Mật sử nội cung được phơi bày,
Thanh Thiên định tâm chỉnh tam cương.
Tự cổ chí kim, phàm là làm hoàng đế, đều bị ba ngọn núi lớn đè nặng bức bách, ấy là yêu cầu về chính trị, yêu cầu về nghề nghiệp và yêu cầu về bản thân, vì thế hiển nhiên họ đều có tam cung lục viện bảy mươi hai phi tần, đây vốn là điều kiện cơ bản nhất. Mà lão hoàng đế tiền triều, cũng tức là đồng chí Tống Chân Tông, cũng không phải ngoại lệ, tần phi vô số, giai nhân dập dìu, tất nhiên không thiếu chuyện phong lưu ở chốn hậu cung.
Nguyên phối phu nhân của đồng chí Tống Chân Tông (cũng tức là Hoàng hậu điện hạ) mất sớm, vị trí chính cung bỏ trống, vì thế trong hậu cung, người người đều mơ ước đến vị trí này, tranh đấu không ngừng.
Mà trong số đó, có hai phi tử đặc biệt nhất: Một người họ Lưu, xưng làm Lưu phi; một người họ Lý, tất nhiên phải gọi là Lý phi.
Nói về hai vị Lưu phi và Lý phi này, tình như tỷ muội, tương kính hữu lễ, ở chung với nhau có tiếng là “hài hòa”. Mà sự hài hòa đó giữa chốn hậu cung vốn “tranh sủng như chiến trường, không phải người chết thì ta vong”, là cực kỳ hiếm thấy. Thế nên đồng chí Tống Chân Tông ngày ngày phải ngao du trong biển giấm[1], tất nhiên là càng thêm sủng ái họ.
[1] Nghĩa bóng ý chỉ ghen tuông. Xuất phát từ điển cố, thời Đường vua Đường Thái Tông muốn lung lạc lòng người đã bắt tể tướng đương thời Phòng Huyền Linh nạp thiếp, nhưng thê tử của ông này ngang ngược can thiệp, không đồng ý. Đường Thái Tông hạ lệnh cho thê tử của Phòng Huyền Linh giữa việc nạp thiếp và uống thuốc độc chỉ được chọn một. Phòng phu nhân tính tình cương liệt liền cầm bát thuốc độc uống liền một hơi trước mặt Đường Thái Tông. Đến khi đó Phòng phu nhân mới biết thứ bà uống không phải rượu độc mà là giấm chua. Từ đó về sau “uống giấm, giấm chua” còn được dùng với ý nghĩa ghen tuông, đố kỵ
Vì thế khi hai vị phi tử này đồng thời hoài thai, đồng chí Chân Tông liền đem hai viên kim hoàn tặng cho hai người, hơn nữa còn khắc chữ trên đó, với những dòng khác nhau.
Kim hoàn tặng Lưu phi trên đó viết: Kim Hoa cung Lưu phi.
Kim hoàn đưa Lý phi trên đó viết: Ngọc Thần cung Lý phi.
Mà sự thực chứng minh, trong chốn hậu cung này, nơi mà những con sóng ngầm giao tranh kịch liệt, sống chết chỉ một đường, thứ gọi “hài hòa” kia chỉ là biểu hiện hời hợt bề ngoài, không chịu nổi bất kỳ một thử thách nào.
Mà người phá vỡ sự hài hòa hiếm hoi trong hậu cung này lại chính là đồng chí Tống Chân Tông.
Vào một ngày nọ rượu uống quá chén, đồng chí ấy mới lâng lâng nói nhiều hơn một câu: “Hai vị ái phi nếu ai sinh hạ được long tử, thì hài tử sẽ được lập làm chính cung thái tử, còn mẹ thì được lập làm hoàng hậu”.
Tục ngữ nói: Say rượu hỏng việc, lời này quả nhiên là chân lý.
Kẻ nói vô tâm, người nghe cố ý.
Chính cung thái tử, khái niệm ấy như thế nào? Đó chính là người kế nhiệm hoàng đế!
Mẹ của thái tử, khái niệm ấy là gì? Là người kế nhiệm chức vị thái hậu!
Cám dỗ lớn nhất thế gian cũng chỉ đến vậy mà thôi!
Thế nên hai vị nương nương an tâm hồi cung đợi đến khi lâm bồn.
Chỉ là Lý phi đích thực an tâm hồi cung chờ sinh, còn Lưu phi trong lúc chờ sinh đồng thời còn lên kế hoạch trù tính kỹ càng cho tương lai của mình.
Nếu Lưu phi sinh hạ long tử trước, hiển nhiên mọi sự đều tốt lành, nhưng nếu Lý phi sinh trước, thì sẽ như thế nào?
Thân ở trong cung Kim Hoa, Lưu phi cùng thủ hạ đắc lực bắt đầu lặng lẽ suy tính, âm thầm trù bị.
Có danh nhân đã nói: Không diệt vong trong im lặng, thì cũng là bùng nổ trong im lặng.
Mà kẻ trầm mặc lặng lẽ trong cung Kim Hoa, nhân vật đại boss siêu cấp phản diện đến khi bạo phát lên thì chỉ một câu thôi “kinh thiên động địa, quỷ khóc thần sầu”, ấy chính là đồng chí Quách Hòe.
