Eragon 3 (Brisingr) - Hỏa Kiếm

Chương 19: Quà tặng bằng vàng




Eragon đứng bên Saphira, cách nhà bạt đỏ của Nasuada chừng năm mươi mét, vui mừng thoát khỏi tất cả huyên náo quanh Elva. Mệt mỏi vì những sự kiện trong ngày, nó vươn vai, ngước nhìn bầu trời trong xanh. Saphira định bay tới sông Jiet, đắm mình dưới dòng nước êm đềm, nhưng Eragon lưỡng lự. Nó còn phải đánh bóng áo giáp, chuẩn bị cho đám cưới của Roran và Katrina, tới thăm ông Jeod, tìm một thanh kiếm, và còn… Gãi cằm, nó hỏi Saphira: “Em đi bao lâu?”

“Chừng vài giờ. Em đói rồi. Tắm rửa sạch sẽ xong em sẽ đi bắt vài con nai mập ú mà em đã thấy chúng gặm cỏ bên bờ tây. Tuy nhiên vì Varden săn bắn nhiều quá, chắc em phải bay năm sáu dặm về phía núi Spine mới kiếm được con mồi đáng giá.”

“Đừng đi quá xa, nếu không, em sẽ đụng độ quân triều đình đó”

“Không đâu. Nhưng nếu gặp một nhóm lính lẻ tẻ… ” Ả liếm mép: “… em bụp luôn. Thịt người cũng ngon như thịt nai chứ bộ.”

“Saphira! Không nên làm thế”

“Có lẽ không nên, có lẽ thôi, vì còn tùy vào chuyện chúng có mặc áo giáp hay không. Em rất ghét phải cắn qua lớp kim khí. Nhặt ra từng mảnh thịt, bực mình lắm.”

“Hiểu rồi.”

Nhìn một tiên nữ tóc trắng, cao lớn, Eragon bảo: “Thần tiên sẽ không muốn em đi một mình đâu. Cho một vài vị bay cùng em được không? Nếu không họ sẽ không theo kịp.”

“Hôm nay thì không được. Hôm nay em đi săn một mình.”

Nói xong, nó vỗ cánh bay vút lên. Khi hướng về phía tây, giọng nói vang trong tâm trí Eragon yếu hơn vì khoảng cách: “Khi em trở lại, hai anh em mình sẽ cùng bay, nghe không Eragon”

“Được, chỉ hai anh em mình thôi.”

Sự hớn hở của ả rồng làm Eragon tủm tỉm cười. Nó nhìn theo Saphira vun vút phóng về hướng tây.

Eragon cúi xuống, nhìn Blodhgarm đang chạy tới, mềm dẻo như một con mèo rừng. Ông ta hỏi Saphira đi đâu, và có vẻ không vui khi Eragon giải thích, tuy nhiên không nói ra lời phản đối.

Khi Blodhgarm trở lại cùng các thần tiên kia, Eragon tự nhủ: “Bây giờ là việc đầu tiên cần phải làm.”

Nó chạy qua doanh trại, gặp một nhóm Varden chừng ba mươi người đang tập luyện vũ khí, nhưng vì quá chuyên chú vào buổi tập nên không ai chú ý tới Eragon. Ngồi khom mình, nó đặt ngửa hai bàn tay lên mặt đất, lẩm bẩm mấy câu cổ ngữ cần thiết:

- Kuldr, risa lam iet un malthinae unin bollr.

Mặt đất bên ngoài hai bàn tay không thay đổi, nhưng Eragon cảm thấy câu thần chú của nó đang khảo sát lòng đất hàng trăm mét chung quanh. Không tới năm giây, mặt đất bắt đầu sôi sùng sục – như ấm nước để quá lâu trên lửa lớn – và gom thành một màu vàng rực rỡ. Sư phụ Oromis đã dạy: bất kỳ nơi nào chúng ta đi qua, trong đất cũng có những thành phần cực nhỏ của hầu hết các nguyên tố. Vì chúng quá nhỏ và rải rác, nên không thể khai thác bằng những phương pháp cổ truyền, nhưng một pháp sư tài giỏi – với một nỗ lực lớn – có thể thu được chúng.

Từ giữa đống đất vàng đó, một nguồn bụi lóng lánh phồng lên, tràn vào lòng bàn tay Eragon, hòa nhập vào nhau cho đến khi tạo thành ba quả cầu vàng bằng trái phỉ lớn.

- Letta.

Eragon nói, rồi thu hồi phép thuật. Ngồi lại lên gót chân, cố giữ vững thân hình trên mặt đất, vì một cơn sóng mệt mỏi tràn ngập cơ thể, Eragon cúi đầu, mắt khép hờ, thị giác nhấp nháy lờ mờ. Hít sâu một hơi dài, nó ngắm nghía ba quả cầu bóng láng như gương trên lòng bàn tay, chờ sức khỏe phục hồi. Nó thầm nhủ: “Quá dễ thương. Phải chi mình làm chuyện này trước khi đi khỏi thung lũng Palancar… Lúc đó chuyện khai thác vàng dễ dàng hơn nhiều, vì mình chỉ bị sa sút sức khỏe từ sau khi cõng lão Sloan từ đỉnh Helgrind xuống.”

Bỏ vàng vào túi, Eragon tiếp tục đi qua doanh trại. Tạt vào một lều nhà bếp, nó ăn một bữa no nê, một điều cần thiết sau khi niệm quá nhiều câu thần chú gay go. Sau đó, nó thẳng tiến tới khu dành cho dân làng Carvahall. Đang đi, Eragon nghe tiếng kim khí chan chát va chạm. Tò mò, nó quay sang hướng đó.

Eragon vòng qua ba chiếc xe ngựa đậu ngay đầu một con đường nhỏ, và thấy chú Horst đang đứng trên khoảng trống chừng mười mét giữa hai cái lều. Tay ông cầm một thanh sắt dài chừng mét rưỡi, đầu thanh sắt đỏ rực được đặt trên cái đe đồ sộ, nặng đến gần trăm kí, đóng chặt trên một thân cây rộng và thấp. Đứng hai bên đe là hai người con trai lực lưỡng của ông, Albriech và Baldor, đang vung búa khỏi đầu, thay phiên nhau nện mạnh xuống đầu thanh sắt. Cách mấy mét phía sau là một cái lò rèn dã chiến đang rực lửa.

