Đường Đến Đám Cưới (On The Way To The Wedding)

Chương 1




London, không xa đường St’ George, Quảng trường Hanover mùa hè, 1827.

Phổi anh bốc cháy.

Gregory Bridgerton đang chạy. Băng qua những con đường ở London, không quan tâm đến những cái nhìn tò mò của người đi đường, anh vẫn đang chạy.

Một nhịp điệu kỳ lạ, mạnh mẽ trong những chuyển động cùa anh - một hai ba bốn, một hai ba bốn - đẩy anh đi về phía trước trong khi toàn bộ tâm trí anh chỉ tập trung vào một điều và chỉ một điều duy nhất.

Nhà thờ.

Anh phải đến nhà thờ.

Anh phải dừng đám cưới lại.

Anh đã chạy được bao lâu rồi? Một phút? Năm phút? Anh chẳng thể biết được, mà cũng không thể nào tập trung được vào cái gì khác ngoài đích đến của anh.

Nhà thờ. Anh phải đến nhà thờ.

Nó hẳn đã bắt đầu lúc mười một giờ. Điều này. Sự kiện này. Điều này lẽ ra không bao giờ nên xảy ra. Nhưng dù sao thì cô ấy cũng vẫn đã tiến hành rồi. Và anh phải dừng nó lại. Anh phải dừng cô lại. Anh không biết làm thế nào, và anh chắc chắn là không biết tại sao, nhưng cố ấy đang làm điều đó, và nó là sai trái.

Cô ấy phải biết rằng điều đó là sai trái.

Cô ấy là của anh. Họ thuộc về nhau. Và cô ấy biết điều đó. Chết tiệt, cô ấy biết điều đó.

Đám cưới đã diễn ra bao lâu rồi? Năm phút? Mười phút? Hai mươi? Anh chẳng bao giờ quan tâm đến trước đây, và chắc chắc là chưa bao giờ nghĩ đến việc kiểm tra đồng hồ xem khi nào thì nó bắt đầu và kết thúc.

Chưa bao giờ nghĩ rằng anh cần đến cái thông tin này. Chưa bao giờ nghĩ rằng nó trở thành vấn đề nhiều đến như vậy.

Anh đã chạy bao lâu rồi? Hai phút? Hay mười?

Anh trượt chân tại góc phố rẽ qua đường Regent, càu nhàu một điều gì đó đại loại là để thay thế cho từ “Xin lỗi” khi anh va vào một quí ông ăn mặc đứng đắn và làm cái cặp của ông ta rớt xuống đất.

Thông thường, Gregory sẽ dừng lại để giúp người đàn ông, cố gắng sữa chữa lỗi lầm, nhưng không phải hôm nay, không phải sáng nay...

Không phải bây giờ.

Nhà thờ. Anh phải đến nhà thờ. Anh chẳng thể suy nghĩ gì khác. Anh không cần phải. Anh phải...

Chết tiệt. Anh trượt chân dừng lại bởi một cỗ xe cắt ngang trước mặt anh. Tay anh để thõng xuống bắp đùi - Không phải bởi vì anh muốn, mà vì cơ thể tuyệt vọng của anh yêu cầu như vậy. - Anh hợp một ngụm lớn không khí, cố gắng để làm giảm áp lực của tiếng hét trong cổ họng, cảm giác đốt cháy khủng khiếp, xé tan ra như là...

Cỗ xe đã di chuyển về phía sau và anh lại tiếp tục lần nữa. Bây giờ anh đã đến gần. Anh có thể làm điều đó. Không thể nhiều hơn năm phút kể từ khi anh rời khỏi nhà. Có thể là sáu. Cảm giác như là ba mươi phút, nhưng không thể nào quá bảy phút.

Anh phải dừng điều đó lại. Nó không đúng. Anh phải dừng nó lại. Anh sẽ dừng nó lại.

Anh có thể nhìn thấy nhà thờ. Ở phía xa, cái tháp chuông màu xám nhô lên trên nền trời màu xanh sáng. Ai đó đã treo những bông hoa lên chiếc đèn lồng. Anh không thể nói nó - là màu vàng hay trắng, chủ yếu màu vàng. Chúng tràn ra phía trước một cách tự do, bung ra từ chiếc giỏ. Có vẻ là một sự kiện vui vẻ, phấn khởi, và tất cà là sai. Đây không phải là một ngày phấn khởi. Nó không phải là một sự kiện đáng để chúc mừng.

Và anh sẽ dừng nó lại.

Anh chậm lại vừa đủ để không ngã dập mặt khi leo lên các bậc thang, và sau đó giật mạnh cánh cửa, mở rộng ra, rộng hơn nữa, hầu như không nghe tiếng đóng sầm lại khi nó va vào bờ tường. Có lẽ anh nên dừng lại để thở. Có lẽ anh nên đi vào một cách yên lặng, cho anh một khoảng thời gian để đánh giá tình hình, để đánh giá xem họ đang ở bao xa.

Nhà thờ hầu như yên lặng. Vị linh mục ngưng nói, và tất cả mọi người ngồi ở các hàng ghế đều xoay lại cho đến khi mặt họ đều nhìn về phía sau.

Nhìn vào anh.

“Đừng”, Gregory hổn hển, nhưng anh đang hít thở gấp gáp, anh hầu như không nghe thấy từ nào.

“Đừng”, anh nói, lần này to hơn, nắm chặt lấy cạnh của những chiếc ghế khi anh đi loạng choạng đi về phía trước. “Đừng làm điều đó”.

Cô không nói gì, nhưng anh nhìn cô. Anh nhìn cô, miệng cô mở to với cơn sốc. Anh nhìn thấy bó hoa rơi xuống từ tay cô, và anh biết - vì Chúa, anh biết rằng cô đã ngưng thở.