Nhắc tới đồng chí Quách Hòe này, thì không chỉ có công phu nịnh nọt a dua bợ đỡ, bày mưu tính kế, lôi bè kéo cánh tinh thông tỏ tường, mà điều đặc sắc nhất là, đồng chí Quách Hòe còn được trời phú cho đủ thứ từ khả năng sáng tạo đến tinh thần dũng cảm dám nghĩ dám làm.
Cái đó gọi là: Chỉ có không nghĩ ra, chứ chẳng có không làm được.
Mà đồng chí Quách Hòe, nhân vật phản diện số một, trong lúc vắt óc suy nghĩ dưới áp lực nặng nề, đã nghĩ ra một kế siêu cấp kinh điển “kinh thiên động địa, quỷ khóc thần sầu” đó chính là... đem mèo tráo thái tử.
Không chỉ rất ngớ ngẩn mà còn rất vô lý, nhưng Lưu phi lại có bản lĩnh đem cái sự “ngớ ngẩn” và “vô lý” này biến đổi thành “sự thực” và “chân thực”.
Bởi vì trùng hợp thay, đồng chí Lưu phi lại là con hổ cái nắm quyền, rất gian ngoan xảo trá, rất có thế lực, rất có lai lịch trong hậu cung này.
Cản ta thì chết, nghịch ta thì vong!
Mà càng trùng hợp hơn, người hạ sinh long tử trước chính là Lý phi.
Thế nên Lưu phi và đồng chí Quách Hòe, trợ thủ đắc lực, bắt đầu ra tay thực thi, các bước cụ thể là:
Bước đầu tiên, tìm một con mèo rừng, cạo hết lông đi, khiến cho nó trở nên trụi lủi đỏ hỏn, máu me bê bết, bước này do Quách Hòe dẫn đầu, đem một cung nữ tâm phúc và một bà đỡ đẻ mua chuộc từ trước, thừa cơ Lý phi còn đang choáng ngất do mất máu sau khi sinh, liền dùng mèo tráo Thái tử.
Không hiểu vì sao phải cạo hết lông mèo đi?
Cho xin đi, mời về học lại môn Sinh vật học.
Khi sinh ra ai mà không trần trụi, đỏ hỏn, bê bết máu?
Đưa một con mèo lông lá tươi tốt tới, liếc mắt một cái há có thể không nhận ra đó là động vật họ mèo đem đánh tráo Thái tử?
Lẽ nào đồng chí Tống Chân Tông từ nhỏ đã được tiếp nhận một nền giáo dục tinh anh trí thông minh lại bị sụt giảm?
(Sau này sự thực chứng minh trí thông minh của đồng chí Tống Chân Tông vẫn còn, nhưng chỉ số tình cảm hiển nhiên lại không cao, nhất thời kích động liền mất đi sức phán đoán.)
Bước thứ hai, do cung nữ tâm phúc đảm nhiệm, mang Thái tử tìm một chỗ vắng vẻ trong cung âm thầm giết đi, ném xuống cầu Kim Thủy, thần không biết, quỷ không hay.
Bước khứ ba, cho mời đồng chí Tống Chân Tông tới, diễn thành tiết mục đặc sắc, Lý nương nương cung Ngọc Thần sinh hạ yêu nghiệt, là tai họa cung đình.
Vì thế Lý phi dù có trăm miệng cũng không biện bạch được, ngay cả ngày ở cữ còn chưa kịp hưởng thì đã bị tống tiễn vào lãnh cung.
Việc lớn đã thành! Lưu phi hoan hỷ, Quách Hòe sướng rơn, cung Kim Hoa mừng rỡ.
Đáng tiếc, Lưu phi và Quách Hòe tuy tâm kế cao siêu, nhưng ánh mắt lại chẳng được như vậy...
Cung nữ Khấu Châu được bọn họ nhận định tâm phúc, bản chất là kẻ chính trực, vốn ôm trong mình sự trung nghĩa của nữ trung hào kiệt.
Khấu Châu không giết chết Thái tử, mà đưa đến phòng của thái giám tổng quản phụ trách thu mua rau quả, Trần Lâm.
Thái giám tổng quản phụ trách thu mua rau quả, có thể tự do ra vào cung cấm.
Vì vậy Trần Lâm công công, vốn có lương tri, liền lợi dụng chức vụ, đưa Thái tử đến cung Nam Thanh, giao vào tay Bát vương gia.
Bát vương gia biết lúc này mình không phải là đối thủ của Lưu phi, đành phải nhận Thái tử là con ruột mình, đứng sau hai nhi tử thân sinh, trở thành Tam thế tử.
Lại nói về Lưu phi, một tháng sau cũng hạ sinh long tử, liền được phong làm Thái tử, còn bản thân Lưu phi thì được phong làm Hoàng hậu, hiển nhiên mãn nguyện, sung sướng vô ngần, tiền đồ một mảnh đẹp tươi.
Tiếc thay, hành ác quá nhiều, thiên lý chuyển vần, ác giả ác báo, vị Thái tử này đoản mệnh sống chưa được sáu năm thì mắc phải bệnh lạ, đi về trời Tây.
Thế nên đồng chí Tống Chân Tông không có nhi tử nối dòng, cũng chẳng có thái tử kế vị.
Trùng hợp thay Tam thế tử của Bát Vương gia tiến cung diện thánh, đồng chí Tống Chân Tông vừa nhìn đã thấy dung mạo hình dáng của Tam thế tử rất giống mình hồi nhỏ, sinh lòng yêu thích, lập tức đập bàn quyết định lập làm Đông cung thái tử, kế thừa hoàng vị.