Tiếng búa đập quá lớn, Eragon phải lùi xa, chờ Albriech và Baldor đập dẹp thanh sắt và ông Horst đặt lại lên lò. Ông vẫy tay gọi Eragon:

- Ê, Eragon.

Ông đưa ngón tay, chặn câu trả lời của nó, rồi rút nút len khỏi tai, nói:

- A, bây giờ thì nghe được rồi. Cháu đến đây làm gì?

Trong khi đó hai con ông đổ thêm than vào lò, thu dọn búa, kẹp, khuôn và những dụng cụ linh tinh khác. Cả ba cha con đều nhễ nhại mồ hôi.

- Cháu tới xem chuyện gì mà rầm rầm thế. Đáng lẽ cháu phải đoán ra là chú. Không người dân làng Carvahall nào có thể gây tiếng động khủng khiếp như gia đình chú.

Ông Horst ngửa bộ râu rậm lên trời ha hả cười khoái trá:

- A, điều đó làm ta rất hãnh diện, thật mà. Cháu không cho đó là niềm hãnh diện nữa hả, Eragon?

- Tất cả chúng ta đều hãnh diện. Chú, cháu, anh Roran, tất cả dân làng Carvahall. Alagaesia sẽ không bao giờ như thế này một khi chúng ta cùng làm việc.

Nó chỉ lò rèn và những dụng cụ khác, hỏi:

- Sao lại là ở đây? Cháu tưởng tất cả lò rèn đều phải…

- Đúng vậy đó, Eragon. Đúng vậy. Tuy nhiên, ta đã thuyết phục viên chỉ huy khu vực này cho ta làm việc gần lều của gia đình. Đó là vì thím Elain, cháu biết rồi đó. Đứa bé này làm bà ấy đuối sức quá. Không hiểu sao mà chúng ta có thể đến nổi đây, bây giờ chú e là… Thôi…

Ông lắc người như con gấu rũ đuổi ruồi:

- Có lẽ, nếu có dịp, cháu nên vào thăm và thử an ủi cho bà ấy khuây khỏa phần nào.

- Cháu sẽ đến mà.

Làu bàu mấy tiếng với vẻ hài lòng, ông Horst nâng thanh sắt khỏi than hồng, quan sát màu sắc. Đặt lại thanh sắt chìm trong lửa, ông hất chòm râu về phía Albriech:

- Này, lại đây. Thêm chút hơi đi. Gần được rồi.

Khi Albrech bắt đầu đạp cái bơm bằng da, ông cười với Eragon:

- Khi bảo với Varden chú là thợ rèn, họ mừng như với được một kỵ sĩ rồng nữa. Họ không đủ thợ kim khí. Cháu thấy đó, họ cho những dụng cụ này, cả cái bễ nữa. Ngày đi khỏi Carvahall, chú đã khóc vì tưởng chẳng bao giờ được trở lại với nghề nữa. Không là một thợ đúc kiếm, nhưng ở đây, hà hà, đủ việc cho chú và hai thằng Albriech, Baldor làm tới năm mươi năm. Lương lậu chẳng là bao, nhưng ít ra không phải căng người trên cái giá treo trong lao tù của Galbatorix…

Baldor tiếp ngay:

- Hay bị Ra’zac nhai rau ráu cả xương.

- Chính thế.

Ra hiệu cho hai con trở lại với hai cây búa tạ, cầm núm bông gòn nhét tai, ông hỏi:

- Cháu muốn hỏi gì nữa không, Eragon?

- Chú biết Gedric ở đâu không?

Ông nhíu đôi mày rậm, chỉ tay nói:

- Gedric hả? Chắc hắn tập gươm, giáo với mọi người, cách đây chừng một phần tư dặm.

Eragon cám ơn, rồi đi theo hướng ông đã chỉ. Tiếng kim khí va chạm vừa trong như tiếng chuông ngân, vừa chói lói nhức tai. Eragon bịt tai, mủm mỉm cười. m thanh đó làm nó thoải mái, vì chú Horst vẫn còn sức làm việc, và dù tài sản cửa nhà bị mất, chú vẫn y hệt như con người của chú ở Carvahall. Không hiểu sao, tính kiên định và mau chóng thích nghi với hoàn cảnh của ông thợ rèn làm Eragon thêm tin tưởng rằng: chỉ cần lật đổ Galbatorix xong, mọi thứ sẽ đều ổn định, rồi đời sống của nó, của dân làng Carvahall sẽ lấy lại dáng vẻ bình thường như xưa.

Eragon tới bãi tập vũ khí mới của dân làng. Đúng như chút Horst nói, Gedric có mặt tại đó, đang tập đấu với Darmen và Morn. Eragon chỉ nói một tiếng, người cựu chiến binh một tay, đang hướng dẫn buổi tập, cho Gedric tạm nghỉ.

Anh thợ thuộc da hấp tấp chạy lại, đứng trước Eragon, mắt nhìn xuống. Khổ người thấp, da ngăm đen, cằm bạnh ra, lông mày rậm rì và hai cánh tay lực lưỡng, vì từng trộn những thùng sấy da. Dù anh ta hơi bị... xí trai, nhưng Eragon biết đây là một con người tốt bụng, thật thà.

Gedric lí nhí nói:

- Tôi giúp gì được đây, thưa Khắc-tinh-của-Tà-thần?

- Anh đã giúp rồi. Tôi tới đây để cám ơn và để trả nợ anh.

- Tôi? Tôi đã giúp Khắc-tinh-của-Tà-thần như thế nào?

Anh ta chậm rãi nói, như sợ bị Eragon gài bẫy.

- Sau khi tôi chạy khỏi làng, anh đã phát hiện có kẻ lấy trộm mấy tấm da bò đang phơi bên thùng sấy, đúng không?

Gedric bối rối, xê dịch hai chân:

- À... Tôi đã quên khóa cửa lều, nên có kẻ lẻn vào lấy mấy tấm da. Biết bao chuyện xảy ra sau đó, tôi thấy chuyện ấy chẳng còn gì quan trọng nữa. Tôi đã phá hủy hết kho, trước khi cùng nhau vào núi Spine, vì không muốn lính triều đình và mấy quái vật Ra'zac ghê tởm đó đụng móng vuốt vào những thứ hữu dụng. Ai lấy mấy tấm da đó là giúp tôi đỡ mất công hủy thêm ba tấm nữa. Thôi, chuyện gì qua rồi cho qua luôn đi.