Cô trông đẹp tuyệt. Mái tóc vàng óng dường như bắt lấy ánh sáng, và nó sáng lên lộng lẫy đã lấp đầy trong anh với một sức mạnh. Anh đi thẳng đến, vẫn còn hít thở khó khăn, nhưng anh đã có thể đi mà không cần sự trợ giúp, đi ra khỏi những hàng ghế.

“Đừng làm điều đó”, anh nói lại lần nữa, di chuyển về phía cô với vẻ duyên dáng ngầm của một người đàn ông biết rõ những gì anh ta muốn.

Không ai biết phải làm gì.

Cô vẫn chẳng nói gì. Không ai nói gì cả. Điều đó thật kỳ lạ. Ba trăm con người bận rộn nhất London, tụ họp lại trong một tòa nhà, mà không ai có thể thốt ra một từ nào. Không ai có thể dứt cặp mắt khỏi anh khi anh đi vào lối đi chính giữa.

“Anh yêu em”, anh nói, ngay tại đây, ngay trước mặt tất cả mọi người. Ai quan tâm chứ? Anh sẽ không giữ nó trong bí mật. Anh sẽ không để cho cô cưới bất kỳ ai khác mà không chắc chắc rằng cả thế giờ biết cô nắm giữ trái tim anh.

“Anh yêu em”, anh nói lại lần nữa, và qua khóe mắt anh có thể thấy mẹ và em gái anh, ngồi im trên ghế, miệng họ há ra với cú sốc.

Anh vẫn bước. Dọc theo lối đi, mỗi bước thêm tự tin, thêm chắc chắn.

“Đừng làm điều này”, anh nói, bước ra khỏi lối đi và đi vào nơi hành lễ. “Đừng cưới anh ta”.

“Gregory”, cô thì thầm. “Tại sao anh làm điều này?”

“Anh yêu em”, anh nói, bởi vì đó là thứ duy nhất để nói. Nó là thứ duy nhất đáng bàn.

Mắt cô lấp lánh, và anh có thể thấy hơi thở đã trở lại trong cổ họng cô. Cô nhìn lên người đàn ông cô đang chuẩn bị cưới. Trán anh ta nhướng lên khi anh ta trao cho cô một cái nhún vai rất nhẹ, như thể muốn nói, đó là lựa chọn của cô.

Gregory quỳ một gối xuống. “Hãy lấy anh”, anh nói, dồn tất cả tâm hồn vào lời nói. “Hãy lấy anh”.

Anh ngừng thở. Toàn bộ nhà thờ ngừng thở.

Cô quay mắt lại nhìn anh. Chúng mở lớn và rõ ràng và tất cả những gì anh đã từng nghĩ đều thật tốt đẹp và tử tế và có thật.

“Hãy lấy anh”, anh thì thầm, lần cuối.

Môi cô run run, nhưng giọng cô rõ ràng khi cô nói -

Trong chương này, nhân vật chính của chúng ta biết yêu.

Hai tháng trước.

Không giống như hầu hết những người đàn ông mà anh biết, Gregory Bridgerton tin vào tình yêu đích thực.

Anh phải là một thằng ngu mới không.

Ngẫm nghĩ xem nhé:

Người anh lớn nhất của anh: Anthony.

Người chị lớn nhất của anh: Daphne.

Những người anh khác: Benedict và Colin, đó là chưa kể đến các chị anh, Eloise, Francesca, và (khó chịu thay nhưng là sự thực) Hyacinth, tất cả bọn họ - tất cả bọn họ - khá là hạnh phúc với vợ hoặc chồng của mình.

Đối với hầu hết đàn ông, một tình yêu như thế sẽ chẳng sinh ra được cái gì ngoài những cáu gắt, nhưng đối với Gregory, người đã được sinh ra với tính khí vui vẻ khác thường, mặc dù đôi khi (theo em gái anh) hơi gây bực mình, hơi nhiệt tình, chỉ đơn giản phải nghĩ là anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tin vào một sự thật hiển nhiên:

Tình yêu có tồn tại.

Đó không phải là một sự bịa đặt mỏng manh của trí tưởng tượng, được nghĩ ra để giữ cho các nhà thơ khỏi những cơn chết đói. Nó cũng không phải là một cái gì đó mà một người có thể nhìn thấy hoặc ngửi thấy hoặc chạm đến, nhưng nó có ở ngoài đó, và chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi anh ta tìm ra người phụ nữ trong mơ của mình và ổn định lại cuộc sống, có con và giải quyết một số sở thích cản trở như giấy dán tường và bộ sưu tập những dụng cụ mài hạt nhục đậu khấu.

Mặc dầu, nếu một người nào đó muốn cho một quan điểm tốt về nó, điều mà dường khá là rõ ràng cho một khái niệm trừu tượng như vậy, thì giấc mơ của anh ta không chính xác là có bao gồm một người phụ nữ. Ồ, không một ai có một tính cách riêng biệt và dễ nhận dạng đến như vậy. Anh chẳng biết gì về người phụ nữ của đời anh, người giả định là sẽ thay đổi cuộc đời anh hoàn toàn, đưa anh đi đến niềm hạnh phúc của sự buồn chán tẻ nhạt và được tôn trọng. Anh chẳng biết cô ấy thấp hay cao, đen hay trắng. Anh thích nghĩ cô thông minh và đẹp tinh tế và hài hước nữa, nhưng ngoài điều đó ra, làm thế nào mà anh biết được? Cô có thể hay e thẹn hoặc nhiều lời một tí. Cô có thể thích ca hát. Hoặc cũng có thể không. Có thể cô là một người phụ nữ cưỡi ngựa với nước da bẩm sinh đã ửng hồng do đã dành quá nhiều thời gian ở ngoài trời.