Thái tử Đông cung được lập, hiển nhiên phải tới các cung xem xét, mà người phụ trách đưa Thái tử đi lại chính là thái giám Trần Lâm.
Cung cuối cùng Thái tử đến chính là lãnh cung, mà trong lãnh cung chỉ có một vị nương nương, ấy là Lý phi cung Ngọc Thần.
Cho đến ngày hôm đó, Lý phi mới biết rõ chân tướng oan tình của bản thân, cũng lần đầu tiên trông thấy nhi tử thân sinh của mình.
Nhưng lúc này, Lưu hậu căn cơ đã vững, rễ sâu bao trùm, không còn cách để xoay chuyển tình thế.
Chỉ còn hy vọng duy nhất, đó là con ruột mình một ngày kia đăng cơ làm hoàng đế, mới có năng lực chống lại Lưu hậu, thay mình rửa sạch oan khuất.
Vốn là như vậy, nhưng lại nảy ra một sai sót nhỏ.
Thái tử tuy không biết Lý phi chính là mẹ ruột mình, nhưng vì mối dây mẫu tử ruột rà, từ lúc gặp mặt Lý phi cứ bận lòng không thôi, cuối cùng hướng Lưu hậu xin xá miễn cho tội của Lý phi, khiến cho Lưu hậu sinh nghi, liền lệnh cho Quách Hòe đi tra khảo Khấu Châu.
Khấu Châu tự biết mạng chẳng dài lâu, không chút do dự liền nhảy lầu tự sát.
Lưu hậu nghi ngờ càng sâu, cuối cùng dẫn tới ý muốn giết người.
Ba ngày sau, lãnh cung cháy lớn, Lý phi chết trong biển lửa.
Lưu hậu cuối cùng cũng an lòng, rốt cuộc ngôi vị thái hậu vẫn là của bà ta.
Nhưng bà ta không biết, nhân trận hỏa hoạn này, Lý phi lại được hai thái giám trung nghĩa xả thân bảo hộ, giúp đỡ trốn ra khỏi cấm cung.
Tiểu thái giám thay Lý phi vùi thân trong biển lửa tên là: Dư Trung.
Thái giám giúp Lý phi trốn ra khỏi cấm cung có tên là: Tần Phượng.
Thái giám Tần Phượng có một người bà con xa họ Phạm, nhà ở huyện Tây Hoa trấn Thảo Kiều. Vị Phạm tiên sinh này thời trẻ là một nam tử tuấn lãng nức tiếng xa gần, phu phụ hai người mất sớm, chỉ để lại một nhi tử thông minh hiểu chuyện, tên gọi là: Phạm Dung Hoa.
Lý phi vì trận hỏa hoạn trong lãnh cung mà hai mắt bị mù, Tần Phượng và Phạm Dung Hoa vẫn ở bên không rời không bỏ, sau Tần Phượng bệnh chết, bỏ lại Lý phi mẹ góa con côi sống dựa vào nhau cho đến ngày hôm nay.
Đây chính là chân tướng của “Li miêu hoán thái tử” mà phàm là người hiện đại nào cũng biết được một, hai phần; cũng là “chuyện cũ năm xưa” mà cái vị vững vàng ngồi trên ghế, Phạm đại nương với vẻ mặt bình tĩnh dị thường mất trọn một canh giờ mới chậm rãi kể lại rõ ràng.
***
“Bao đại nhân, đó là lai lịch vật trong túi của lão thân, ngài nghe rõ rồi chứ?”
Trong phòng khách mờ tối chỉ nghe chất giọng bình thản chậm rãi của Phạm đại nương, ánh tịch dương nhàn nhạt, yếu dần, rồi cuối cùng hướng đến một mảnh tĩnh mịch mờ mờ.
Tà dương chầm chậm chiếu qua song cửa, rọi vào những bóng mờ chồng chéo lên nhau trong phòng khách, lộ rõ thần sắc chấn động của mọi người.
Cả phòng im lặng như chết.
Bao đại nhân khuôn mặt đen nặng nề ngưng trọng, từ từ mở chiếc túi gấm trong tay, lấy vật trong đó ra, cầm trên những đầu ngón tay.
Trong một thoáng, ánh hào quang tràn ngập trong phòng, rực rỡ chói mắt.
Vật Bao đại nhân cầm trong tay, chính là một viên kim hoàn lớn bằng quả trứng gà, lấp lánh ánh vàng, vô cùng tinh xảo, đưa mắt nhìn kỹ thì thấy trên kim hoàn khắc mấy chữ tinh tế: “Ngọc Thần cung Lý phi”.
“Đại nhân, đây...”, Công Tôn Sách và Triển Chiêu đồng thời kêu lên, gương mặt không nén được vẻ kinh ngạc.
Phạm Dung Hoa nhìn chằm chằm vào Phạm đại nương, hai mắt ngập tràn hơi nước, đôi môi run rẩy không ngừng.
Mặt Kim Kiền ảo não như khóc tang, hệt như thấy quỷ vô thường đòi mạng, so ra còn hơn cái vẻ kinh hãi của mọi người trong phòng khách, nổi bật khác thường, may thay lúc này không có ai để ý tới.