- Có thể. Nhưng tôi vẫn cảm thấy phải cho anh biết ai đã lấy trộm da của anh.

Gedric thấy ánh mắt Eragon nhìn anh ta thật lạ lùng - không e dè, không sợ hãi và đáng nể trọng.

- Tôi đã lấy trộm mấy tấm da đó. Chẳng hãnh diện gì, nhưng tôi cần chúng. Không có chúng, chắc tôi đã không sống nổi để đến tận xứ sở của thần tiên trong Du Weldenvarden. Tôi luôn luôn muốn tưởng là mình chỉ mượn thôi, nhưng sự thật là đã lấy trộm, vì lúc đó tôi không có ý định sẽ trả lại. Vì vậy xin anh nhận lời xin lỗi của tôi. Và vì tôi vẫn còn giữ chúng, hay một phần của chúng, nên trả nợ anh là một sự công bằng.

Eragon lấy từ thắt lưng ra một quả cầu vàng - tròn, rắn và còn ấm hơi da thịt mình - trao cho Gedric.

Gedric trừng trừng nhìn viên ngọc kim loại sáng ngời, cái hàm to đùng của anh ta nghiến chặt, mấy vết nhăn quanh cặp môi mỏng hằn sâu. Không trách Eragon nâng tay đo lường hay thử cắn quả cầu vàng; nhưng khi mở miệng, anh ta nói:

- Tôi không thể nhận vật này, Eragon. Dù là một thợ thuộc da có tài, nhưng mấy tấm da đó không đáng nhiều thế này. Cậu rất hào phóng, nhưng tôi sẽ áy náy khi nhận số vàng này. Tôi sẽ cảm thấy như đây không phải những gì do mình tạo ra.

Không hề ngạc nhiên, Eragon nói:

- Anh sẽ không từ chối nếu có người trả giá cao chứ, phải không?

- Phải.

- Tốt. Vậy thì đừng từ chối tôi. Đa số người khi mặc cả đều trả giá thấp. Trường hợp này tôi lại trả cao hơn, nhưng tôi vẫn riết ráo như cố hà tiện một nắm tiền. Theo tôi, mấy tấm da này trị giá bằng số vàng đó, và tôi sẽ không trả anh kém một đồng nào đâu, dù anh có dí dao vào cổ tôi.

Mấy ngón tay trùng trục của Gedric nắm lấy quả cầu vàng.

- Vì cậu nài ép, tôi không nỡ từ chối. Chẳng ai có thể trách Gedric Ostvensson để mất một tài sản quí, chỉ vì cố chứng minh là món hàng của hắn vô giá trị. Đa tạ Khắc-tinh-của-Tà-thần.

Gói quả cầu vàng trong một miếng vải len để tránh trầy xước, anh ta bỏ vào một cái túi đeo bên hông, rồi nói:

- Ông Garrow đã hành động đúng vì cậu. Cả hai anh em, cậu và Roran. Có thể ông gay gắt, cứng rắn; nhưng ông đã nuôi dưỡng anh em cậu rất tốt. Tôi nghĩ, ông rất hãnh diện vì cậu.

Một niềm cảm xúc bất ngờ thắt chặt lồng ngực Eragon.

Trước khi trở lại với dân làng, Gedric nói:

- Tôi xin phép hỏi, Eragon, vì sao mấy tấm da đó đối với cậu lại quí giá thế? Cậu đã dùng làm gì?

- Dùng làm gì? Ông Brom đã giúp tôi làm bộ yên cho Saphira. Nó không thường sử dụng - nhất là từ khi thần tiên cho chúng tôi bộ yên rồng đàng hoàng - nhưng bộ yên bằng mấy tấm da của anh đã giúp chúng tôi qua nhiều cuộc đánh, kể cả trong trận Farthen Dur.

Gedric kinh ngạc nhướng mày. Như một vết nứt trên mặt đá hoa cương, cái miệng nở một nụ cười toang hoác làm thay đổi diện mạo anh ta:

- Bộ yên! Tôi? Tôi thuộc da cho bộ yên của một kỵ sĩ rồng! Không. Không là một Kỵ sĩ mà là Kỵ-sĩ. Người sẽ hạ bệ bạo chúa độc tài. Ôi, phải chi cha tôi thấy tôi lúc này.

Đá gót vào nhau, Gedric nhảy một điệu vui nhộn ngẫu hứng, vẫn toe toét cười, anh ta cúi chào Eragon, rồi chạy vội về với dân làng, kể lại câu chuyện về mấy tấm da thuộc của anh.

Eragon lẳng lặng chuồn trước khi đám người đó tràn ngập quanh nó. Vừa đi qua giữa những căn lều, Eragon vừa nghĩ: "Dù mất một thời gian, nhưng mình đã trả xong món nợ"

Một lúc lâu sau, nó tới căn lều nằm gần bờ đông doanh trại, gõ lên cây cọc giữa hai vạt cửa lều.

Với một tiếng soạt mạnh, cửa lều mở ra. Helen, vợ ông Jeod, lạnh lùng nhìn nó hỏi:

- Cậu đến nói chuyện với ông ấy hả?

- Dạ. Nếu ông có nhà.

Tuy hỏi vậy, nhưng nó biết chắc Jeod đang ở trong lều, vì nhận thức được tư tưởng của ông ta rõ ràng như của Helen.

Trong một lúc, Eragon tưởng Helen sẽ bảo chồng bà ta đi vắng, nhưng bà ta chỉ nhún vai, rồi đứng tránh sang một bên, nói:

- Vậy thì vào đi.

Ông Jeod đang ngồi trên một cái ghế đẩu, nghiền ngẫm mấy cuốn da thuộc, những cuốn sách và những tờ giấy rời chất đống trên một cái giường nhỏ không trải nệm. Mái tóc thưa thớt phất phơ trên cái thẹo chạy dài từ đầu xuống thái dương.