Anh không biết nữa. Khi điều đó xảy đến với người phụ nữ ấy, thì cô hẳn là người phụ nữ tuyệt vời mà hiện thời không có tồn tại trên cõi đời này, anh sẽ biết tất cả những điều đó thôi, ngay khi anh tìm thấy cô...

Anh sẽ biết.

Anh không rõ sao anh lại biết, nhưng anh chỉ biết rằng là anh sẽ biết. Một điều quan trọng nhường này, có thể làm rung chuyển trái đất và thay đổi cuộc sống, ừm, thực sự là, nó sẽ không xuất hiện bằng cách thì thầm về sự hiện diện của nó. Nó sẽ đến một cách tràn trề và mạnh mẽ, giống như là câu thành ngữ về một tấn gạch vậy. Câu hỏi duy nhất là khi nào mà thôi.

Và trong thời gian chờ đợi, anh thấy chẳng có lý do gì để anh không tận hưởng một thời gian vui vẻ trong khi mong đợi sự xuất hiện của cô. Sau cùng thì, một người không cần thiết phải hành xử như một thầy tu trong khi chờ đợi tình yêu đích thực của họ.

Gregory, về mọi mặt, là một mẫu đàn ông thực sự điển hình của Luân Đôn, với một tính cách thoải mái - mặc dù không đến mức hoang phí - có trợ cấp, có nhiều bạn bè, và có một cái đầu đủ thông minh để biết khi nào thì cần phải rời khỏi bàn đánh bạc. Anh được xem như một người đủ thanh lịch để mà tóm lấy trong Hội chợ Hôn nhân. Nếu không chính xác là sự lựa chọn hàng đầu (đứa con trai thứ tư trong gia đình thì chẳng bao giờ gây được một sự chú ý lớn lao cả), thì anh luôn là người được lựa chọn khi các quý bà cần một quý ông thích hợp để lấp đầy số lượng người tham dự trong các bữa tiệc tối.

Điều khiến cho tính cách thoải mái đã đề cập ở trên của anh đi xa hơn một chút - luôn luôn là một lợi ích.

Có lẽ anh nên có một vài mục tiêu cho cuộc đời mình. Một vài phương hướng nào đó, hoặc thậm chí chỉ là một nhiệm vụ có ý nghĩa nào đó để hoàn thành. Nhưng điều đó có thể đợi, không phải sao? Sớm thôi, anh chắc chắn mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng. Anh sẽ biết những gì anh muốn làm, và anh muốn làm điều đó với ai, và trong lúc đợi, anh sẽ -

Chẳng phải là thời gian dễ chịu gì. Ít nhất thì, chẳng phải là lúc này.

Giải thích nhé:

Gregory hiện đang ngồi trong một cái ghế bọc da, một cái ghế khá là thoải mái, nhưng thực sự không phải chuyện chiếc ghế hay là sự dễ chịu khiến cho anh ngồi mơ mộng mà không lắng nghe anh trai mình, người mà, nên được lưu ý đến, chỉ đứng cách đó khoảng 4 bước, đang huyên thuyên về một số điều gì đó, mà hầu hết đều liên quan đến trách nhiệm và nghĩa vụ.

Gregory không thực sự chú ý lắm. Anh hiếm khi làm điều đó.

Ồ, không, thỉnh thoảng anh cũng có, nhưng...

“Gregory? Gregory!”

Anh nhìn lên, chớp mắt. Hai cánh tay Anthony khoanh lại, đó chưa bao giờ là dấu hiệu tốt. Anthony là Tử tước Bridgerton, và đã được hơn hai mươi năm rồi. Và trong khi anh, Gregory sẽ là người đầu tiên tuyên bố điều này, là người anh trai tốt nhất, anh cũng là một vị chúa tể khá chuyên quyền.

“Mong em tha lỗi cho việc xâm phạm vào những suy nghĩ của em nhé, như anh đang làm,” Anthony nói bằng giọng khô khan, “nhưng có lẽ nào - chỉ có lẽ thôi nhé - nhưng em có nghe bất cứ điều gì anh nói không đó?”

“Với sự chăm chú cần thiết,” Gregory lặp lại như vẹt, gật đầu với vẻ nghiêm nghị mà anh nghĩ là đủ hiệu quả. “Phương hướng.”

“Vậy hả,” Anthony trả lời, và Gregory tự chúc mừng mình vì những diễn xuất rõ ràng là truyền cảm. “Thật tốt khi cuối cùng em cũng đã chịu tìm hướng đi cho cuộc đời mình.”

“Dĩ nhiên rồi,” Gregory lầm bầm, hầu như là vì anh đã bỏ lỡ bữa tối, và anh đang đói, và anh đã nghe thấy chị dâu mình đang cho phục vụ bữa ăn nhẹ ở ngoài vườn. Bên cạnh đó, anh chưa bao giờ có ý nghĩ tranh cãi với Anthony. Chưa bao giờ.

“Em phải thay đổi. Phải chọn một hướng đi mới.”

“Thực vậy.” Có lẽ sẽ có nhiều sandwiches. Anh có thể ăn khoảng bốn mươi cái bánh nhỏ xíu lố bịch ấy ngay sau khi ngắt bỏ những lớp vỏ.

“Gregory.”

Giọng Anthony nén lại. Cái giọng mà, trong khi thật khó để có thể mô tả, thì lại rất dễ dàng để nhận ra. Và Gregory biết rằng đã đến lúc phải chú ý.