Phạm đại nương vẻ mặt bình tĩnh dị thường, đôi mắt mù tĩnh lặng như nước, lặng lẽ nhìn hướng Bao đại nhân, chầm chậm hỏi: “Bao đại nhân, có hối hận khi nghe lão thân kể đoạn chuyện cũ năm xưa này không?”.
Bao đại nhân mắt sắc như điện, bình tĩnh nhìn thẳng vào lão phụ trước mặt, trầm giọng thốt ra từng chữ: “Làm sao biết kim hoàn này là thật hay giả?”.
Đôi mắt mù phẳng lặng như nước kia thoáng qua một tia gợn sóng, Phạm đại nương trầm giọng đáp: “Nếu không ngại Bao đại nhân có thể vặn mở kim hoàn ra xem thử”.
Ánh mắt của mọi người bắn thẳng đến, chỉ thấy hai tay Bao đại nhân vừa chuyển, kim hoàn kêu cách một tiếng tách thành hai nửa, bên trong kim hoàn có giấu một viên ngọc sáng chói, trong suốt lấp lánh, sáng trắng như nước, tản ra ánh hào quang nhàn nhạt long lanh.
“Cửu khúc dạ châu?!”, Công Tôn tiên sinh kinh ngạc thốt lên.
“Công Tôn tiên sinh nhãn lực không tồi”, Phạm đại nương buồn bã cất tiếng, “viên châu này chính là ‘Cửu khúc dạ châu’ mà tổ tiên Tống thị có được lúc khai quốc, là bảo bối truyền thừa của hoàng thất, thế gian này chỉ có hai viên, một viên ở đây, viên còn lại nằm trong kim hoàn của Thái hậu đương triều”.
Tiếng người trong phòng khách nhất thời mất đi.
Đột nhiên, Bao đại nhân đứng phắt dậy, vén vạt áo quỳ xuống, khấu đầu hô: “Vi thần Bao Chửng khấu kiến Thái hậu thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”.
Mọi người hoảng hốt, ngạc nhiên không biết phải làm sao.
Trái lại Kim Kiền phản ứng nhanh nhất, viu một cái liền tiến lên, quỳ xuống hướng Phạm đại nương dập đầu: “Bổ khoái Khai Phong phủ Kim Kiền khấu kiến Thái hậu thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”.
Triển Chiêu, Công Tôn Sách liếc nhau một cái, khẽ gật đầu, đồng loạt quỳ xuống khấu đầu hô:
“Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ Triển Chiêu khấu kiến Thái hậu thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
“Chủ bộ[2] Khai Phong phủ Công Tôn Sách khấu kiến Thái hậu thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
[2] Nắm quyền quản lý sổ sách.
Phạm đại nương… không lúc này phải gọi là Lý hậu, chầm chậm đứng dậy từ trên ghế, trong đôi mắt mù lòa bình lặng xao động từng đợt từng đợt sóng nhỏ, môi run run, cánh tay khẽ nhấc lên, sang sảng cất tiếng: “Bao ái khanh bình thân, chúng ái khanh bình thân…”.
Giọng nói vẫn bình thản không chút gợn sóng như cũ, nhưng cuối câu mơ hồ lộ ra âm rung rung.
Mọi người nghe xong, mới nhất tề đứng dậy, khom người rũ mắt, không dám nhìn thẳng.
Đột nhiên, lại nghe thấy “bịch” một tiếng phía sau Lý hậu.
Chúng nhân đưa mắt nhìn về nơi phát ra tiếng động, thì thấy Phạm Dung Hoa thân hình mảnh khảnh cuộn tròn trên đất, run lên nhè nhẹ, âm giọng run rẩy cất lên:
“Thảo dân Phạm Dung Hoa khấu kiến Thái hậu thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
Mọi người đều sửng sốt.
Lý hậu cũng kinh ngạc, khuôn mặt tràn ngập vẻ nghi hoặc hỏi: “Hoa Nhi, mau đứng dậy, đây là cớ gì?”.
“Thảo, thảo dân không dám...”, trong giọng nói mơ hồ lộ ra âm rung rung.
Trên khuôn mặt Lý hậu tràn ra ý cười bất đắc dĩ, lần lần tiến lên, cúi người đỡ Phạm Dung Hoa dậy, chậm rãi nói: “Con là hài nhi của vi nương, bất luận thân phận của vi nương thế nào, con vẫn là hài nhi của vi nương!”.
“Mẫu thân...”, Phạm Dung Hoa ngước lên, trên khuôn mặt tinh tế đã vương đầy những giọt nước mắt trong suốt như những hạt châu, “Hài nhi không phải nhi tử ruột của mẫu thân, từ nay về sau, không thể, không thể tiếp tục phụng dưỡng mẫu thân nữa, cũng không thể nấu cháo, đấm lưng cho mẫu thân...”.
“Hài tử ngốc...”, Lý hậu khe khẽ lắc đầu, khuôn mặt hiện ra ý cười hiền từ yêu thương, “Hai mẹ con chúng ta nương tựa vào nhau hơn mười mấy năm nay, vi nương sao có thể không cần Hoa Nhi chứ? Vi nương quen nghe Hoa Nhi dông dài, cũng quen được Hoa Nhi đấm lưng bóp vai, làm sao có thể bỏ được Hoa Nhi?”.
“Vâng! Sau này hài nhi nhất định sẽ vẫn giống như trước, ngày ngày đấm lưng bóp vai cho mẫu thân!”
