Đến Từ Hiện Đại, Mẫu Thân Ta Danh Chấn Tứ Phương

Chương 125




Dùng bữa xong, hai đứa trẻ rời đi.

Hoắc Đình Sơn chậm rãi thêm trà vào chén của Bùi Oanh:

“Phu nhân đang nghĩ gì? Cả bữa sáng hồn cứ như để tận đâu.”

Bùi Oanh không trả lời ngay câu hỏi của hắn, chỉ khẽ nói:

“Ngài không muốn về nghỉ ngơi một lát sao?”

Đêm qua, hắn đã phải ra ngoài giữa đêm, vất vả một đêm dài.

“Ngủ ít đi một hai canh giờ mà thôi, không phải chuyện lớn.” Hắn không hề cảm thấy mệt.

Bùi Oanh thầm cảm thán người này thật sự tinh lực dồi dào, nếu ở thời hiện đại, chắc chắn sẽ là một kẻ "cày cuốc" hàng đầu.

Thấy hắn không mệt, nàng liền nói chuyện khác.

Bùi Oanh cất lời: “Hoắc Đình Sơn, vừa rồi Tri Chương nói muốn có một đôi ‘mắt ưng’, thực ra ‘mắt ưng’ ở hậu thế đã trở thành hiện thực, chỉ là hậu thế gọi nó là ‘kính viễn vọng’. Loại kính viễn vọng tốt nhất có thể nhìn thấy những hố lõm trên bề mặt các ngôi sao trên trời, thậm chí nhìn rõ quỹ tích mà các vì sao để lại khi di chuyển.”

Hoắc Đình Sơn không giấu được vẻ kinh ngạc.

Những hố lõm trên bề mặt các ngôi sao? Đó phải cách bao xa?

Lúc ấy chẳng phải chỉ cần ngắm trời qua chiếc kính viễn vọng ấy liền có cảm giác tay với tới được sao trời sao?

“Chỉ là loại kính viễn vọng thiên văn kia cấu tạo rất phức tạp, điều kiện chế tạo cực kỳ khắt khe, hiện giờ không thể nghĩ đến, cũng chẳng cần thiết.” Bùi Oanh nhìn thấy ánh sáng hứng khởi trong mắt hắn, khẽ cười rồi nói tiếp: “Loại kính viễn vọng đơn giản nhất có thể nhìn rõ cảnh vật cách xa nghìn bước, ta nghĩ như thế là đủ rồi.”

Cách nghìn bước, tức là hai dặm.

Nhìn thấy và nhìn rõ là hai khái niệm khác biệt. Cái trước chỉ là thấy được ở đó có người, còn cái sau là nhìn rõ cả những động tác nhỏ của người đó.

“Phu nhân, loại kính viễn vọng này cần những vật liệu gì?” Hoắc Đình Sơn nghiêm giọng hỏi.

Bùi Oanh đáp: “Là thủy tinh.”

Thấy Hoắc Đình Sơn hơi cau mày, nàng dừng một chút, rồi sửa lại: “Là lưu ly.”

Nghe vậy, Hoắc Đình Sơn lập tức hiểu ra.

Hiện tại, lưu ly còn được gọi là “men sứ”, có nhiều màu sắc khác nhau, vừa được chế tác làm đồ trang trí, vừa dùng làm đồ tùy táng. Nhưng bởi vì sản lượng lưu ly không cao, giá trị của nó còn vượt cả ngọc quý, thường chỉ lưu hành trong tầng lớp vương tôn quý tộc hoặc các đại gia tộc giàu có.

Thứ lưu ly mà những gia đình bình dân khó lòng chạm tới, đối với Hoắc Đình Sơn lại chẳng phải thứ gì quá khó kiếm. “Phu nhân, cần bao nhiêu lưu ly? Ta lập tức sai người đi lấy.”

Nhưng Bùi Oanh lại lắc đầu, “Không phải loại lưu ly bình thường. Ta cần loại lưu ly không màu, gần như trong suốt, khi cho vào nước gần như không thể nhìn thấy, không phải thứ lưu ly phổ thông có thể sánh được.”