“Được rồi,” anh nói, bởi vì thực tế là, thật tốt biết bao khi một âm tiết có thể trì hoãn cho một câu nói thích hợp. “Em dự định sẽ tham gia vào giới tăng lữ.”

Câu nói đó khiến Anthony lạnh người. Chết đứng, đông cứng, lạnh người. Gregory dừng lại để thưởng thức khoảnh khắc này. Thật quá tệ khi anh phải trở thành một mục sư chết tiệt để đạt được điều đó.

“Em nhắc lại xem,” cuối cùng Anthony lẩm bẩm.

“Không phải như thể là em có nhiều lựa chọn,” Gregory nói. Và khi những lời nói hiện ra, anh anh nhận ra rằng đây là lần đầu tiên anh nói về chúng. Bằng cách nào đó mà chúng trở nên có thực hơn, lâu bền hơn. “Quân đội hoặc giới tăng lữ,” anh tiếp tục, “và, ồ, cũng phải nói thêm là - em là một tay súng cực tệ.”

Anthony không nói gì. Họ đều biết đó là sự thật.

Sau một hồi im lặng lúng túng, Anthony lẩm bẩm, “Còn có kiếm nữa.”

“Vâng, nhưng với may mắn của em thì em sẽ được chuyển đến Sudan,” Gregory nhún vai. “Cũng không đến mức quá chán, nhưng quả thực, nóng chết được. Anh có muốn đi không?”

Anthony bác bỏ ngay lập tức. “Không, dĩ nhiên là không.”

“Và,” Gregory thêm vào, bắt đầu tự thích thú, “Còn có mẹ nữa.”

Có một điểm dừng. Rồi: “Mẹ có liên quan đến Sudan... làm sao như vậy được hả?”

“Mẹ sẽ không thích chuyến đi của em đâu, và rồi anh, anh phải biết, anh sẽ là người phải nắm lấy tay mẹ những lúc mẹ lo lắng, hoặc có những cơn ác mộng khủng khiếp về...”

“Không nói nữa,” Anthony cắt ngang.

Gregory tự cho phép mình cười. Thật không công bằng với mẹ anh, người mà, chỉ cần chú ý để thấy rằng, chưa bao giờ từng một lần tin vào điềm báo tương lai với bất cứ thứ gì mơ hồ như một giấc mơ. Nhưng bà sẽ ghét chuyến đi của anh đến Sudan, và Anthony sẽ phải lắng nghe điều lo lắng của bà về nó.

Và bởi Gregory không đặc biệt có mong muốn rời khỏi bờ biển đầy sương mù của nước Anh, dù sao đi nữa, đó cũng là một quan điểm rất đáng tranh luận.

“Thôi được,” Anthony nói. “Thôi được. Dù sao thì, anh cũng rất vui khi chúng ta cuối cùng cũng có được cuộc thảo luận này.”

Gregory nhìn lên đồng hồ.

Anthony hắng giọng, và rồi khi anh nói, có một sắc nhọn không kiên nhẫn trong giọng anh. “Và cuối cùng thì em cũng nghĩ đến tương lai của bản thân.”

Gregory cảm thấy có thứ gì đó siết chặt phần sau hàm anh. “Em chỉ mới hai sáu,” anh nhắc anh trai mình. “Chắc chắn quá trẻ với những vấn đề hữu dụng được lặp đi lặp lại của thế giới.”

Anthony chỉ nhấc một bên lông mày lên. “Vậy anh có nên liên hệ với vị tổng giám mục không nhỉ? Để tìm cho em một giáo khu nào đó?”

Ngực Gregory xoắn lại trong một cơn ho co thắt không mong đợi. “Er, không,” anh nói khi anh có thể. “Ít nhất thì, vẫn chưa nên.”

Một góc miệng Anthony chuyển động. Nhưng không nhiều, và cũng không, với bất kì một định nghĩa mở rộng nào, cho đó là một nụ cười. “Em có thể kết hôn,” anh nói một cách nhẹ nhàng.

“Em có thể,” Gregory đồng ý. “Và em sẽ. Thực tế là em đã lên kế hoạch.”

“Thật vậy chứ?”

“Khi em tìm thấy đúng người.” Và rồi, trước biểu hiện nghi ngờ của Anthony, anh thêm vào, “Chắc chắn là anh, trong tất cả mọi người, sẽ khuyến cáo em về một cuộc hôn nhân xuất phát từ tình yêu hơn là một lợi ích vật chất.”

Anthony khá nổi tiếng là say đắm vợ mình, người ngược lại cũng khá say đắm đến không giải thích nổi với anh. Anthony còn khá nổi tiếng vì tận tụy với bảy đứa em của mình, vì vậy Gregory không cần phải cảm thấy xúc động thế này khi nghe anh trai mình nhẹ nhàng nói, “Anh ước em sẽ có được tất cả những hạnh phúc mà anh được trải qua.”

Gregory được cứu khỏi phải trả lời bằng chính tiếng sôi sùng sục cỡ lớn từ bụng anh. Anh trao cho anh mình một cái nhìn bẽn lẽn. “Xin lỗi. Em lỡ mất bữa tối.”

“Anh biết. Bọn anh đã mong em đến sớm hơn.”

Gregory tránh bản thân mình co rúm lại. Vừa kịp lúc.

“Kate hơi phiền lòng.”

Đó là điều tệ nhất. Khi Anthony thất vọng là một chuyện. Nhưng khi anh ấy cho rằng vợ mình đang bị tổn thương vì điều gì đó thì...