Thấy Eragon, ông kêu lên, những vết nhăn tập trung thoải mái dãn ra:

- Eragon! Mừng cháu! Mừng gặp cháu!

Ông bắt tay nó rồi mời ngồi lên cái ghế đẩu:

- Đây, ta ngồi ghé lên giường được rồi. Không, ngồi đi, cháu là khách mà. Ăn uống một chút gì nhé? Nasuada cho chúng ta khẩu phần phụ trội. Đừng sợ chúng ta đói vì có thêm cháu. Kham khổ hơn những gì chúng ta đãi cháu ở thành Teirm, nhưng ra trận có ai lại mong được ăn ngon, thậm chí kể cả một ông vua cũng thế thôi, đúng không?

- Một tách trà là được rồi ạ.

Ông nhìn Helen nói:

Trà và mấy cái bánh qui.

Helen chộp một cái ấm từ dưới đất, rồi giữ bên hông, đặt núm túi đựng nước bằng da vào vòi ấm, và bóp túi nước. Tiếng nước vang lên trong lòng ấm. Helen xiết cổ túi nước, để nước chỉ còn chảy nhỏ giọt. Bà ta vừa giữ tay như thế, vừa lạnh nhạt nhìn kẻ đã gây ra những khó khăn này.

Ông Jeod thoáng cười ngại ngùng, lom lom nhìn chồng giấy bên đùi, chờ Helen xong việc. Eragon chăm chú nhìn nếp nhăn trên một vách lều.

Tiếng nước tí tách kéo dài hơn ba phút.

Sau cùng ấm nước cũng đầy. Helen treo túi nước lên cây cột giữa lều, hầm hầm bước ra ngoài. Eragon nhướng một bên mày, nhìn ông Jeod.

Ông xòe hai bàn tay:

- Địa vị ta trong Varden không quan trọng như Helen hy vọng. Helen đồng ý chạy khỏi thành Teirm với ta, là vì hy vọng, đúng ra là tin rằng: Nasuada sẽ đặt ta vào địa vị một trong những cố vấn của cô ta, hoặc ban cho ta đất đai tiền bạc như một trang chủ, hoặc một phần thưởng hậu hĩ cho công lao ta đã giúp lấy trộm trứng Saphira từ nhiều năm trước. Điều Helen không ngờ tới là một cuộc sống nhạt nhẽo của một kiếm sĩ tầm thường: ngủ trong lều, tự nấu nướng, tự giặt quần áo, và... vân vân... Bà ấy hình như chỉ quan tâm tới địa vị và giàu sang, nhưng cháu nên hiểu rằng, Helen sinh ra trong một gia đình chuyên vận chuyển hàng hóa bằng tàu thuyền, giàu có nhất tại thành Teirm, và gần như suốt thời gian sống chung, ta đã không thành công trong việc kinh doanh. Bà ấy không quen với những sự túng thiếu như thế này, nên chưa thể thích nghi được. Hy vọng duy nhất của ta trong chuyến phiêu lưu này là, thu hẹp những rạn nứt, bất hòa giữa hai chúng ta những năm gần đây. Nhưng điều đó dường như không đơn giản.

- Ông có cảm thấy là Varden phải quan tâm tới ông nhiều hơn không?

- Riêng ta, ta không nghĩ đến điều đó. Còn Helen...

Ông ngập ngừng rồi tiếp:

- Ta muốn bà ấy hạnh phúc. Còn ta, phần thưởng là khi ta và Brom bị Morzan, con rồng của nó và đám bộ hạ tấn công, nhưng đã sống sót đào thoát khỏi Gil'ead; là khi hài lòng vì đã giúp một cuộc tấn công bất ngờ chống lại Galbatorix; là đã có thể trở lại với đời sống trước kia mà vẫn giúp được Varden, và cưới Helen. Đó là những phần thưởng của ta, ta không đòi hỏi gì hơn nữa. Bao nghi ngờ đều tan biến khi ta thấy Saphira bay khỏi làn khói trên Cánh Đồng Cháy. Tuy nhiên, ta không biết phải làm sao với Helen. Ôi, ta lẩm cẩm rồi, đây không là những vấn đề rắc rối bắt cháu phải nghe.

Gõ ngón tay lên một cuộn giấy, Eragon hỏi:

- Sao quá nhiều giấy tờ thế này? Ông trở thành người ghi chép sao?

Câu hỏi làm ông Jeod phấn khởi hẳn lên:

- Không đâu. Nhưng cũng mệt mỏi lắm. Vì ta là người đã phát hiện ra đường tắt bí mật vào lâu đài của Galbatorix ở Uru'bean, và ta đã mang theo mấy cuốn sách hiếm hoi từ Teirm tới đây, nên Nasuada yêu cầu ta tìm kiếm những điểm yếu tương tự trong những thành phố khác của đế quốc. Nếu tìm ra vài địa đạo dẫn qua dưới chân tường Dras Leona chẳng hạn, chúng ta sẽ bớt phải đổ máu rất nhiều.

- Ông đang tìm kiếm từ đâu?

- Từ tất cả những gì có thể. Lịch sử, truyền thuyết, thần thoại, thơ ca, những hệ thống tổ chức tín ngưỡng, những trang viết về kỵ sĩ, pháp sư, du mục, người điên, những kẻ thống trị, những tướng quân, bất cứ ai có thể biết về một cánh cửa bí mật, hay một hệ thống bí mật, hoặc bất kỳ điều gì có lợi cho chúng ta. Số tài liệu ta phải nghiên cứu thật bao la, vì tất cả những thành phồ này đã tồn tại hàng mấy trăm năm, một số đã hiện diện từ trước khi con người tới Alagäesia.

- Dường như ông sẽ thật sự tìm ra một điều gì đó.

- Không có chuyện dường như. Không bao giờ dường như đem lại thành công trong việc truy tìm ra những bí ẩn của quá khứ. Nhưng nếu có đủ thời gian, rất có thể ta sẽ vượt qua. Ta tin rằng, những gì tồn tại trong mỗi thành phố mà ta đang tìm kiếm sẽ không còn giữ mãi được bí mật những lối ra vào, vì chúng đã quá lâu đời. Tuy nhiên vấn đề hoàn toàn đặt trên cơ sở là: không biết hồ sơ của những con đường đó còn tồn tại không và không biết chúng ta có sở hữu những hồ sơ đó không. Những người biết các cửa sập bí mật đó đều muốn giữ riêng thông tin cho họ.