“Không màu, gần như trong suốt?” Hoắc Đình Sơn trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Phu nhân, năm xưa ta từng tham dự một yến tiệc cung đình tại Trường An, khi đó một đại gia tộc ở Trường An dâng lên một lễ vật, chính là một tác phẩm điêu khắc bằng lưu ly. Tượng lưu ly ấy khác hẳn bình thường, lại có dạng bán trong suốt. Khi ấy, Triệu Thiên Tử hết sức vui mừng, không ngớt lời ca ngợi. Lúc đó, một sủng cơ của Triệu Thiên Tử còn nói rằng loại lưu ly đặc biệt quý hiếm này trên đời hiếm có, trong suốt sáng lấp lánh, cực kỳ tương xứng với sự uy nghiêm của bệ hạ.”

Dẫu hoàng thất Triệu gia đã suy vong, nhưng những báu vật mà họ sở hữu vẫn là thứ tinh hoa của thế gian. Ngày xưa, ngay cả một vị quốc quân như Triệu Thiên Tử còn kinh ngạc như vậy, trên đời loại lưu ly bán trong suốt kia còn có thể tìm thấy bao nhiêu?

Huống chi là lưu ly không màu, gần như trong suốt, khi vào nước không thể nhìn thấy.

Bùi Oanh cũng hiểu rõ, lưu ly ở thời đại này phần lớn đều không trong suốt.

Lưu ly xuất hiện từ thời Tây Chu, ban đầu được chế tạo thành các loại hạt màu sắc dùng làm trang sức. Đến thời Hán, kỹ thuật chế tác lưu ly phát triển hơn, công dụng của lưu ly cũng không chỉ giới hạn ở trang sức, nhưng vẫn rất quý giá, chỉ có quan lại quyền quý mới có thể sử dụng.

Sau này, đến thời Tống, lưu ly mới từ nhà quyền quý bước vào dân gian. Đến thời Nguyên, đã có những xưởng sản xuất lưu ly hàng loạt, và vào thời Thanh, lưu ly đã trở thành kính cửa sổ.

“Không có lưu ly trong suốt sẵn, vậy thì từ từ làm từ đầu.” Bùi Oanh nhắc đến kính cửa sổ: “Chờ khi kính được nung thành, không chỉ có thể chế tạo kính viễn vọng, mà cửa sổ trong nhà cũng có thể thay bằng kính. Ánh sáng lọt qua kính tốt hơn gấp mấy chục lần so với phiến vân mẫu hoặc giấy mỏng. Dù ngồi trong phòng, ngày mưa cũng có thể nhìn rõ cảnh bên ngoài.”

Hoắc Đình Sơn chưa từng thấy qua thứ nàng gọi là “kính”, nhưng dựa vào lời miêu tả của nàng, hắn có thể tưởng tượng ra khung cảnh nàng vẽ lên.

Trong một ngày mưa tầm tã, bên ngoài gió gào rú như nhổ bật núi, mưa trút xuống như sông vỡ bờ, nhưng bên trong lại tĩnh lặng yên bình. Qua lớp “kính” như được phủ lên tiên pháp ấy, có thể nhìn thấy mưa rơi trên tàu lá chuối, bên trong và bên ngoài tựa hai thế giới.

Thứ đồ mới lạ như vậy một khi xuất hiện, e rằng quyền quý ở Trường An sẽ tranh nhau đến vỡ đầu chảy máu.

Hoắc Đình Sơn cảm thấy tiếc nuối: “Có lúc thật muốn được đến thế giới mà phu nhân từng sống để nhìn một lần.”

“Thôi đi.” Bùi Oanh ngăn lại.

Hắn nhướng mày: “Vì sao?”

Bùi Oanh sắc mặt phức tạp: “Ở nơi ta sống, g.i.ế.t người phải chịu phán tội, tình tiết nghiêm trọng sẽ phải đền mạng. Ngài mà ở đó, ngồi bóc lịch trong ngục đến tận đáy cũng đã là nhẹ.”

Hoắc Đình Sơn cười trầm thấp: “Phu nhân nói như thể Đại Sở g.i.ế.t người thì không phải vào ngục vậy.”

Bùi Oanh: “Làm sao có thể giống nhau?”

Hoắc Đình Sơn không trả lời mà hỏi ngược: “Phu nhân bên đó có chiến sự không?”

Bùi Oanh thành thật đáp: “Nội bộ đất nước ta không có, nhưng giữa các quốc gia đôi khi vẫn xảy ra chiến tranh.”

“Vậy chẳng phải giống nhau sao? Đánh giặc tất nhiên sẽ có thương vong, phu nhân cứ xem ta như một binh sĩ giữ biên cương. Bảo vệ gia quốc, làm sao lại phải ngồi đáy ngục?” Hắn thậm chí đã nghĩ ra cả thân phận cho mình.