Ồ, đó là lúc Gregory biết rằng anh đã gặp rắc rối. “Xuất phát trễ từ Luân Đôn,” anh lẩm bẩm. Đó là sự thật, nhưng dù sao thì, cũng không thể bào chữa cho cách xử sự tệ hại thế này. Anh đã được mong đợi sẽ đến trang viên vào đúng giờ ăn tối, và anh đã không đến. Anh gần như đã nói, “Em sẽ lên tinh thần cho chị ấy,” nhưng phút cuối anh lại ngậm miệng lại. Vì một lý do gì đó mà nó sẽ làm cho mọi chuyện trở nên tệ hơn, gần giống như là anh đã tôn vinh cái tính lề mề của anh, khi cho rằng anh có thể dỗ xuôi cho bất kì một tội lỗi nào với một nụ cười và một lời giải thích liến thoắng.

Điều mà anh vẫn thường làm, nhưng không phải những lúc như thế này...

Anh không muốn vậy.

Vì vậy, thay vào đó anh chỉ nói, “Em xin lỗi.” Và anh cũng thực sự có ý như vậy.

“Cô ấy ở trong vườn,” Anthony nói cộc cằn. “Anh nghĩ cô ấy định tổ chức một buổi khiêu vũ - ở sân trong, nếu em có thể tin nổi.”

Gregory có thể. Nghe chính xác như chị dâu anh. Chị ấy không phải kiểu người sẽ để bất kì một giây phút hứng khởi nào trôi vèo qua chị ấy, và với thời tiết đẹp lạ kì như thế này, tại sao lại không tổ chức một buổi khiêu vũ ngẫu hứng ngoài trời chứ?

“Thể nào em cũng nhảy với người nào cô ấy muốn cho xem,” Anthony nói. “Kate không thích bất cứ tiểu thư trẻ nào cảm thấy lẻ loi đâu.”

“Đương nhiên là không rồi,” Gregory lẩm bẩm.

“Anh sẽ tham gia với em trong vòng mười lăm phút nữa,” Anthony nói, rồi quay lại chiếc bàn, nơi có hàng chồng giấy tờ đang đợi anh. “Anh có vài việc cần phải hoàn thành.”

Gregory đứng lên. “Em sẽ qua đó với chị Kate.” Và cuối cùng, cuộc nói chuyện riêng rõ ràng là đã đến hồi kết thúc, anh rời căn phòng và hướng thẳng ra khu vườn.

Đã một thời gian kể từ khi anh đến Aubrey Hall, trang viên được truyền lại từ dòng họ tổ tiên của nhà Bridgerton. Dĩ nhiên, gia đình tụ họp tại đây, ở Kent, vào dịp Giáng Sinh, nhưng sự thực là, nó không phải là nhà của Gregory, và nó cũng chưa bao giờ thực sự là vậy. Sau khi cha anh mất, mẹ anh đã hành động trái với lẽ thường và đã dời toàn bộ gia đình, quyết định rằng sẽ trải qua phần lớn thời gian trong năm tại London. Bà chưa bao giờ nói ra, nhưng Gregory nghi ngờ rằng không khí thanh bình tại ngôi nhà cũ nhắc nhở bà nhiều kỷ niệm.

Kết quả là, Gregory cảm thấy nhiều hơn rằng Nhà lớn, tại London, mới là ngôi nhà thời niên thiếu của anh, không phải Aubrey Hall. Tuy vậy, anh vẫn tận hưởng những chuyến viếng thăm của mình, và anh vẫn chơi những trò chơi đồng quê, như cưỡi ngựa và bơi (khi cái hồ đủ ấm để cho phép điều đó), và đủ lạ là, anh thích thay đổi nhịp độ của mình. Anh thích cái cách cảm thấy không khí mát mẻ và sạch sẽ sau hàng tháng trời ở trong thành phố.

Và anh thích cái cách anh có thể bỏ lại phía sau tất cả khi cảnh vật trở nên yên lặng và sạch sẽ.

Những sự kiện cho buổi tối nay được tổ chức trên bãi cõ phía nam, và anh đã được quản gia thông báo khi anh đến vào lúc chập tối. Có vẻ là một chỗ tốt cho một cuộc liên hoan ngoài trời - đất bằng phẳng, nhìn thẳng ra hồ và một mái hiên rộng lớn cho rất nhiều chỗ ngồi đối với những ai muốn.

Khi anh đi dọc theo phòng khách dài dẫn ra bên ngoài, anh có thể nghe thấy tiếng thì thầm nho nhỏ cũa những giọng nói lan truyền qua cách cửa kiểu Pháp. Anh không chắc chắc chị dâu anh đã mời bao nhiêu người đến dự tiệc - có thể là con số nào đó giữa hai mươi và ba mươi. Đủ ít để có thể có sự thân mật, nhưng cũng đủ lớn để một người có thể thoát ra tìm chút thanh bình và yên lặng mà không để lại một khoảng trống trong đám đông đang tụ họp.

Khi Gregory băng qua phòng khách, anh hít một hơi thở sâu để cố gắng xác định được loại thức ăn mà Kate đã quyết định phục vụ. Dĩ nhiên là sẽ không nhiều, cô đã nhồi nhét no nê thực khách của mình tại bữa tối.

Ngọt, Gregory quyết định, khi ngửi thấy mùi quế dịu nhẹ khi anh đi ra đến hàng đá xám của mái hiên. Anh buông một tiếng thở dài thất vọng. Anh đang chết vì đói, và một lượng lớn thịt dường như là thiên đường hơn những gì đang có sẵn ngoài kia.

Nhưng anh đã đến trễ, và đó không phải là lỗi của ai khác ngoài anh, và Anthony sẽ lấy đầu anh nếu anh không tham gia ngay lập tức, vì vậy, bánh ngọt và bánh bích qui sẽ sẵn sàng.