Phạm Dung Hoa vừa nghe được những lời này, vẻ mặt nghiêm túc, cầm chặt hai tay Lý hậu, thấy Lý hậu nắm lại cổ tay mình, đôi mắt chớp chớp lấp lánh, không khỏi nhướng môi lên nở một nụ cười.
Hoa lê ngậm mưa, nhìn mà xót thương.
Nụ cười xán lạn, rạng rỡ vô song.
Chậc chậc…
Nghe được thân phận tôn quý của mẫu thân, lo lắng đầu tiên lại chính là sau này không thể nấu cháo, đấm lưng cho mẫu thân...
Thế gian này lại có người không tính toán thiệt hơn như vậy, thực hiếm thấy…
Thật đúng là mỹ thiếu niên hiếu thuận!
Kim Kiền đang lúc xúc động cảm khái thì bỗng nhiên cảm thấy một luồng kình phong ập tới, quét qua hai chân, đột nhiên thấy chân mềm nhũn, bịch một cái liền quỳ xuống đất.
Ơ hả?
Dựa vào kinh nghiệm phong phú của mình, Kim Kiền lập tức nhận thức được rằng bản thân đã bị điểm huyệt.
Là cái tên mắt ngắn nào khéo chọn lúc mình đang thưởng thức mỹ thiếu niên mà ra tay phá hoại hả?
Kim Kiền nhất thời bốc hỏa, đôi mắt nhỏ quét qua, bắn về phía Triển Chiêu, lại kinh ngạc khi thấy ba người Bao đại nhân, Công Tôn tiên sinh và Triển Chiêu cùng đồng thời vén vạt áo quỳ xuống, miệng hô to:
“Vi thần Bao Chửng tham kiến Vương gia thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
“Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ Triển Chiêu tham kiến Vương gia thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
“Chủ bộ Khai Phong phủ Công Tôn Sách tham kiến Vương gia thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
Ai ya!
Lúc này Kim Kiền mới hoàn hồn.
Đương triều Thiên tử là nhi tử ruột của Lý hậu, mà Phạm Dung Hoa lại là nghĩa tử của Lý hậu, hiển nhiên cũng là nghĩa đệ của Hoàng thượng...
Nghĩa đệ của hoàng thượng chẳng khác nào vương gia thiên tuế!
“Bổ khoái Khai Phong phủ Kim Kiền tham kiến Vương gia thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế!”
Kim Kiền vội vàng khấu đầu hô theo.
Chậc chậc, vẫn là Tiểu Miêu phản ứng nhanh.
Nếu ngay cả Bao đại nhân còn quỳ, mà mình không quỳ, há chẳng phải là đại sự không ổn sao.
Tiểu Miêu, ngài đủ nghĩa khí!
“Bao, Bao đại nhân?! Triển, Triển đại nhân, Công Tôn tiên sinh! Ân, ân công?!”
Phạm Dung Hoa vừa thấy bốn người quỳ trước mặt, thần sắc quẫn bách cuống quýt, bước vội lên nâng họ dậy.
“Phạm Dung Hoa sao có thể nhận nổi đây! Dung Hoa giảm thọ mất! Các vị đại nhân xin hãy nhanh đứng đậy!”
“Tạ Vương gia!”, bốn người đồng thời đứng lên thi lễ.
Lý hậu nghe giọng nói thất kinh của Phạm Dung Hoa thì lắc đầu cười cười, lại hướng về phía Bao đại nhân, nét mặt dần nghiêm túc, nói: “Bao khanh, oan khuất của ai gia hoàn toàn nhờ cậy vào khanh!”.
Bao đại nhân, Công Tôn tiên sinh, Triển Chiêu vừa nghe những lời này, sắc mặt tất cả đều trầm xuống.
Kim Kiền cũng rất phiền não đau đầu, đôi mắt nhỏ len lén nhìn sắc mặt mọi người, lòng không khoải cảm khái:
Một người là Thái hậu đương triều lòng dạ hiểm độc, một kẻ là Tổng quản thái giám nội cung, quyền thế khuynh đảo trong ngoài triều, chức trọng quyền cao.
Lão Bao chẳng qua chỉ là một triều quan tam phẩm...
Đây khác nào lấy trứng chọi đá, đâm đầu vào chỗ khó!
Lý hậu đôi mắt mù sáng quắc, bất động chẳng dời.
Bao đại nhân cau chặt đôi mày, sắc mặt ngưng trọng.
Đột nhiên, Bao đại nhân ngước lên, ánh mắt nghiêm nghị nói: “Bao Chửng ăn lộc của vua, tất sẽ vì nước tận trung, san sẻ nỗi lo cùng Hoàng thượng? Quách Hòe, Lưu hậu làm loạn cung đình, khiến người và thần cùng căm phẫn; Thiên cổ kỳ oan của Thái hậu, tất sẽ được rửa sạch. Án này nếu không xét, oan này nếu không giải, thử hỏi thế gian thiên lý ở đâu? Bao Chửng ắt sẽ tận tâm tận lực, trả lại cho Thánh thượng một người mẫu hậu, trả lại cho hậu cung một người Thái hậu, trả lại một lẽ công bằng cho thiên hạ!”.
Lý hậu nghe xong, chầm chậm nhắm chặt mắt lại, hai hàng lệ trong suốt từ từ chảy xuống, nghẹn ngào nói: “Ai gia thực không chọn lầm người, Bao khanh quả là người trung quân ái quốc…”.