Jeod cầm một nắm giấy trên giường đưa sát mặt rồi khịt khịt mũi, quăng đi:

- Ta đang cố giải mã những câu bí hiểm do những người không muốn bí mật này được khám phá ra sáng tác.

Ông và Eragon tiếp tục chuyện trò về những vấn đề kém quan trọng hơn, cho tới khi bà Helen xuất hiện lại với ba cốc trà cỏ ba lá đỏ, nghi ngút khói. Eragon đón cốc trà, nhận thấy bà ta đã có vẻ bớt giận dữ, nó tự hỏi, chẳng biết bà ta có đứng ngoài nghe những gì ông Jeod đã nói về bà ta không. Bà ta trao cốc tra cho ông Jeod, rồi từ sau Eragon, bà ta đem ra một khay bánh qui và một bình nhỏ mật ong. Sau đó, Helen lùi lại, đứng dựa cây cột giữa lều, thổi cốc trà của mình.

Chờ Eragon cầm lên cái bánh và cắn một miếng, ông Jeod mới lên tiếng:

- Chuyện gì làm ta ngồi với cháu được vui vẻ thế này, Eragon? Nếu ta không lầm, thì đây không phải là cuộc thăm viếng rảnh rỗi.

Eragon nhấp ngụm trà:

- Sau trận chiến trên Cánh Đồng Cháy, cháu đã hứa sẽ kể với ông về cái chết của ông Brom. Đó là lý do cháu tới đây.

Hai má tái mét, Jeod kêu lên:

- Ô!

Eragon vội nói:

- Nếu ông không muốn, cháu sẽ không kể.

- Ta rất muốn nghe. Chỉ là hơi bất ngờ thôi.

Thấy ông không yêu cầu Helen ra ngoài, Eragon ngập ngừng không biết có nên tiếp tục hay không, nhưng rồi nó quyết định, Helen hay bất kì ai nghe chuyện này cũng không là vấn đề quan trọng nữa. Nó bắt đầu kể lại những chuyện xảy ra từ khi nó và ông Brom ra khỏi nhà Jeod. Từ vụ đụng độ một nhóm Urgal, việc truy lùng Ra'zac trong Dras-Leona, chuyện bị Ra'zac phục kích bên ngoài thành phố như thế nào, và khi chúng bị Murtagh tấn công, trước khi bỏ chạy, chúng đã chém ông Brom ra sao.

Cổ họng Eragon thắt lại, khi nó nói về những giờ cuối cùng của ông Brom, về hang động sa thạch lạnh lẽo, là nơi ông nằm; cảm giác tuyệt vọng khủng khiếp khi nó nhìn ông lịm dần; về cái mùi tử thần tràn ngập trong không khí; về lời trối trăn của ông; về ngôi mộ sa thạch nó đã tạo ra bằng phép thuật, và về chuyện Saphira đã biến ngôi mộ thành kim cương như thế nào.

Sau cùng nó nói:

- Phải chi cháu biết được những gì bây giờ được biết, thì lúc đó cháu đã cứu được ông. Thay vì...

Không thể thốt nổi nên lời, nó dụi mắt, uống ực hết tách trà, ước sao là một ly rượu nặng.

Ông Jeod thở dài:

- Vậy là Brom đã ra đi. Hỡi ôi! Không có anh ấy, tất cả chúng ta đều khốn khổ. Tuy nhiên ta nghĩ, nếu có thể chọn một cách chết, anh ấy sẽ chọn chết như thế. Phục vụ Varden và bảo vệ cho Kỵ-sĩ Rồng tự do cuối cùng.

- Ông có biết chính ông Brom cũng là một kỵ sĩ không?

- Varden đã cho ta biết trước khi ta gặp anh ấy.

Helen lên tiếng:

- Ông ta là người rất ít tiết lộ về bản thân.

Jeod và Eragon phì cười. Ông nói:

- Anh ấy là vậy. Ta vẫn chưa hết bàng hoàng khi nhìn thấy cháu và Brom đứng trước cửa nhà. Brom luôn là người bảo thủ, nhưng chúng ta đã trở thành bạn thân khi cùng nhau du hành, vì vậy ta không thể hiểu nổi vì sao anh ta lại để ta tin là anh ta đã chết trong suốt mười sáu, mười bảy năm trời. Một thời gian dài đằng đẵng. Còn nữa, vì chính Brom đã chuyển trứng của Saphira cho Varden, sau khi giết Morzan trong Gil'ead, Varden càng không thể cho ta biết là họ có cái trứng đó, mà không tiết lộ chuyện Brom còn sống. Vì vậy gần hai thập kỷ, ta đã tin rằng cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất đời ta đã kết thúc, do đó, chúng ta cũng mất luôn hy vọng có được một kỵ sĩ rồng, để giúp lật đổ Galbatorix. Đó là gánh nặng phiền muộn không dễ dàng gì...

Đưa bàn tay lên dụi trán, Jeod tiếp:

- Khi mở cửa và nhận ra ai đang đứng đó nhìn ta, ta tưởng đó là những bóng ma hiện về từ quá khứ ám ảnh. Brom bảo, phải ẩn mình là để giữ mạng sống, để còn huấn luyện cho kỵ sĩ mới, khi anh ta hay cô ta xuất hiện. Nhưng lời giải thích của Brom không hoàn toàn làm ta thỏa mãn. Vì sao phải cắt đứt liên lạc với hầu hết mọi người thân thiết chứ? Sợ gì? Bảo vệ điều gì?

Vuốt ve cốc trà, Jeod nói:

- Không thể chứng minh, nhưng ta đoán Brom đã khám phá ra điều gì đó trong Gil'ead, khi chiến đấu với Morzan và con rồng của hắn, một điều tối ư quan trọng đã làm Brom từ bỏ tất cả những gì anh ấy ấp ủ trong đời cho đến lúc đó. Thú thật, đó là một phỏng đoán mơ hồ, nhưng ta không thể giải thích được hành động của Brom, trừ phi phải thừa nhận là có một thông tin mà Brom không bao giờ chia sẻ với bất kỳ ai.