Một làn gió nhẹ thoảng qua da anh khi anh bước ra ngoài. Thời tiết khá nóng trong tháng Năm, tất cả mọi người đều đang nói về nó. Loại thời tiết này dường như nâng tinh thần người ta lên - một niềm rộn rã đáng ngạc nhiên khiến người ta mỉm cười. Và thật sự, các vị khách dường như ở trong tâm trạng hạnh phúc, tiếng rì rầm của những cuộc nói chuyện được thêm vào bởi những tiềng đùng đục và âm rung của những tiếng cười.

Gregory nhìn quanh, tìm kiếm cả thức ăn lẫn ai đó mà anh biết, chủ yếu là chị dâu anh Kate, người phải được anh ưu tiên chào hỏi đầu tiên. Nhưng khi mắt anh lướt qua khung cảnh, thay vì vậy anh thấy...

Cô ấy.

Cô ấy.

Và anh biết. Anh biết rằng cô chính là người đó. Anh lặng đi, chết đứng. Không khí không còn di chuyển trong cơ thể anh, nó dường như thoát ra một cách chậm chạp cho đến khi không còn gì nữa, và anh chỉ đứng đó, trống rỗng, khao khát.

Anh không thể thấy gương mặt cô, thậm chí chỉ là đường nét. Chỉ là phần lưng của cô, phần cong hoàn hảo của cuống họng cô, một lọn tóc sáng cuộn xoắn trên vai cô.

Và tất cả những gì anh có thể nghĩ là - anh đã bị hủy hoại.

Anh bị hủy hoại, nhân danh tất cả những người phụ nữ khác. Xúc cảm mãnh liệt này, ngọn lửa này, một cảm giác đúng đắn ngập tràn - anh chưa bao giờ cảm thấy như vậy trước đây.

Có thể nó thực ngớ ngẩn. Có thể là điên rồ. Mà cũng có thể là cả hai. Nhưng anh đã đợi. Cho khoảnh khắc này, trong một thời gian quá lâu, anh đã đợi. Và nó đột nhiên trở nên rõ ràng - tại sao anh đã không tham gia vào quân đội hoặc giới tăng lữ, hoặc đảm nhận một trách nhiệm giống như anh trai để quản lý một sự sản Bridgerton nhỏ hơn.

Anh đã đợi. Đó là tất cả. Địa ngục, anh thậm chí đã chẳng nhận ra rằng anh đã không làm gì nhiều ngoài chờ đợi khoảnh khắc này.

Kia là cô ấy.

Và anh biết.

Anh biết.

Anh di chuyển một cách chậm rãi băng qua bãi cỏ, quên hẳn thức ăn và Kate. Anh xoay sở để lẩm bẩm một lời chào với một hoặc hai người trên đường đi, mà vẫn giữ nguyên tốc độ. Anh phải đến với cô. Anh phải nhìn thấy gương mặt cô, hít thở mùi thơm của cô, biết được âm thanh của giọng nói cô.

Và rồi anh ở đó, đang đứng cách xa một vài bước chân. Anh nín thở, sợ hãi, bằng cách nào đó hoàn toàn mãn nguyện khi đứng trước sự hiện diện của cô.

Cô đang nói chuyện với một quí cô trẻ tuổi khác, với sự thân mật đủ để chứng tỏ rằng họ là bạn thân. Anh đứng đó trong một lúc, chỉ quan sát họ cho đến khi họ quay lại và phát hiện ra anh ở đó.

Anh mỉm cười, một cách nhẹ nhàng, hầu như chỉ một chút thôi. Và anh nói...

“Xin chào.”

Lucinda Abernathy, người được biết đến nhiều hơn, ồ, đối với những ai đã biết cô, dưới cái tên Lucy, kiềm chế một tiếng rên rỉ khi cô quay sang quí ông đã dẫm lên chân cô, đang nhìn vào Hermione như một anh chàng si tình, ờ thì, cũng như bất cứ ai đã từng gặp Hermione đều làm.

Đó là một mối nguy tiềm tàng khi làm bạn với Hermione Watson. Cô ấy sưu tập những trái tim tan vỡ theo cùng một cách giống như vị linh mục già của Abbey sưu tập những chú bướm vậy.

Dĩ nhiên, ở đây, điểm khác biệt duy nhất là, Hermione không có ý làm đầy thêm bộ sưu tập của cô bằng những ngón đòn bẩn thỉu. Hermione không mong muốn nắm giữ trái tim của bất cứ quí ông nào cả, và cô ấy cũng chẳng bao giờ muốn làm tan vỡ bất cứ cái nào trong số chúng. Điều đó chỉ... xảy ra mà thôi. Bây giờ thì Lucy đã quen với điều đó rồi. Hermione là Hermione, với mái tóc vàng nhạt ánh màu bơ, một khuôm mặt hình trái tim, và đôi mắt to mở lớn ánh lên sắc xanh.

Mặc khác, Lucy thì,... Ồ, cô không phải là Hermione, điều đó là quá rõ ràng. Cô chỉ đơn giản là chính cô, và trong hầu hết thời gian, như thế là đã đủ.

Theo hầu hết những gì hiển nhiên, Lucy cũng không thua kém Hermione là mấy. Tóc ít vàng hơn. Không mảnh khảnh bằng. Không cao bằng. Mắt cô cũng có màu kém sặc sỡ hơn - màu xám hơi xanh, thực tế thì, khá là thu hút nếu so sánh với bất kỳ ai khác ngoài Hermione, nhưng điều đó cũng chẳng giúp được bao nhiêu, bởi vì cô chẳng bao giờ đi đến đâu mà không có Hermione.

