi, chúng ta hãy xem thử vách đá này, nói không chừng có đường ra gì đấy.”
Mộ Thanh Yến đồng ý, hai người ngước cổ quan sát năm mặt vách đá.
Vách đá cực kỳ to lớn, chỗ xa nhất hai người có thể nhìn rõ là bức vẽ cao ba bốn trượng trên đỉnh đầu, cao hơn nữa đã thấy không rõ. Trên mỗi mặt bên của vách đá đều được điêu khắc những bức vẽ phức tạp về hoa cỏ chim thú xinh đẹp cổ kính, giữa mấy đường hoa văn hoa cỏ chim thú ấy, còn được khắc rất nhiều nhân vật, trẻ có già có, nam có nữ có, vẽ hình vẽ sắc, cộng thêm đình đài lầu các, rất náo nhiệt.
Mộ Thanh Yến càng xem vẻ mặt càng nghiêm túc, “Chiêu Chiêu, nàng có cảm thấy mấy hoa văn khắc hình hoa, chim, cá, này trông rất quen mắt không?”
Cô gái nhỏ xem đến nhập tâm, hắn gọi hai lần cô mới tỉnh lại, mờ mịt nói, “Quen mắt hả? Có phải ở đâu đó dãy Hãn Hải cũng có kiếm pháp như này không?”
“Không phải, kỹ thuật khắc dấu kim thạch này là cổ pháp thất truyền từ lâu rồi, dãy Hãn Hải đúng là không ít chỗ lưu lại vết tích kim thạch khắc, nhưng ta nói không phải ý này.” Mộ Thanh Yến nói, “Là ta nói những hình hoa văn này, nàng có cảm thấy nó giống Mộ Vi Cung như đúc không?”
Thái Chiêu à lên, ngay lập tức sấn lên xem kỹ, “Ui chao, đúng thật nè, đây là hoa văn rồng lớn sinh chín con, ở trên xà nhà điện Triều Dương tôi từng thấy nè; còn khúc Côn Luân Thần mẫu hàng phục yêu thú này nữa, ngay trên chái nhà Thiên Điện đêm đầu tiên nhà tôi lên Vạn Thuỷ Thiên Sơn nhai ở này. Này, này là sao nhỉ…”
Mộ Thanh Yến cũng không có manh mối, hỏi lại: “Vừa rồi nàng đang xem gì đến ngẩn ra thế.”
“À, huynh xem này.” Thái Chiêu chỉ vào nhân vật được điêu khắc trên vách đá, “Người này, người kia nữa, tất cả mấy người này hình như mỗi mặt vách đá đều được khắc. Nối kết hình ảnh về bọn họ, như là vẽ một câu chuyện liên tục á.”
Không phải cô nói khoác, từ bé đến giờ cô đã xem thoại bản không một vạn cũng đến chín ngàn, trong đó không ít bản truyện bằng tranh, thể loại phục vụ cho trẻ em phụ nữ không biết chữ.
Mộ Thanh Yến khẽ giật mình, phát hiện đúng thật là thế.
Đã muốn xem chuyện xưa, thế thì phải bắt đầu từ đầu. Hai người chú ý đi vòng quanh, vào chỗ khe hở vách tường sắt, theo hướng mở của quyển trục, bắt đầu từ phải sang trái.
Do vách đá quá cao, Mộ Thanh Yến dùng xích bạc trên cổ tay trái của Thái Chiêu quấn lấy một khối nhô ra trên vách đá, kéo hai người lên cao.
Bản vẽ đầu tiên nhất, là một đứa bé gầy guộc quần áo lam lũ đang dập đầu bái sư. Sư phụ cậu là một vị cao nhân tiên phong đạo cốt, trong nhà có phòng có ruộng, còn có bảy tám nô bộc hầu hạ, sau lưng còn có rất nhiều dị thú quý hiếm nhảy nhót.
Mộ Thanh Yến ồ lên, “Thì ra trên vách đá này khắc chuyện xưa khi Tiên Tổ Mộ Tu Quyết của giáo ta lập giáo phái.”
Thái Chiêu ngạc nhiên nói: “Sao huynh biết.”
“Nàng xem lòng bàn chân trái của đứa bé này xem, có phải có bảy nốt ruồi không.” Mộ Thanh Yến chỉ vào bàn chân trần be bé của đứa bé, “Trong sử sách viết rõ, Tiên tổ Mộ Tu Quyết của giáo phái bẩm sinh có dấu hiệu kì dị, chân đạp thất tinh, là viên tướng mang trọng trách lớn từ trên trời hạ xuống.”