Jeod lại thở dài, vuốt mặt:

- Sau quá nhiều năm xa cách, ta đã hy vọng sẽ cùng nhau rong ruổi trên mình ngựa một lần nữa với Brom, nhưng hình như định mệnh không đồng ý với ta. Thế rồi chỉ sau vài tuần biết Brom còn sống, ta lại mất anh ấy lần thứ hai. Thật là một trò đùa tàn nhẫn của cuộc đời.

Bước qua Eragon, Helen đến bên ông Jeod, vuốt vai ông. Ông nở nụ cười yếu ớt, rồi choàng tay ôm vòng eo thanh mảnh của bà, nói với Eragon:

- Ta vui mừng là cháu và Saphira đã cho Brom một nấm mồ mà thậm chí một ông vua lùn cũng phải ganh tỵ. Với tất cả những gì anh ấy đã làm cho Alageasia, Brom xứng đáng được như vậy. Tuy nhiên điều đó làm ta lo ngại nhất, là khi có người phát hiện ra ngôi mộ đó, chúng sẽ không ngần ngại đập phá để lấy kim cương.

- Nếu làm thế, chúng sẽ phải ân hận.

Eragon lẩm bẩm. Nó quyết định trở lại đó ngay khi có cơ hội sớm nhất, để phủ một lớp phép thuật bảo vệ ngôi mộ ông Brom khỏi những tên trộm cắp.

- Ngoài ra, chúng sẽ quá bận rộn săn lùng những bông huệ bằng vàng, không còn thì giờ quấy rầy ông Brom đâu.

- Cái gì?

- Không có gì. Chuyện đó không quan trọng đâu ạ.

Ba người lặng lẽ uống trà. Khi bà Helen đang cắn miếng bánh, Eragon hỏi Jeod:

- Ông đã gặp Morzan, phải không?

- Trong những trường hợp chẳng thân thiện gì, nhưng đúng, ta đã gặp hắn.

- Tính khí... ông ta như thế nào?

- Như nói về một con người hả? Thật sự ta chẳng biết nói sao, dù đã rất quen với những chuyện tàn ác của hắn. Mỗi lần ta và Brom có chuyện bất đồng với hắn, hắn đều cố giết bằng được chúng ta. Trò hắn thích hơn, là bắt được chúng ta, tra khảo rồi mới giết. Chẳng trò nào của hắn tỏ ra thân thiện cả. Còn với địa vị một chiến binh, hắn khủng khiếp lắm. Chúng ta luôn phải né tránh hắn. Ta không thể nào quên Morzan và con rồng của hắn. Không gì ghê sợ bằng bị một con rồng điên cuồng rượt đuổi.

- Trông ông ta ra sao?

- Cháu có vẻ quan tâm khác thường tới hắn đấy.

Eragon chớp mắt:

- Cháu chỉ tò mò. Vì Morzan là phản đồ chết sau cùng, và bị chính ông Brom giết. Bây giờ con trai của Morzan lại là kẻ thù không đội trời chung của cháu.

- Để ta nhớ coi. Hắn cao lớn, vai rộng, tóc đen như lông quạ, hai mắt khác màu - một bên xanh lơ, một bên đen, cằm nhẵn nhụi, mất một lóng tay nhưng ta không nhớ là ngón nào. Hắn đẹp trai, thái độ kiêu căng, và khi hắn nói, hắn có một sức quyến rũ đến lạ kỳ. Áo giáp luôn luôn sáng bóng, dường như hắn không sợ kẻ thù phát hiện. Khi hắn cười, nghe như hắn đang bị đau đớn vậy.

- Còn... người đàn bà tên là Selena, sống với ông ta? Ông gặp không?

Jeod cười lớn:

- Nếu gặp thì hôm nay ta đã không ngồi đây. Morzan có thể là một kiếm khách đáng sợ, một pháp sư ghê gớm, một tên phản bội giết người, nhưng chính mụ đàn bà đó mới là kẻ gây kinh hoàng nhất cho mọi người. Morzan chỉ sử dụng ả trong những công tác vụng trộm, ghê tởm, khó khăn mà không kẻ nào khác đồng ý nhận làm. Ả làm Bàn Tay Đen của hắn. Ả có mặt ở đâu là tín hiệu sắp có chết chóc, tra khảo, lọc lừa hay những chuyện kinh khủng khác.

Eragon muốn phát bệnh khi nghe tả về mẹ nó.

- Ả vô cùng tàn nhẫn, không hề biết thương xót, từ tâm là gì. Nghe nói, khi ả xin phục vụ Morzan, hắn đã thử bằng cách dạy ả câu thần chú hóa giải, rồi tung ả vào đấu với mười hai cao thủ tài năng nhất của hắn.

- Làm sao... bà ta hạ chúng được?

- Ả hóa giải hết những lo sợ, căm hờn và tất cả những gì thúc đẩy một con người chém giết khỏi chúng. Thế rồi, trong khi chúng ngẩn ngơ đứng nhìn nhau cười cười như bầy cừu đần độn, ả tiến lên, cắt họng chúng... Cháu khỏe không, Eragon? Trông cháu nhợt nhạt như một xác chết vậy.

- Cháu khỏe. Ông còn nhớ điều gì khác nữa không?

Jeod gõ thành cốc:

- Một điều đáng chú ý về Selena, ả là một ẩn số. Thậm chí những kẻ thân cận quanh Morzan chỉ mới biết tên ả trước khi Morzan chết vài tháng. Đối với bên ngoài, ả chỉ được biết đến với cái tên Bàn Tay Đen - thu thập những tên gián điệp, sát nhân, pháp sư sẵn sàng thi hành những mưu ma chước quỉ thấp hèn của lão - để phục vụ lão, như Selena đã từng làm cho Morzan. Ngay trong lực lượng Varden, chỉ một số ít người biết tên ả, nhưng hầu hết những người đó đã tan rữa dưới đáy mộ rồi. Ta nhớ lại, chính Brom là người khám phá ra nhân thân thật của Selena. Trước khi ta tới Varden để báo cho họ thông tin liên quan đến đường tắt bí mật vào lâu đài Ilirea - lâu đài do thần tiên dựng lên từ cả ngàn năm trước - Brom đã bỏ ra một thời gian dài để do thám khu vực của Morzan, với hy vọng khám phá những điểm yếu bí mật của hắn... Ta tin là Brom đã ngụy trang thành một nhân viên trong bộ chỉ huy của Morzan để xâm nhập vào nơi làm việc của hắn, nên mới phát hiện những gì Morzan đã làm với Selena. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không hiểu vì sao ả quá gắn bó với hắn như vậy. Có thể ả yêu hắn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ả luôn tỏ ra trung thành, dù có phải chết vì Morzan, tin đồn tới Varden là ả đã chết vì bệnh tật. Cứ như một con ó thuần dưỡng quá thương yêu chủ, không còn hắn ả không sống nổi.

