Chàng dõi nhìn khoảng không xa tít tắp, ánh mắt u buồn:
- Nay mọi việc đã tạm ổn, chúng ta phải về Trung Nguyên thôi.
Đầu tháng Chín năm đó, khi ngựa xe đã sẵn sàng lên đường, chàng cho gọi những nhân vật chủ chốt của giáo phái vào phòng riêng để căn dặn từng việc.
Chàng nói với Zhuoma và Kunga Zangpo:
- Ta giao Dharma cho hai người. Hãy tận tâm chăm sóc để thằng bé được lớn lên khỏe mạnh. Ngày sau, ta hứa sẽ tổ chức hôn lễ cho Dharma và con gái Jumodaban của hai người.
Vợ chồng Zhuoma bất ngờ, không tin vào tai mình. Kunga Zangpo lập tức quỳ xuống, lắp ba lắp bắp:
- Dạ bẩm…tôi xuất thân hèn mọn, đâu dám nhận vinh hạnh này… Làm vậy thật thiệt thòi cho Thế tử!
Bát Tư Ba gật đầu hài lòng:
- Jumodaban chỉ hơn Dharma một tuổi, dung mạo xinh xắn, dễ thương, ta thấy chúng rất xứng đôi.
Ngập ngừng một lát, giọng nói của chàng trở nên bi thương lạ thường:
- Vả lại, khi còn sống, Kháp Na đã rất tin tưởng cậu. Ta hy vọng hai người sẽ bảo vệ giọt máu duy nhất của đệ ấy bằng mọi giá, kể cả phải hy sinh tính mạng.
Kunga Zangpo dập đầu quả quyết, giọng nói nghẹn ngào:
- Xin pháp vương yên tâm, mạng sống của Kunga Zangpo trước kia thuộc về cậu chủ Kháp Na, bây giờ sẽ thuộc về Thế tử!
Bát Tư Ba đỡ Kunga Zangpo đứng dậy, quay sang phía bản khâm Shakya Zangpo, nắm chặt bàn tay đồi mồi của đại sư, xúc động nói:
- Bản khâm, công việc xây dựng đền Nam Sakya phải trông cậy vào thầy rồi!
Shakya Zangpo xúc động hứa rằng:
- Thưa pháp vương, tuy đã có tuổi nhưng tôi nhất định sẽ dành trọn thời gian còn lại của đời mình cho công trình này, nhất định sẽ xây dựng thành trì khang trang, đẹp đẽ nhất cho phái Sakya.
Bát Tư Ba gật đầu mãn nguyện:
- Sau khi trở về Trung Đô và xử lý xong xuôi mọi việc, ta sẽ lập tức quay lại Sakya.
Shakya Zangpo do dự một lát, thưa rằng:
- Thưa pháp vương, hiện thế hệ sau của phái Sakya có hai người con trai. Cậu chủ Dani, con trai ngài Yeshe, lớn hơn Thế tử Dharma sáu tuổi. Đã đến lúc phải đón cậu ấy về đây để học tập các pháp môn của giáo phái, theo ngài…
Sắc mặt Bát Tư Ba bỗng thay đổi:
- Không cần đi đón. Pháp thống và gia tộc sẽ do một mình Dharma kế thừa.
Tất cả những người có mặt lúc đó đều bàng hoàng, sững sờ, ngay cả tôi đang trong tâm trạng buồn bã, ủ rũ cũng giật mình ngẩng lên. Shakya Zangpo lên tiếng:
- Nhưng theo truyền thống của giáo phái, con trai lớn kế thừa pháp thống, con út kế thừa huyết thống. Nếu Bạch Lan Vương còn con trai khác nữa thì không có gì phải lo lắng, nhưng…
Nhận thấy sắc mặt của Bát Tư Ba càng lúc càng tối sầm, ông ấy bèn lùi lại phía sau, giọng nói lí nhí khi cố gắng trình bày nốt:
- Dani là anh, kế thừa pháp thống, Dharma là em, kế thừa huyết thống, như vậy là hợp lý.