Bao đại nhân ôm quyền thi lễ: “Thái hậu quá khen, đây là bổn phận của vi thần!”.
Lý hậu khẽ gật đầu, lau đi dấu lệ, lại hỏi: “Không biết Bao khanh định xử lý thế nào?”.
Bao đại nhân chau mày suy tư trong chốc lát, rồi đáp: “Khởi bẩm Thái hậu, lúc này chúng ta thân ở nơi xa xôi, người đông nhiều lời, tai mắt khắp chốn, e rằng chuyện sẽ bị lộ, bởi vậy thần xin Thái hậu thứ cho vi thần tội mạo phạm, không thể tiết lộ thân phận Thái hậu trước mọi người, chỉ đành xin Thái hậu hạ mình, trước tiên theo đoàn khâm sai của vi thần hồi kinh, sau đó sẽ bàn tính kỹ lưỡng”.
Lý hậu gật đầu, nhìn về phía Bao đại nhân, lại quay sang nói với Phạm Dung Hoa: “Hoa Nhi, vi nương mệt rồi, đỡ vi nương đi nghỉ”.
Bao đại nhân vừa nghe, vội cao giọng hô: “Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ đâu?!”.
“Có thuộc hạ!”, bốn đại Hiệu úy đẩy cửa bước vào, ôm quyền đáp.
“Mời mẫu tử Phạm thị tới sương phòng nghỉ ngơi! Nhất định phải bảo vệ họ an toàn!”
“Thuộc hạ tuân lệnh!”
Bốn đại Hiệu úy nhận lệnh, lập tức bảo hộ bên cạnh Lý hậu và Phạm Dung Hoa.
Lý hậu vịn vào cánh tay Phạm Dung Hoa, chậm rãi bước về phía lối ra, tới ngưỡng cửa liền dừng cước bộ, nói:
“Trong triều đình, người hiền đức độ rất nhiều, Bao đại nhân có biết vì sao lão thân cứ một mực kêu oan với đại nhân không?”
Hả?
Mọi người nghe mà không khỏi sửng sốt.
Kim Kiền cũng khó hiểu, nghĩ thầm:
Chẳng phải Khai Phong phủ là thắng địa án oan án sai nổi danh thiên hạ, thiên cổ lưu danh, dương danh tận hải ngoại sao?
Muốn kêu oan thì đến Khai Phong phủ! Đây là thường thức mà ai ai cũng đều biết, có gì kỳ quái nào?
Chợt nghe Lý hậu tiếp tục không nhanh không chậm nói:
“Quách gia là nghĩa tử của Quách Hòe, Bao đại nhân vẫn y luật định tội, chứng tỏ Bao đại nhân không úy kỵ quyền thế, không sợ hoàng quyền; hơn nữa Bao đại nhân vì bảo vệ bách tính Tây Hoa, còn nghĩ cách để dân chúng toàn huyện cùng cáo trạng lên trên...”
Ngưng một chút, lại tiếp:
“Đoạn truyện kể mấy hôm nay, quả là rất có ý tứ.”
Nói rồi bước qua bậc cửa ra ngoài.
Để lại bốn người trong phòng khách đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc.
Chậc...
Hai câu trước nghe hiểu liền, là khen ngợi Bao đại nhân.
Nhưng câu cuối cùng này là ý gì?
Kim Kiền tâm tư lóe sáng nhanh như điện giật, đôi mắt nhỏ đảo một cái, nhất thời kinh ngạc sung sướng:
Nói vậy là vị Thái hậu tân nhiệm này thích nghe giảng chuyện, thế thì há chẳng phải sau này mình sẽ có “vốn giắt lưng” để đi nịnh nọt hoàng thân quốc thích sao?!
Trời cao ơi, đất dày hỡi, cuối cùng tôi cũng có ngày hát vang bài “cá muối khô còn có thể hồi sinh” rồi!
“Công Tôn tiên sinh, bản phủ cho rằng câu cuối cùng của Thái hậu ngụ ý rất sâu xa, không biết tiên sinh nghĩ thế nào?”
Kim Kiền đang mặc sức tưởng tượng về tương lai tươi sáng, đột nhiên nghe Bao đại nhân bên cạnh hỏi, vội vàng hoàn hồn, dựng tai lên nghe ngóng.
Chỉ thấy Công Tôn tiên sinh suy nghĩ một chút, ôm quyền nói:
“Học trò cho rằng, lời ấy của Thái hậu ám chỉ vụ án này không tầm thường, liên đới rất lớn, nếu muốn rửa sạch oan khuất cho Thái hậu, tất phải là người có dũng có mưu, mưu dũng tương hợp, dũng mưu phối hợp thì mới đảm đương được. Mà Thái hậu từ vụ án của Quách Quảng Uy đã đoán định được đại nhân chính là người phù hợp, cho nên mới lựa chọn đại nhân.”
Bao đại nhân nghe xong không khỏi vuốt râu mỉm cười nói: “Lời này của tiên sinh rất đúng. Chỉ là Thái hậu nhận định sai rồi, bản phủ tuy có cái dũng của kẻ thất phu, nhưng nếu không có Công Tôn tiên sinh hiến kế, không có Triển hộ vệ bảo hộ giúp đỡ, không có Kim bổ khoái trợ lực, thì sao có thể xưng là kẻ có dũng có mưu được?”.