Eragon thầm nhủ: "Bà không tuyệt đối trung thành đâu. Bà đã bất tuân lệnh Morzan khi có thai mình. Phải chi bà cũng giải thoát được Murtagh". Dù Jeod kết tội những việc làm sai trái của bà, Eragon vẫn muốn tin, chính Morzan đã đưa đẩy Selena khỏi bản chất tốt lành của bà. Nó không thể chấp nhận cả cha lẫn mẹ đều là những kẻ độc ác.

Lom lom nhìn cặn trà trong đáy cốc, Eragon nói:

- Bà ấy yêu hắn. Có thể sau này không tha thiết lắm, nhưng lúc đầu bà ấy đã yêu thật. Vì Murtagh là con trai của bà.

Jeod nhướng mày hỏi:

- Thật vậy sao? Chính miệng Murtagh nói với cháu?

Eragon gật. Ông nói tiếp:

- A, điều đó giải thích một số điều ta vẫn thắc mắc... Mẹ của Murtagh... Ta lấy làm lạ, vì sao Brom không tiết lộ chi tiết bí mật đặc biệt này.

- Morzan làm mọi cách để che giấu sự tồn tại của Murtagh, kể cả với những thành viên trong nhóm phản đồ.

Cả ba lại yên lặng. Eragon lại chăm chú nhìn cốc trà. Hàng loạt thắc mắc hành hạ nó, nhưng nó biết ông Jeod - và hình như bất cứ ai - cũng không thể trả lời: Vì sao ông Brom trốn tránh trong làng Carvahall? Trông chừng Eragon, con trai của kẻ ông thâm thù nhất? Việc cho nó thanh Zar'roc, thanh kiếm của cha nó, có là một trò đùa tàn nhẫn không? Vì sao ông Brom không cho nó biết về nguồn gốc thật của nó?

Không cố ý, Eragon xiết chặt nắm tay làm cái cốc sành vỡ tan tành.

Cả ba người đều giật mình vì tiếng động bất ngờ.

- Để ta giúp.

Vừa nói bà Helen vừa thấm nước trên áo Eragon bằng miếng giẻ. Nó rối rít luôn miệng xin lỗi. Hai ông bà bảo không sao, chuyện nhỏ thôi, đừng ngại.

Trong khi Helen thu nhặt những mảnh sành, Jeod bắt đầu lục lọi đống sách và giấy tờ trên giường, nói:

- A... ta suýt quên. Eragon, có một thứ ta nghĩ rất có ích cho cháu. Nhưng không biết để đâu rồi...

Mừng rỡ reo lên một tiếng, ông rút một quyển sách, đưa cho Eragon.

Đó là cuốn Domia abr Wyrda - Điều quan trọng nhất của định mệnh, một cuốn sử ký toàn thư của Alagaesia, do Heslant Tu-sĩ viết. Eragon đã thấy cuốn sách này trong thư viện của ông Jeod tại thành Teirm. Nó không ngờ lại được nghiên cứu quyển sách này lần nữa. Tận hưởng cảm giác thích thú, nó vuốt ve bìa da bóng láng vì thời gian, rồi mở sách say mê ngắm nghía những hàng chữ cổ được viết bằng mực đỏ sáng bóng. Bàng hoàng vì kho kiến thức đang cầm trong tay, Eragon hỏi:

- Ông muốn cháu giữ quyển sách này?

- Đúng vậy.

Tránh chỗ cho bà Helen nhặt một mảnh sành dưới gầm giường, ông nói tiếp:

- Ta nghĩ quyển sách đó sẽ giúp ích cho cháu. Eragon, cháu đang quan tâm tới những sự kiện lịch sử, mà nguồn gốc những khó khăn cháu gặp đều nằm trong những gì xảy ra từ nhiều thập kỷ, nhiều thế kỷ, thậm chí nhiều thiên niên kỷ trước. Nếu là cháu, mỗi khi có cơ hội, ta sẽ nghiên cứu những bài học trong lịch sử, vì nó sẽ giúp cháu giải quyết những vấn đề của hôm nay. Đời ta, nhờ đọc hồ sơ của quá khứ mà ta có can đảm và sáng suốt chọn ra con đường đúng cho mình.

Dù mê tít, nhưng Eragon vẫn còn lưỡng lự:

- Ông Brom bảo, Domia abr Wyrda là thứ quý giá nhất trong nhà ông. Và nó lại rất hiếm nữa... Ngoài ra, còn công việc của ông? Ông không cần giữ để nghiên cứu sao?

- Domia abr Wyrda hiếm và quý thật, nhưng chỉ là trong đế quốc thôi, vì Galbatorix tìm được quyển nào là đem đốt và treo cổ ngay chủ nhân của chúng. Còn tại doanh trại này, các quan trong triều vua Orrin ép ta giữ đến sáu bản rồi, vả lại nơi này khó có thể gọi là một trung tâm nghiên cứu được. Và vì quyển sách này hữu ích cho cháu hơn ta. Sách nên đến nơi người ta cần đến nó, không phải để bụi bám, lãng quên trên kệ. Cháu đồng ý chứ?

- Cháu đồng ý.

Gấp sách, Eragon vuốt ve những hoa văn khắc trên lớp bìa da:

- Cám ơn ông. Cháu sẽ trân trọng giữ gìn nó cho đến khi nào nó còn thuộc về cháu.

Vẻ hài lòng, ông Jeod ngả người lên vách lều. Eragon chăm chú nhìn những chữ trên gáy sách, hỏi:

- Tu sĩ Heslant thuộc đạo gì?