Bát Tư Ba nghiêm mặt nói:
- Không cần bàn luận thêm nữa. Đối với ta, Dharma là đứa cháu trai duy nhất. Để nó kế thừa pháp thống và huyết thống của giáo phái cũng không có gì bất ổn. Ngày sau, nó sinh được hai con trai, sẽ lại phân chia quyền thừa kế theo truyền thống của giáo phái.
Shakya Zangpo không dám nhiều lời, đành gật đầu vâng dạ. Vợ chồng Zhuoma tất nhiên hoàn toàn ủng hộ quyết định của Bát Tư Ba. Senge và Dampa chỉ là đệ tử, không dám can thiệp vào chuyện nhà của phái Sakya. Mọi người đều cung kính rời khỏi phòng của Bát Tư Ba.
- Em trách ta vì quyết định chuyện hôn nhân của Dharma quá sớm phải không?
Thấy tôi mặt ủ mày chau, đi đi lại lại trên đệm trải, chàng ôm tôi lên, ghì chặt vào lòng.
- Chuyến đi này, nhanh cũng phải mất ba năm. Ta phải bảo đảm rằng, lúc ta không có mặt ở đây, Dharma vẫn được an toàn. Ta không còn cách nào khác ngoài việc nhờ cậy những người ta có thể tin tưởng tuyệt đối. Cũng mừng là hai đứa trẻ sẽ được sống với nhau từ nhỏ, lớn lên chúng sẽ là thanh mai trúc mã, như vậy sẽ tốt hơn việc phải kết hôn với những người hoàn toàn không quen biết, đúng không?
Tôi lắc đầu. Đó không phải là điều khiến tôi lo lắng, bởi vì thực lòng, tôi rất yêu mến Jumodaban. Tôi chỉ sợ rằng, khi tin tức này lan truyền tới Vân Nam, Yeshe chắc chắn không chịu để yên. Dù Bát Tư Ba đã bố trí canh gác cẩn mật nhưng tôi vẫn bồn chồn, lo lắng. Thằng bé còn non nớt như vậy mà đã phải đối mặt với dông bão, với hằn thù và giết chóc. Tôi không muốn xa Dharma, cho dù tôi chỉ là một hồ ly nhỏ bé, đã mất hết linh khí, tôi cũng muốn ở bên, bảo vệ con trai tôi.
Nên khi Bát Tư Ba đưa tôi đến gặp Dharma lần cuối trước lúc lên đường, tôi thừa dịp chàng không để ý, lẻn trốn đi. Bát Tư Ba huy động rất nhiều người hầu đi tìm tôi khắp nơi. Tôi vốn thông thạo địa hình, địa thế ở Sakya, ban ngày tôi trốn trên cây để không ai có thể tìm thấy. Tôi định sẽ đến thăm con trai sau khi Bát Tư Ba rời khỏi Sakya. Nhưng trời vừa sẩm tối, lòng tôi lại cồn cào không yên. Tôi đành mạo hiểm lẻn vào phòng Dharma. Cơ thể nhỏ bé của tôi không gây ra tiếng động lớn khi bước đi trên sàn gỗ nên tôi vô cùng mừng rỡ trèo vào trong nôi, ngắm nghía gương mặt đáng yêu của Dharma khi con đang say ngủ, cái miệng chốc chốc lại tóp ta tóp tép. Thằng bé đáng yêu đến nỗi khiến trái tim tôi tan chảy. Tôi nhìn bé không chán, nhưng không hiểu sao thị lực của tôi càng ngày càng kém đi. Chợt sàn gỗ vang lên âm thanh cọt kẹt, tôi chưa kịp quay đầu lại đã bị Bát Tư Ba bế xốc lên, giọng chàng nhè nhẹ vang bên tai tôi:
- Ta đoán không sai, chỉ cần chờ ở đây là sẽ tìm được em.