Cô đã đi đến cái kết luận đáng ngạc nhiên này vào một ngày khi mà cô không tập trung chú ý vào bài giảng môn Cấu trúc ngữ pháp và Văn chương Anh tại trường Miss Moss’s dành cho những quí cô đặc biệt, nơi Hermione và cô đã theo học được ba năm.

Lucy chỉ thua kém có một chút. Hoặc có lẽ là, nếu một người nào đó muốn một cái gì đó bóng bẩy hơn trong chuyện này, thì Lucy chỉ đơn giản là không có.

Cô ngờ rằng, cô cũng có sức thu hút một cách vừa phải, khỏe mạnh, theo phong cách truyền thống, một dạng đóa hồng của nước Anh, nhưng đàn ông hiếm khi (ồ, tốt thôi, chẳng bao giờ) bị á khẩu chỉ với sự hiện diện của cô.

Hermione, tuy nhiên thì,... ồ, thật là một điều tốt đẹp khi cô xinh đẹp nhường này. Nói cách khác, cô ấy sẽ rất khó để kết bạn với mọi người.

Ồ, điều đó và cũng như sự thật là cô không thể khiêu vũ. Waltz, quadrille, minuet - chẳng thành vấn đề. Nếu là thứ gì đó liên quan đến âm nhạc và sự chuyển động, thì cô ấy không thể thực hiện được.

Và điều đó thật đáng yêu,

Bản thân Lucy không nghĩ rằng cô là một người đặc biệt nông cạn, và cô đã nhấn mạnh, khi có bất kỳ ai hỏi, rằng cô sẽ không hề do dự ném mình ra phía trước một chiếc xe ngựa vì người bạn thân thiết nhất của cô, nhưng cũng có một sự công bằng nào đó trong cái sự thật rằng hầu hết những cô gái tuyệt đẹp ở nước Anh đều có hai cái đuôi phía sau, hoặc ít nhất thì cũng có một cái nài đó trong bộ sưu tập của mình.

Đó là một lối nói ẩn dụ.

Và bây giờ ngay tại đây lại xuất hiện một cái khác nữa. Một người đàn ông, dĩ nhiên rồi, không phải cái đuôi. Cũng rất đẹp trai nữa. Cao, mặc dù không quá cao, với mái tóc màu nâu sáng và một nụ cười khá là vui vẻ. Và tia sáng lấp lánh trong đôi mắt anh ta, cái màu mắt mà cô không thể xác định một cách chính xác trong bóng tối lờ mờ.

Mà cũng chẳng thành vấn đề nếu như cô không thực sự nhìn thấy mắt anh, bởi vì anh đâu có đang nhìn vào cô. Anh đang nhìn Hermione, như tất cả những người đàn ông khác đều làm vậy.

Lucy mìm cười một cách lịch sự, thậm chí rằng cô cũng chẳng thể hình dung nổi là anh có để ý hay không, và chờ đợi anh cúi chào và tự giới thiệu.

Và rồi anh đã làm một việc khá là ngạc nhiên. Sau khi giới thiệu tên mình xong - cô nên biết rằng anh là một Bridgerton từ vẻ ngoài của anh - anh cúi xuống và hôn vào tay cô trước.

Hơi thở Lucy bị nghẹn lại.

Và rồi, dĩ nhiên, cô đã nhận ra anh đang làm gì.

Ôi, anh ấy thật tuyệt. Anh ấy thật sự rất tuyệt. Không gì, không có gì để một người đàn ông có thể chiếm được cảm tình của Hermione nhanh nhất ngoài việc thăm hỏi Lucy.

Thật quá tệ cho anh là trái tim Hermione đã có chủ rồi.

Ồ tốt thôi. It nhất thì cũng rất vui khi quan sát xem mọi thứ sẽ diễn tiến như thế nào.

‘Tôi là tiểu thư Hermione Watson,’ Hermione đang nói, và Lucy nhận ra rằng kế hoạch của công tử Birdgerton bội phần thông minh. Bằng cách hôn tay Hermione sau, anh có thể nấn ná thêm một chút, và cô ấy, thực sự là, cô ấy sẽ phải là người tự giới thiệu chính mình.

Lucy hầu như bị ấn tượng. Nếu chẳng còn gì khác, thì anh ấy rõ ràng là người đàn ông thông minh hơn hẳn số các quí ông còn lại.

‘Và đây là cô bạn thân nhất của tôi,’ Hermione tiếp tục, ‘quí cô Lucinda Abernathy.’

Cô ấy nói điều đó theo cái cách mà cô ấy đã luôn nói về nó, với tình yêu thương và lòng tận tâm, và có lẽ chính xác ở cái nét mặt rõ ràng đến tuyệt vọng, như thể cô muốn nói rằng - Vì Chúa, làm ơn hãy nhìn Lucy một cái đi nào.

Nhưng dĩ nhiên là chẳng bao giờ bọn họ làm thế. Chỉ trừ khi bọn họ muốn tìm lời khuyên liên quan đến Hermione, đến trái tim cô ấy, và để chiến thắng được nó. Khi chuyện đó xảy đến, mức yêu chuộng đối với Lucy luôn luôn ở thứ bậc cao. Công tử Bridgerton - công tử Gregory Bridgerton, Lucy thầm sửa lại, bởi vì ở đây, theo như những gì cô biết, có tổng cộng ba người nhà Bridgerton cả thảy, nếu không tính đến vị Tử tước, đương nhiên rồi - quay sang và khiến cô ngạc nhiên với một nụ cười thắng lợi và đôi mắt ấm áp. “Cô thấy thế nào, quý cô Lucinda?” anh thì thầm.