- Một giáo phái nhỏ, tên là Arcaena, bắt nguồn từ vùng Kuasta. Dòng tu của họ đã tồn tại ít nhất là năm trăm năm. Họ tin rằng tất cả kiến thức đều linh thiêng.

Mặt ông thoáng nụ cười bí ẩn:

- Họ tự nguyện thu thập từng mẩu thông tin trên thế giới, gìn giữ khỏi một thời đại mà họ tin là một thảm họa sẽ hủy hoại toàn bộ nền văn minh của Alageäsia.

- Đạo này có vẻ kỳ lạ quá.

- Có đạo nào không kỳ lạ đối với những người không ở trong đạo đó đâu?

- À, cháu cũng có một món quà tặng ông, chính xác hơn là ông và bà Helen.

Helen ngửa đầu, nhăn mặt khôi hài. Eragon hỏi:

- Gia đình bà là một nhà buôn phải không ạ?

Helen hất cằm xác nhận. Eragon hỏi tiếp:

- Bà có thông thạo việc buôn bán không?

Hai mắt long lanh sáng, Helen bảo:

- Nếu không lấy ông ấy, thì khi cha ta chết, ta đã cai quản việc làm ăn của gia đình rồi. Vì là con một, nên ta được cha truyền nghề từ nhỏ.

Đó chính là điều Eragon hy vọng. Quay qua Jeod, nó hỏi:

- Ông khẳng định hài lòng hoàn cảnh hiện nay với Varden?

- Đúng thế. Gần như hoàn toàn hài lòng.

- Cháu hiểu. Tuy nhiên, ông đã hy sinh quá nhiều để giúp ông Brom và cháu, thậm chí ông còn mạo hiểm hơn nữa để giúp anh Roran và dân làng...

- Đám hải tặc Palancar.

Eragon phì cười, tiếp:

- Không có sự giúp đỡ của ông, chắc chắn họ đã bị quân triều đình bắt. Và vì hành động phản loạn đó, ông bà đã mất tất cả những gì quí giá tại Teirm.

- Dù sao chúng ta cũng sẽ mất tất cả. Ta bị phá sản và cặp sinh đôi sẽ trao cho ta triều đình. Chuyện tổng trấn Risthart bắt ta chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.

- Có thể là như vậy, nhưng trong hoàn cảnh đó ông vẫn giúp Roran. Nếu lúc đó ông chỉ lo bảo vệ cho cái đầu của mình, ai có thể trách ông được chứ? Sự thật là ông đã bỏ cuộc sống ở Teirm, để cùng Roran và dân làng cướp tàu Cánh Rồng. Vì sự hy sinh đó, cháu luôn nhớ ơn ông. Và đây là một phần tỏ lòng biết ơn của cháu...

Luồn tay vào thắt lưng, Eragon lấy ra một trong hai quả cầu vàng còn lại, trao cho bà Helen. Bà nhẹ đong đưa bàn tay, như quả cầu là một con họa mi non. Ông Jeod vươn cổ sang nhìn, trong khi Helen ngắm quả cầu với vẻ đầy kinh ngạc. Eragon lên tiếng:

- Số vàng này chẳng là bao, nhưng với sự khôn ngoan, ông bà có thể làm cho nó sinh sôi. Những gì Nasuada đã làm với những dải đai áo dạy cháu một điều: Trong chiến tranh, người ta vẫn có cơ hội làm giàu.

Helen thở phào:

- Đúng vậy. Chiến tranh là niềm vui cho nhà buôn.

- Trong bữa ăn tối qua, Nasuada có cho cháu biết, người lùn đang thiếu hụt rượu mật ong. Ông bà tin nổi không? Họ có khả năng mua bao nhiêu thùng cũng được, với giá gấp ngàn lần trước chiến tranh. Nhưng đó chỉ là một lời đề nghị thôi. Ông bà có thể tìm những người khác trả giá cao hơn.

Eragon loạng choạng lùi lại, vì bị bà Helen nhào tới ôm lấy nó. Tóc bà làm cằm nó ngột nhạt. Helen ngượng ngùng buông nó ra, nhưng rồi bà lại hí hớn đưa quả cầu lên trước mũi, nói:

- Cám ơn Eragon. Ôi! Cám ơn nhiều lắm. Ta biết phải làm gì với số vàng này. Ta biết là mình có thể. Ta sẽ xây dựng một tập đoàn thương mại lớn hơn cả của cha ta. Các người có tin là tham vọng của tôi còn vượt xa hơn khả năng mình không? Ta sẽ làm như đã nói. Không bao giờ thất bại nổi đâu.

Eragon cúi đầu nói:

- Cháu rất hy vọng ông bà thành công và sự thành công của ông bà là lợi ích của tất cả chúng ta.

Gân cổ phồng lên, khi Helen nghiêng mình nói:

- Khắc-tinh-của-Tà-thần hào phóng quá. Một lần nữa xin đa tạ.

Ông Jeod đứng dậy:

- Cám ơn cháu. Ta nghĩ là chúng ta không xứng đáng...

Làm lơ cái nhìn giận dữ của Helen, ông tiếp:

-... nhưng dù sao ta vẫn vui lòng nhận.

Không định trước, Eragon bật nói:

- Không chỉ có quà của cháu. Saphira đã đồng ý mời ông bà bay vài giờ khi nào ông bà rảnh rỗi.

Nó biết Saphira sẽ rất bực tức vì không được hỏi ý trước vụ này. Nhưng sau khi tặng quà cho Helen, Eragon cảm thấy áy náy vì không có gì tương xứng để tặng ông Jeod.

Mắt nhòa lệ, ông Jeod nắm tay nó, vừa lắc mạnh vừa nói:

- Ta không thể tưởng tượng được vinh dự to lớn thế. Cháu không biết là đã làm chúng ta sung sướng ngần nào đâu.

Gỡ khỏi nắm tay của ông, Eragon lùi dần tới cửa lều, nói lời xin lỗi phải chia tay. Cuối cùng, sau hàng loạt câu cám ơn và "không có chi", nó mới bước được ra ngoài.

Nó hớn hở nhủ thầm: "Mình sỡ hữu riêng một quyển sách."

Ôm sách sát ngực, nó bắt đầu chạy. Blodhgarm và các thần tiên theo sát phía sau.