Bùi Oanh: “…”

Nghe cũng có lý, nhưng lại có điều gì đó không đúng.

Loại người như hắn, mang tư tưởng phong kiến mạnh mẽ, nếu đến quân đội hiện đại, liệu có ngoan ngoãn nghe lệnh không? Hay lại nghĩ cách loại bỏ lãnh đạo rồi tự mình nắm quyền?

Bùi Oanh thực sự hoài nghi.

“Nếu muốn chế tạo thứ gọi là ‘kính’ mà phu nhân nhắc tới, cần những nguyên liệu gì?” Hoắc Đình Sơn hỏi.

Bùi Oanh: “Vật liệu khá nhiều, ta cần chậm rãi lập danh sách.”



Thành phần chính của kính là silica dioxide, trông giống như cát. Nhưng điểm nóng chảy của cát rất cao, khoảng 1650℃, nhiệt độ thông thường khó đạt đến mức này, vì vậy cần phối thêm các loại phụ gia để hạ thấp điểm nóng chảy của cát.

“Đúng rồi, Hoắc Đình Sơn, cần phải tìm được thạch anh trước tiên.” Bùi Oanh nói. Thời đại này đã có các sản phẩm lưu ly, tuy kỹ thuật không cao, nhưng người ta đã phát hiện ưu điểm của thạch anh, do đó chắc chắn có nguồn thạch anh.

Nhưng Hoắc Đình Sơn lại hỏi: “Phu nhân, thạch anh ấy ở đâu có thể tìm được?”

Bùi Oanh rơi vào trầm tư, thạch anh ở thời đại này gọi là gì nhỉ?

Hai người cứ như đang chơi đố chữ, nói mãi vẫn không tìm ra đáp án, cuối cùng phải gọi vài vị võ tướng xuất thân từ dân gian đến hỏi. Lúc ấy mới biết thạch anh ở thời này được gọi là “mã cổ”.

“Việc thu thập mã cổ giao cho Hùng Mậu phụ trách, bảo hắn sau khi nhận phạt xong lập tức đi thực hiện.” Hoắc Đình Sơn lập tức hạ lệnh.

Sau khi báo cáo về việc đá thạch anh, Tần Dương lại trình lên một việc khác:

“Đại tướng quân, thám báo được phái đi trước đây đã trở về. Binh mã của Dự Châu và Ung Châu dự kiến sẽ đến trong ngày mai hoặc ngày kia; còn Ích Châu, tuy xa hơn, nhưng trong vòng năm ngày cũng sẽ tới.”

Hoắc Đình Sơn nhìn về phía Sa Anh:

“Bảo người trông chừng mười mấy tên tù binh kia, tuyệt đối không để chúng chết. Đồng thời gửi lời nhắn cho Lý Khiếu Thiên, nói rằng đêm qua bị quân Kinh Châu tập kích, đã bắt được vài tên tù binh, mời Lý Tư Châu ngày mai tới cùng quan sát cuộc thẩm vấn.”

“Choang!”

Chiếc bình bằng đồng xanh bị hất mạnh từ trên án thư rơi xuống đất. Trong mắt Lý Khiếu Thiên hiện lên những tia đỏ:

“Hoắc Đình Sơn, quả thực đáng hận, lại dám ức h.i.ế.p ta đến thế này.”

Trong trướng, mấy phó tướng của Lý Khiếu Thiên đều im lặng không nói.

Bọn họ đều hiểu, một khi binh mã từ các châu khác đến nơi, sẽ không còn cơ hội để tính sổ với U Châu.

Hiện tại đã gần hoàng hôn, chẳng bao lâu nữa trời sẽ tối. Thời gian sau khi trời tối dường như luôn trôi nhanh hơn ban ngày, chớp mắt là đã đến ngày hôm sau.

Thời điểm diễn ra cuộc thẩm vấn ngày mai càng lúc càng gần.

Đi hay không đi?

Nếu đi, sự nhục nhã và ấm ức phải chịu chắc chắn không cần nói cũng rõ. Họ đã có thể tưởng tượng được sự đắc ý đến mức nào của đám người bên phía U Châu, nụ cười khinh miệt hiện lên từng nếp nhăn trên gương mặt, chế giễu sự bị động của bọn họ.