Mọi người nghe vậy không khỏi sửng sốt, đồng thời ngước mắt lên nhìn về phía vị khâm sai mặt đen.
Chỉ thấy trên khuôn mặt đen sì của Bao đại nhân như được mạ thêm một tầng chính khí lẫm liệt, nghiêm giọng nói: “Bao Chửng có được ba người tương trợ, sao phải sầu lo án oan không được giải, thiên hạ bất công đây?!”.
“Đại nhân, học trò...”, đôi mắt phượng của Công Tôn tiên sinh hơi hồng lên, khuôn mặt nho nhã lộ vẻ cảm động.
“Đại nhân, thuộc hạ...” Triển Chiêu ôm kiếm bước lên, trong đôi con ngươi lấp lánh ánh sáng.
“Học trò (thuộc hạ) dù phải vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng quyết không chối từ!”, Công Tôn tiên sinh, Triển Chiêu đồng thời ôm quyền cao giọng hô.
“Đại nhân, thuộc hạ dù phải nhảy vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng quyết không chối từ!”, Kim Kiền cũng bước lên trước, vành mắt hơi đỏ lên, ôm quyền cất tiếng thề.
Chậc chậc... mấy câu này của lão Bao thực sự nói rất hay, rất diệu kỳ!
Dư âm còn vang vọng trong tai, khơi dậy ý chí, khắc ghi trong lòng.
Nói theo ngôn ngữ của chính phủ thì phải gọi là: Tinh thần chủ nghĩa tập thể, đoàn kết chính là sức mạnh!
Mà trong tục ngữ của dân gian, còn có một cách giải thích tương đối phổ biến và dễ hiểu:
Chúng ta đều là những con châu chấu cùng buộc trên một sợi dây, ai cũng đừng hòng chạy!
***
Ngày hôm sau, Bao đại nhân không dám trì hoãn dù chỉ chốc lát, hạ lệnh cho đội ngũ lập tức khởi hành hồi kinh.
Lý hậu và Phạm vương gia được xưng là họ hàng xa của Bao đại nhân, theo đoàn khâm sai cùng khởi hành hồi kinh, có Tứ đại hiệu úy đã được thông báo nội tình theo sát bên mình bảo vệ, vấn đề an toàn không phải lo lắng gì.
Kim Kiền rốt cuộc cũng thoát khỏi cơn ác mộng quét dọn sạch sẽ huyện nha lẫn nhà xí, hân hoan vô cùng.
Trên đường đi, Bao đại nhân và Công Tôn tiên sinh xem xét tình hình, qua mấy ngày sau, đã tìm ra đối sách:
Lưu hậu quyền lực khuynh đảo trong ngoài triều, Quách Hòe một tay che trời, hai người đều là những kẻ không dễ đối phó. Mà nguyên cáo Lý hậu lại không quyền không thế, chỉ vỏn vẹn có một viên kim hoàn làm vật chứng, án này khó khăn trở ngại trùng trùng.
Nếu muốn lật đổ Lưu hậu, Quách Hòe, ắt phải tìm được nhân chứng.
Thái giám Trần Lâm, Bát vương thiên tuế, đều là những nhân chứng sống có sức nặng, nếu có hai người này tương trợ việc giải oan tất nhiên sẽ có hy vọng.
Mà án này liên đới rất lớn, lại liên quan trực tiếp đến những bí mật trong cung, hơn nữa đám tay chân của Quách Hòe rất nhiều, nếu không cẩn thận, để lộ ra chút phong thanh gì, thì tính mạng của Lý hậu sẽ gặp nguy hiểm.
Cho nên kế sách tra án tất nhiên bí mật điều tra là thượng sách, điều tra công khai là hạ sách.
Bao đại nhân cũng đã quyết định xong quá trình làm việc: Sau khi trở về Đông Kinh Biện Lương, trước sẽ mời công công Trần Lâm, sau lại tới cung Nam Thanh bái kiến Bát vương, trình kim hoàn để thừa nhận quốc mẫu, rồi làm chứng trên công đường. Tiếp đó Bao đại nhân, Bát vương thiên tuế sẽ hợp nhau lại tấu lên trên, bẩm rõ với Thánh thượng, xin Thánh thượng phán xét.
Như thế, Lý hậu mới có hy vọng rửa sạch án oan.
Mưu lược đã định, mọi sự đều chuẩn bị đầy đủ, ai nấy đều xắn tay áo lên chỉ chờ về đến Biện Lương là bắt tay hành động.
Trái ngược lại với tinh thần khẩn trương của mọi người, trên đường đi tất thảy đều bình yên vô sự, không có nguy hiểm gì.
Chỉ trừ cái vị Phạm tiểu vương gia kia, hành động cử chỉ có chút ngoài dự đoán của mọi người.
Đây không phải nói Phạm Dung Hoa thường xuyên gây chuyện thị phi. Trên thực tế, dung mạo của Phạm tiểu vương gia xuất chúng, nói năng khéo léo xác đáng, cử chỉ hữu lễ, chỉ qua mấy ngày mà đoàn khâm sai từ trên xuống dưới ai nấy đều nhất tề khen ngợi, được yêu thích và hoan nghênh nhiệt liệt, mức độ chỉ xếp sau Ngự Miêu Triển Chiêu mà thôi.
Nói Phạm tiểu vương gia ngoài dự liệu của mọi người là vì thái độ, cách cư xử có chút khiến người ta khó mà lý giải được.