“Thật ư?” Mặt Thái Chiêu đầy kinh ngạc, “Nhưng tổ phổ nhà tôi lại kể, lòng bàn chân của Bắc Thần Lão Tổ cũng có bảy nốt ruồi, là bàn chân đạp thất tinh, sinh ra đã muốn cứu vớt chúng sinh thiên hạ.”
“Nàng đang nói đùa à.” Mộ Thanh Yến khẽ giật mình.
Thái Chiêu đáp trả, “Chuyện tổ tiên cũng đùa được sao!”
Mộ Thanh Yến ngẫm nghĩ, “Vậy thì, có lẽ là đa số những người hai trăm năm trước, lòng bàn chân đều có bảy nốt ruồi.”
Thái Chiêu: …
“Cho nên, trên vách đá này là kể lại chuyện xưa khi Tiên tổ Mộ thị bái sư học nghệ. Chuyện này trong sử sách trái lại chưa từng nhắc đến, chúng ta xem được cũng hay.” Mộ Thanh Yến rất có hứng thú, “A…, thì ra cả nhà của tiên tổ đều qua đời.”
Thái Chiêu thuận theo ánh mắt hắn nhìn sang, thấy trên trán và bên hông đứa bé cột khăn tang, sau lưng túi đồ bay lất phất lộ ra mấy bài vị.
Sau khi cao nhân thu đứa bé làm môn hạ, dốc lòng chỉ điểm cậu ta học võ học văn, rất yêu thương.
Vì để mô tả chi tiết ‘yêu thương’, trên vách đá còn tinh tế miêu tả cảnh nửa đêm cao nhân xách đèn đi trông chừng đứa bé ngủ, hoặc yêu thương đắp chăn cho cậu, nhét bàn chân lộ ra vào trong chăn, hoặc là xem vết thương ban ngày cậu tập võ để lại.
Người thợ đúc đá vô danh này có tay nghề rất tinh xảo, chẳng những dung mạo cử chỉ của đứa bé và cao nhân sinh động như thật, mà mấy nô bộc kia cũng đều không có rảnh rỗi, mỗi người quản việc phần mình, không lẫn vào đâu được.
Lúc đứa bé học văn tập võ, mấy nô bộc kia hoặc canh gác cổng chính, hoặc trông coi lò luyện đan, hoặc sắp xếp xe ngựa nghi trượng, còn có kiểm kê trân bảo trong kho và cầm kéo lớn trong tay cắt tỉa cây cối, một nô bộc sau cùng ăn mặc như đồng nhi thì luôn theo hầu cạnh cao nhân.
Chỗ duy nhất không được hoàn mỹ là, khuôn mặt một lão bộc trong số đó không được khắc miệng, từ mũi trở xuống trống rỗng.
Cứ thế trải qua tầm mười năm, đứa bé lớn lên thành một công tử nhã nhặn văn võ song toàn, đồng thời quen biết rất nhiều bạn thân cùng chung chí hướng, ế, có vẻ như còn có cả một vị cô nương yêu dấu — cao nhân đầy từ ái, vuốt vuốt râu lộ vẻ rất vui.
“Số mệnh Tiên tổ nhà huynh không tệ nhỉ, sư phụ thương ông ấy như thế.” Thái Chiêu buột miệng.
“Ngậm miệng nào, xem tiếp đi.” Mộ Thanh Yến không biết nghĩ tới điều gì, vẻ mặt càng thêm nặng nề.
Quả nhiên, bức vẽ tiếp theo sóng gió chợt nổi.
Từng cụm mây đen lớn cuồn cuộn đến, cuốn theo yêu ma quỷ quái bên trong tàn sát bá tánh khắp nơi, làm hại thiên hạ, trong tích tắc đất cằn nghìn dặm, xương phơi đầy đồng. Cao nhân đạo cốt tiên phong dĩ nhiên dẫn đầu quần hùng thiên hạ hồ hởi chống cự, đệ tử yêu dấu của ông đứng hàng trước nhất, dũng mãnh thiện chiến, không thể địch nổi.
— xem đến đây, trong lòng Thái Chiêu cũng loáng thoáng nảy ra một cảm giác cổ quái.
Nhưng chư ma thế lớn, phía cao nhân bị chết bị thương cực nặng nề.