Nhưng nếu không đi, lại dường như chẳng có lý do nào để từ chối. Đồng minh bắt được tù binh của quân Kinh Châu, mời đồng minh đến cùng quan sát thẩm vấn, việc này hợp tình hợp lý đến mức không thể phản bác…

Đúng lúc này, Triệu Phó đô đốc từ bên ngoài bước vào, sắc mặt ông ta kỳ lạ:

“Lý công, bên ngoài doanh trại có vài sứ giả đến.”

Lý Khiếu Thiên thấy sắc mặt ông ta khác thường, liền nghĩ tới binh mã từ các châu khác sắp đến:

“Sứ giả từ châu nào?”

Phó đô đốc Triệu đáp:

“Kinh Châu.”

Lý Khiếu Thiên sững người.

Kinh Châu?

Bọn họ chuyến này nam hạ chính là để đánh Kinh Châu, thế mà sứ giả của Kinh Châu lại tìm đến hắn…

Lý Khiếu Thiên đi qua đi lại hai vòng trong trướng, cuối cùng nói:

“Đưa họ vào.”

Triệu Phó đô đốc đi rồi nhanh chóng trở lại, lần này mang theo mấy người đàn ông. Người đứng đầu có đôi mắt cười, lúc nào cũng mang vẻ mặt tươi cười, trông giống như một chú c.h.ó ngoan ngoãn vẫy đuôi.

“Kẻ hèn Phong Duy, bái kiến Lý Tư Châu.” Phong Duy cùng những người đi theo quỳ gối hành đại lễ với Lý Khiếu Thiên.

Lý Khiếu Thiên không vội bảo bọn họ đứng dậy, ánh mắt chăm chú quan sát từng người một. Hắn không nói gì, còn Phong Duy và những người kia cũng giữ nguyên tư thế quỳ, không hề đứng lên.

Mãi cho đến khi một chén trà đã cạn, Lý Khiếu Thiên mới nhàn nhạt lên tiếng:

“Đứng lên đi. Tên của ngươi ta đã biết, nhưng không rõ cơn gió nào đưa một danh sĩ du thuyết như ngươi đến quân doanh của ta.”

Nghe vậy, Phong Duy đứng lên, mặt vẫn giữ nụ cười rạng rỡ, chẳng hề tỏ ra bất mãn vì bị bắt quỳ lâu như vậy:

“Chủ công của kẻ hèn nghe nói gần đây Lý Tư Châu lòng dạ ưu phiền, nghĩ tới tình đồng liêu sâu đậm thuở trước ở Trường An, liền nóng lòng lo lắng, đặc biệt phái kẻ hèn tới truyền lời, mong giải tỏa nỗi khổ trong lòng Lý công.”

Trong lòng Lý Khiếu Thiên khẽ cười lạnh.

Hắn và Tòng Lục Kỳ trước đây quả thật cùng làm quan ở Trường An, nhưng chỉ là quen biết sơ sài, gặp mặt nói vài lời khách sáo.

Nhưng mà…

Lý Khiếu Thiên trầm giọng hỏi:

“Tòng Kinh Châu biết được điều gì?”

Phong Duy lần này thu lại nụ cười thường thấy, nghiêm nghị đáp: “Hoắc Đình Sơn mưu kế sát hại Lý đại công tử. Đại công tử tuổi trẻ tài cao, ai gặp cũng phải tán thưởng một tiếng: Hậu sinh khả úy. Giả như cho thời gian, chắc chắn sẽ trở thành hào kiệt vang danh thiên hạ, thật đáng hận bị tên Hoắc tặc kia đoạn mất tiền đồ và sinh lộ. Thù g.i.ế.t con, không đội trời chung.

Mười năm trước, chủ công của ta cũng có một đích tử được ký thác kỳ vọng lớn lao. Thế nhưng, tiểu công tử yểu mệnh mà qua đời. Khi ấy, chủ công đau buồn rơi lệ, bi thương khôn xiết, mấy tháng trời vẫn không gượng dậy nổi. Nhi tử lâm bệnh mà mất đã đau lòng đến thế, nếu là bị tặc nhân sát hại, bậc làm phụ thân sẽ phẫn hận đến mức nào? Sợ rằng chẳng thể nào không đích thân g.i.ế.t kẻ thù, lại còn muốn ăn thịt, uống máu, nghiền nát xương. Chủ công của ta khi nghe chuyện của Lý công, liền nghĩ đến nỗi bất lực khi nhi tử qua đời, không khỏi khóc lớn. Ngài thực sự đau xót và tiếc nuối, nguyện giúp Lý công báo thù g.i.ế.t con.”