“Rất tuyệt, cảm ơn anh,” và rồi cô có thể tự đá cho mình một cái vì cô đã thực sự lắp bắp trước chữ cái “r” trong từ “rất”, nhưng vì Chúa, bọn họ không thèm nhìn lấy cô một lần nào sau khi đã quay sang nhìn chằm chú vào Hermione, chưa bao giờ.

Làm sao anh ta có thể thấy hứng thú với cô cơ chứ?

Không, không đời nào. Bọn họ có bao giờ như vậy đâu.

Mà thực ra thì, có vấn đề gì đâu nhỉ? Đương nhiên sẽ tuyệt diệu hơn nhiều nếu có một người đàn ông nào đó yêu cô điên cuồng và say đắm để làm nên một sự thay đổi. Thật đấy, cô sẽ không ngại để bận tâm đâu. Nhưng sự thật là, Lucy trên thực tế đã được đính ước với ngài Haselby và chuyện này đã được nhiều năm, và nhiều năm và nhiều năm rồi, bởi thế chẳng việc gì phải chìm trong mộng tưởng với người hâm mộ của cô cả. Chẳng dẫn đến đâu.

Và bên cạnh đó, chắc chắn đó không phải là lỗi của Hermione khi cô ấy được sinh ra với gương mặt của một thiên thần.

Bởi thế Hermione là nàng tiên cá, và Lucy là người bạn đáng tin cậy, và tất cả đều phù hợp với thế giới này. Nếu không phù hợp, vậy thì ít nhất cũng có thể đoán trước được kết cục rồi.

“Chúng tôi có lẽ nên tính anh vào những người tổ chức phải vậy không nhỉ?” Lucy cuối cùng cũng hỏi, bởi vì chẳng ai chịu nói gì một khi tất cả bọn họ đều đã hoàn thành những thủ tục chào hỏi cần thiết. “Rất hân hạnh được gặp anh.”

“Tôi e là không,” công tử Bridgerton trả lời. “Tôi cũng thích được chịu trách nhiệm cho các buổi tiệc tùng, nhưng tôi sống ở Luân Đôn.”

“Anh thật may mắn khi có Aubrey Hall trong gia đình anh,” Hermione lịch sự nói, “dù cho nó có là của anh trai anh đi chăng nữa.”

Và đó là lúc Lucy biết công tử Bridgerton yêu mến Hermione. Quên đi việc anh đã hôn bàn tay cô trước, hoặc anh đã thực sự nhìn cô khi cô nói điều gì đó, điều mà hầu hết những người đàn ông khác chẳng mấy bận tâm. Một người chỉ cần nhìn cái cách anh để ý đến Hermione khi cô ấy nói cũng đã biết rằng anh, cũng đã gia nhập vào cái đám đông đó rồi.

Đôi mắt anh thoáng đờ đẫn. Đôi môi hé ra. Và có một cảm xúc mãnh liệt ở đây, như thể anh muốn nhấc Hermione lên và bước dài xuống ngọn đồi cùng với cô ấy, chết tiệt đám đông và khuôn phép đi.

Bởi vì dám phản đối cái cách anh nhìn cô ấy, điều sẽ rất dễ dàng được liệt vào danh sách những việc không mấy đúng đắn. Hoặc có lẽ thế này - Tại sao các người lại cản đường ta, để ngăn ta không được ôm Hermione vào lòng và sải chân xuống ngọn đồi với nàng, hỡi đám đông với khuôn phép chết tiệt kia?

Đó không phải là sự thất vọng, đúng vậy. Chỉ là...không...không - không cảm thấy thoải mái mà thôi.

Nên dùng một cụm từ khác cho chuyện này. Thật đấy, nên dùng từ khác thôi.

“Lucy? Lucy?”

Lucy nhận ra với một chút xấu hổ khi cô đã không để ý đến cuộc trò chuyện.

Hermione tò mò nhìn chằm chằm vào cô, đầu cô ấy nghiêng đi theo kiểu của riêng cô ấy mà những người đàn ông luôn cho rằng rất là quyến rũ. Lucy đã thử một lần. Và cô chóng hết cả mặt.

“Sao cơ?” cô nói khẽ, bởi có vẻ cô nghe thấy một lời đề nghị nào đó.

“Công tử Bridgerton đã mời mình khiêu vũ,” Hermione nói, “nhưng mình đã nói với anh ấy là mình không thể.”

Hermione mãi mãi giả vờ về chứng đau mắt cá chân và cái đầu bị cảm lạnh đã khiến cô ấy không thể ra sàn khiêu vũ. Chuyện đó cũng tốt thôi, ngoại trừ tất cả những người hâm mộ cô ấy đều được cô ấy thảy qua cho Lucy. Chuyện đó đầu tiên thì cũng tốt, nhưng đã trở nên thường xuyên khiến Lucy ngờ rằng các quý ông bây giờ bắt đầu nghĩ rằng họ đang bị xô thẳng sang cho cô vì lòng thương hại, điều mà không thể xa hơn sự thật là bao nhiêu.

Lucy, nếu cô nói theo ý kiến hơi cá nhân một chútí, là một người nhảy khá giỏi. Và cũng là người nói chuyện cực kỳ có duyên luôn đấy nhé.

“Tôi rất lấy làm vinh hạnh khi được mời quý cô Lucinda một bản,” công tử Bridgerton nói, bởi vì, cũng đúng thôi, anh ấy còn thể nói điều gì khác nữa đây?

Và thế nên Lucy mỉm cười, không phải với toàn bộ sự chân thành, nhưng dù sao đi nữa cũng là một nụ cười, và đồng ý để anh dẫn cô vào sân trong.