Từng người bên cạnh Mộ Tu Quyết chết đi, ông lập từng bia mộ, bên dưới từng một bia mộ kia đều là bạn tốt chí giao, đã từng nâng cốc nói cười, đồng sinh cộng tử với ông.
Giữa đám mộ, Mộ Tu Quyết cô đơn chiếc bóng, bóng lưng thê lương.
Cuối cùng, ngay cả cô nương ông yêu cũng chết thảm trong miệng yêu ma.
Mộ Tu Quyết ôm thi thể không trọn vẹn của người yêu thương, mặt đầy thù hận tàn ác âm u, không còn nụ cười ôn hòa cởi mở như xưa.
Sau đó, giữa Mộ Tu Quyết và cao nhân phát sinh tranh chấp kịch liệt, mấy nô bộc đứng sau lưng cao nhân, đều oán giận dị thường, chỉ mỗi vị nô bộc đeo cây kéo lớn tỉa cây hoa bên hông là có ý đồ khuyên giải.
Đương lúc Thái Chiêu hiếu kì hai thầy trò cãi nhau vì chuyện gì, đã thấy ở bức vẽ tiếp theo là một mảng âu lo sau lưng Mộ Tu Quyết, trong từng đám sương đen ẩn hiện là yêu ma từng đàn!
Đến khi cao nhân dẫn đầu hào kiệt còn sót lại trong thiên hạ đối đầu chư ma, Mộ Tu Quyết cũng dẫn một đám yêu ma mặt mũi dữ tợn giết vào trận giúp đỡ, cao nhân vốn đương thua lui về liên tiếp lập tức chuyển bại thành thắng. Nhưng yêu ma dù sao cũng là yêu ma, hành vi khó khống chế, sau khi chư ma bị diệt tận, yêu ma Mộ Tu Quyết dẫn đầu thu thế không xong, cũng sát thương rất nhiều dân chúng vô tội và quần hùng chính đạo.
Cao nhân thấy đệ tử không chịu từ bỏ đám yêu ma bộ hạ làm xằng làm bậy, trong cơn giận dữ, lại mâu thuẫn nặng nề.
Mộ Tu Quyết chịu cơn tức giận rời đi, mà không biết rằng bản thân sư phụ mình đã bị thương nặng, dưới đả kích trong ngoài bệnh không dậy nổi. Cao nhân tự biết còn sống không được bao lâu, thế là phái người ra ngoài tìm Mộ Tu Quyết, nhờ quần hùng chính đạo rải khắp tin tức, hy vọng Mộ Tu Quyết nghe gọi quay về.
Cao nhân chờ rồi lại chờ, mãi không chờ được người đệ tử yêu mến.
Trước khi lâm chung, ông dặn dò vị lão bộc không có miệng kia rất nhiều lời, còn giao cho ông ấy mấy chiếc rương và rất nhiều quyển trục.
Chờ khi Mộ Tu Quyết chạy về, cao nhân đã gần qua đời.
Mộ Tu Quyết hiển nhiên cho rằng những nô bộc và quần hùng chính đạo kia đã cố ý cản trở, khiến mình không được gặp sư phụ một lần cuối, thế là người hai bên hùng hổ đánh một trận, cuối cùng lão bộc giơ cao một phong thư trước khi cao nhân lâm chung viết chạy ra.
Mộ Tu Quyết đọc thư xong, hồn xiêu phách lạc thất thểu rời đi.
Lão bộc cũng đi cùng.
Lão bộc theo Mộ Tu Quyết đi tới một dãy núi mênh mông như biển rộng, bắt đầu xây dựng cung điện, lâu vũ, quan ải, bình phong, và rất nhiều địa đạo.
Cuối cùng, lão bộc cũng không khỏe.
Ông thu hết tàn lực, cho người tìm năm bức vách đá to lớn, điêu khắc không biết ngày đêm.
Ngày năm vách đá khắc xong, là ngày cuối cuộc đời ông.
Bức họa cuối cùng là hồi ức của lão bộc.
Trong hồi ức, vị cao nhân râu còn chưa quá dài, đang dắt Mộ Tu Quyết lúc còn bé ngắm biển, hai thầy trò chân trần giẫm bọt nước, lúc rộ lên cười khuôn mặt giống nhau y hệt.
Trong lúc chạy, cao nhân giở chân trái, lòng bàn chân cũng có bảy nốt ruồi.
Chuyện xưa kết thúc.