Nói xong, Phong Duy lại cúi người thật sâu.

Gân xanh trên trán Lý Khiếu Thiên khẽ giật.

Lý Khiếu Thiên nhìn qua Lưu Hiệu úy, người kia hiểu ý, lập tức mở lời: “Tòng Lục Kỳ giờ đây nào phải Kinh Châu năm xưa, bên ngoài người ta đều phỉ nhổ gọi hắn là Tòng phản tặc. Nếu liên minh với hắn, ngài bảo Lý công phải làm sao đối diện với thiên hạ?”



Phong Duy đứng thẳng dậy, thở dài: “Từ ngày Kỷ Hiển Bạch thao túng ấu đế để điều khiển chư hầu, thiên hạ đã loạn cả rồi. Các chư hầu hùng mạnh khắp nơi trỗi dậy, ai cũng dựa vào bản lĩnh mà tranh đoạt quyền thế. Lý công lẽ nào cam tâm mãi lo lắng đến danh tiếng mà phải chịu cúi mình? Sử sách vốn do kẻ thắng viết nên, nếu thắng rồi, mọi chuyện sẽ được xóa sạch. Lý công, muốn thành đại sự, không nên câu nệ tiểu tiết.”

Lý Khiếu Thiên nheo mắt, giọng nói lãnh đạm: “Tòng Lục Kỳ đã xưng đế, liên minh với hắn chẳng phải ta cũng là cúi mình sao?”

Phong Duy nở nụ cười: “Chủ công của ta nguyện cùng Lý công chia sẻ thiên hạ.”

Lý Khiếu Thiên không đáp, chỉ nói: “Hoắc Đình Sơn có mười lăm vạn đại quân, binh lính của hắn đều từ vùng đất nghèo khó phía Bắc mà ra. Mỗi người lính đều mang trên mình sự hung hãn của sói đói. Các người ở Kinh Châu thì co mình trong cửa ải, để ta phải một mình đối mặt với Hoắc Đình Sơn và mấy châu khác, tính toán của các người thật khéo.”

Phong Duy nhếch sâu khóe môi: “Lý công xin an tâm, chủ công của ta tất nhiên không để ngài một mình chống địch. Quân U Châu nhìn thì hùng mạnh, nhưng thực ra không phải bất khả chiến bại. Kẻ hèn này có cách khiến chúng suy yếu, đến khi đó sói đói hóa thành cừu non, muốn g.i.ế.t mổ thế nào chẳng phải do Lý công định đoạt sao?”

---

Đêm buông xuống, đêm trước thắng lớn nhờ đánh úp, đêm nay quân U Châu mở tiệc bên lửa trại để thưởng công binh sĩ.

Bùi Oanh ngồi cạnh Hoắc Đình Sơn, nhìn hắn tự tay chế biến t.hịt nai.

Quân hậu cần có nuôi gia súc, khi hành quân thì dẫn theo. Đa phần là cừu, kế đến là lợn thiến. Con nai này vốn là tình cờ gặp được, nó tự chạy từ rừng ra, sau cùng trở thành món ăn trên bàn.

Bùi Oanh từng được ăn cá nướng do Hoắc Đình Sơn làm. Rõ ràng chẳng có gia vị gì, nhưng hương vị lại cực kỳ tuyệt vời. Lần này, nàng thấy hắn dùng d.a.o ngắn cắt t.hịt nai thành từng lát mỏng, đặt lên bếp lò. Chẳng mấy chốc, t.hịt nai đã chín.

Hắn trở mặt miếng thịt, nướng thêm mặt kia.

Mỡ vàng óng bị nướng đến xèo xèo, hương thơm lan tỏa, ai ai cũng biết Hoắc Đình Sơn nướng t.hịt rất ngon. Lúc này, bị mùi thơm hấp dẫn, nhiều người không khỏi ngoái nhìn.

Sa Anh khẽ nuốt nước bọt, cổ họng trượt lên xuống, gần như không kiềm được: “Đại tướng quân, con nai rừng này tự dưng rời đàn, từ trong rừng nhảy ra, quả thực ngốc nghếch đến mức khó tin. Thuộc hạ nghi có điều khả nghi, chi bằng để ta thử độc thay ngài trước?”

Hoắc Đình Sơn chẳng buồn ngước mắt, gắp một miếng t.hịt nai nướng đặt vào bát của Bùi Oanh:

“Muốn ăn tự mình nướng.”