Tôi bực mình đá vào người chàng, giãy giụa vùng thoát. Giờ đây, khi không còn linh khí, cả khứu giác, thính giác nhạy bén của tôi cũng mất hết, bằng không, chàng đừng hòng tóm được tôi dễ dàng như vậy. Thì ra chàng đã chờ sẵn ở đây, chẳng trách, không có vú em nào ở bên cạnh Dharma. Tôi buồn bực vì đã “trúng kế” của Bát Tư Ba, cắn vào tay chàng. Chàng khẽ kêu lên nhưng kiên quyết không chịu thả tay ra.
- Lam Kha, đừng trốn nữa! Đưa em rời xa Dharma, ta biết em sẽ giận ta, nhưng ta buộc lòng phải làm vậy. Ta phải đưa em đi tìm Hoàng hậu Khabi, cô ấy là người duy nhất có thể cứu em.
Chàng gắng chịu đau, ánh mắt lấp lánh dưới ánh trăng vằng vặc.
- Có thể em không bận tâm đến việc có khôi phục được linh khí hay không, không bận tâm đến việc bản thân đã trở nên nhỏ bé, yếu ớt, nhưng nếu không mang hình hài con người, làm sao em nhận con trai được? Lẽ nào em muốn suốt đời phải trốn trong góc khuất, lén lút nhìn ngắm nó? Em không muốn được ôm nó vào lòng sao?
Tôi nhìn chú bé con trong nôi, nước mắt đầm đìa. Từ khi bé ra đời đến nay, tôi chưa lần nào được ôm nó vào lòng. Tôi đã thèm muốn điều đó biết bao! Lòng xót xa vô hạn, tôi há miệng, bàn tay chàng vẫn còn nguyên vết răng của tôi. Tôi ân hận liếm láp vết thương ấy, không biết nước bọt của tôi có còn phát huy tác dụng chữa bệnh như trước không.
Chàng thở dài, vuốt ve tôi, chẳng hề bận tâm đến vết thương kia.
- Lam Kha, đừng cố chấp nữa. Ta hứa, sau khi em lấy lại được hình hài con người, ta sẽ lập tức đưa em về Sakya!
Ngước nhìn gương mặt đôn hậu, hiền từ, tràn ngập tình yêu thương của Bát Tư Ba dưới ánh trăng, nước mắt tôi rơi lả chã, tôi đã gật đầu. Tôi ngoảnh lại nhìn con thêm một lát, thầm an ủi: “Dharma, nhất định con sẽ bình an, nhất định con sẽ trưởng thành mạnh khỏe. Hãy chờ ngày mẹ con ta đoàn tụ!”
Tháng 9 năm 1267, sau khi lo liệu chu tất hậu sự của em trai Kháp Na Đa Cát, Bát Tư Ba lên đường trở lại Trung Đô. Trước ngày khởi hành, Bát Tư Ba phát thống cáo mời các cao tăng đại đức của tất cả các giáo phái lớn tập trung tại Damxung, phía Bắc đất Tạng, để tiễn chàng lên đường.
- Em biết vì sao ta làm vậy không? – Khi chúng tôi yên vị trên xe ngựa, chàng hỏi tôi. – Chắc em biết, ta vốn không thích phô trương thanh thế.
Càng ngày Bát Tư Ba càng thích trò chuyện với tôi, chàng kể cho tôi nghe mọi chuyện, từ những việc vụn vặt thường ngày đến những việc chính sự khiến chàng bận lòng, dù chàng biết rằng tôi không thể trả lời. Người ngoài nhìn vào, sẽ thấy hành động của chàng thật kỳ quặc, vì chàng quá mức cưng nựng, yêu chiều một tiểu hồ ly lông lá xơ xác, đi đến đâu cũng ôm nó trên tay, ngay cả lúc ngủ, cũng không rời, còn thường lẩm bẩm trò chuyện với tiểu hồ ly nữa. Điệu bộ ấy khiến người ta cảm thấy lạ lùng và nực cười. Nhưng Bát Tư Ba hoàn toàn không để tâm đến ánh mắt của người đời.