Tần Dương cười chế giễu Sa Anh:

“Thử độc cái gì, nai rừng bình thường người làm hỏa đầu quân chưa từng thấy qua sao? Đúng là nói năng linh tinh.”

“Ngươi chẳng lẽ không muốn ăn sao?” Sa Anh vặn lại.

Tiếng cười của Tần Dương lập tức tắt ngấm.

Khụ, đương nhiên là muốn ăn rồi.

Nghĩ lại trước đây, khi chưa gặp được chủ mẫu, mỗi lần Đại tướng quân xuất chinh, t.hịt nướng đều có phần bọn họ. Còn bây giờ thì không.

Bùi Oanh cầm bát nhỏ, dùng đôi đũa tre gắp một miếng t.hịt nai chậm rãi thưởng thức.

Thịt nai này đã được tẩm gia vị, thớ t.hịt mềm mại, vị ngon đậm đà, thêm chút hạt tiêu nghiền nhuyễn, vừa đưa vào miệng đã thấy như ngọn lửa ấm áp chảy tràn trong khoang miệng, sau khi nuốt xuống còn thấy ấm cả cuống họng.

Chưa ăn hết miếng t.hịt nai đầu tiên, một miếng t.hịt nai nhỏ khác vừa nướng xong đã được đặt vào bát nàng. Bùi Oanh nhìn thấy, vội nói:

“Đừng chỉ lo cho ta, ngài cũng ăn đi.”

Người đàn ông cầm con d.a.o nhỏ thoáng dừng lại, rồi mỉm cười, khóe môi cong lên vẻ hài lòng:

“Phu nhân đã ra lệnh, ta nào dám không tuân theo.”

Bùi Oanh chợt cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng nhìn lại hắn, người này đã đặt d.a.o xuống, bắt đầu ăn t.hịt nai.

Nàng ngừng một lúc, nghĩ mãi cũng không ra chỗ nào không ổn, lại tiếp tục ăn t.hịt nướng.

Sau buổi yến tiệc bên lửa trại, cũng đến lúc nghỉ ngơi.

Bùi Oanh vừa lau rửa dọn dẹp xong thì nghe thấy bên ngoài tiếng Tân Cẩm hành lễ, liền biết Hoắc Đình Sơn đã trở về.

Nàng buộc lại khăn ngang bụng, vừa khoác trung y lên người thì nghe bên ngoài có tiếng động vén màn trướng. Hoắc Đình Sơn bước vào, thấy trong lều có dựng một tấm bình phong gỗ xếp, liền biết nàng đang tắm rửa.

“Phu nhân…”

Chưa nói hết câu, nàng đã bước ra từ sau tấm bình phong nhỏ.

Hoắc Đình Sơn khẽ tặc lưỡi một tiếng.

Bùi Oanh nhìn hắn một cái:

“Đã về rồi? Bên trong còn một thùng nước sạch, ngài đi tắm đi.”

Hoắc Đình Sơn vừa đi đến vừa tháo đai lưng, thân hình cao lớn, sải chân dài, chỉ vài bước đã đến bên tấm bình phong. Hắn cởi túi thơm trước, treo lên bình phong, sau đó đến đai lưng, cuối cùng là áo ngoài.

“Phu nhân, tấm bình phong này đặt ở đây thật thừa thãi.”

Bùi Oanh đi đến bên giường mềm, không quay đầu lại:

“Ngài để ý làm gì, nó đâu có cản trở ngài.”

Hắn tự mình nói:

“Trong trướng không có người ngoài, tháo đi cũng được. Ta nào có ngại phu nhân nhìn ta.”

Bùi Oanh: “…”

Tiếng nước xối ào ào vang lên, trong đêm nghe rõ ràng hơn bao giờ hết. Bùi Oanh trên giường mềm trở mình, quay lưng lại phía đó.

Hoắc Đình Sơn làm việc luôn nhanh nhẹn, việc tắm rửa cũng không ngoại lệ. Chẳng bao lâu, hắn đã bước ra, trời đầu xuân còn lạnh mà chỉ khoác hờ một lớp trung y lỏng lẻo, dây áo cũng không buộc kỹ, để lộ mảng n.g.ự.c rắn chắc sậm màu.

Hắn bước lên giường mềm, từ phía sau ôm lấy Bùi Oanh, hơi thở nóng hổi phả vào vành tai trắng mịn của nàng:

“Phu nhân đêm nay khiến ta khổ sở quá, nên phải chịu trách nhiệm rồi.”