Phạm Dung Hoa đối với Bao đại nhân, tôn kính hữu lễ, điều này rất bình thường.
Đối với Công Tôn tiên sinh, lại càng tôn kính hơn, đều này cũng rất bình thường.
Đối với Ngự tiền hộ vệ Triển Chiêu, chỉ một từ thôi: sùng bái... điều này gặp nhiều rồi cũng chẳng lạ, tất nhiên là bình thường rồi.
Đối với những người khác, bất luận chức quan lớn hay nhỏ, đều khiêm nhường hữu lễ, quả là hiếm thấy, điều này lại càng bình thường.
Duy chỉ có một điểm bất thường, ấy chính là cử chỉ Phạm tiểu vương gia đối đãi với Kim Kiền.
Trên dưới Khai Phong phủ đều biết Kim Kiền, người này công phu miệng lưỡi lợi hại, tài ăn nói sắc bén, lời nói bén nhọn như tên. Về khả năng chặt chém giá cả ở chợ thì có dõi mắt khắp thành Biện Lương cũng chẳng có ai địch nổi, vốn có danh xưng “Chém giá tại chợ thiên hạ không địch thủ”, sức chiến đấu đó quả là đáng sợ, chỉ có thể dùng hai từ “hung hãn” để hình dung.
Nhưng trừ điểm đó ra thì chả còn gì đáng kể nữa.
Khinh công rất tốt, nhưng so ra vẫn kém Triển đại nhân một khoảng lớn;
Y thuật thì chắp vá gom nhặt, so với Công Tôn tiên sinh thì thua xa;
Võ nghệ thì chả có, so với Tứ đại hiệu úy... Ài, không thể so sánh;
Về uy vọng... Khụ khụ...
Hơn nữa người này bình thời yêu tiền như mạng, hay giở thủ đoạn để lười biếng, ngại khó ngại khổ, tham sống sợ chết, mức độ tích cực làm việc thật sự không cao…
Cho nên, trên dưới Khai Phong phủ khi đánh giá Kim Kiền thì chỉ có một câu thôi:
Một tên nhãi nhép mồm miệng dẻo quẹo, khôn lỏi, hạ cấp mà thôi.
Nhưng, hết lần này tới lần khác cái tên Kim bổ khoái này, lại được vị tiểu huynh đệ Phạm Dung Hoa, người gặp người thích, hoa gặp hoa nở, cực kỳ tôn kính. Luôn đi theo phía sau nghiêm túc kính cẩn, tuyệt không vắng bóng.
Như thế thử hỏi làm sao lại không khiến người ta bất ngờ, phỏng đoán sôi nổi cho được.
Đừng nói trên dưới Khai Phong phủ cảm thấy khó hiểu, mà đến cả bản thân Kim Kiền cũng thấy kỳ lạ.
Theo lẽ thường mỗi ngày có thể được một vị vương gia thiếu niên dung mạo như hoa như ngọc đối với bản thân rất mực tôn kính hữu lễ, vốn phải là một chuyện đáng mừng có chút vui tai vui mắt, nhưng nếu đi kèm là ánh mắt không vui của Bao đại nhân, vẻ không tán thưởng của Công Tôn Trúc Tử, cùng với tia nhìn lạnh lẽo của Triển đại nhân thì cũng đủ khiến người ta như đứng đống lửa, như ngồi đống than rồi.
Cho nên, Kim Kiền cuối cùng đã hạ quyết tâm, chọn một ngày hoàng đạo trời trong gió mát đi tìm Phạm vương gia nói cho rõ ràng.
“Bẩm Vương gia, ti chức xin Vương gia sau này đừng tới tìm ti chức nữa.”
“Dám hỏi Kim bổ khoái vì sao lại nói ra những lời này?”, Phạm tiểu vương gia không hiểu.
“Vương gia chính là cành vàng lá ngọc, hoàng thân quốc thích, ti chức với cao không nổi.”
“Dung Hoa nào phải là cành vàng lá ngọc gì chứ, hoàng thân quốc thích…”
“Cho dù Vương gia nghĩ như thế nào thì Vương gia cũng là nghĩa tử của Thái hậu, đương nhiên phải là hoàng thân.”
“Kim bổ khoái...”
“Có ti chức!”
“Lẽ nào huynh ghét bỏ Dung Hoa sao?”
“Ơ hả?!”
“Quả nhiên là ân công ghét bỏ Dung Hoa...”
“Vương gia, vì sao lại nói lời này? Ti chức gánh không nổi!!!”
“Nếu ngày đó không có ân công cứu giúp, thì tính mạng Phạm Dung Hoa đã không còn, đâu thể có ngày hôm nay? Nhớ ngày ấy, ân công không chê thân phận áo vải của Dung Hoa, nguyện xả thân tương cứu, nhưng đến bây giờ Phạm Dung Hoa chỉ mới thay đổi thân phận, ân công đã xem Dung Hoa như kẻ xa lạ, lẽ nào không phải là ghét bỏ Dung Hoa sao?”
“...”, Kim Kiền trợn tròn mắt.
Chỉ thấy vị Vương gia thiếu niên trước mắt thần sắc nghiêm nghị, đôi con ngươi chiếu thẳng vào mình, mục quang kiên định, nhưng cũng khó giấu nổi ánh nước lấp lánh, tựa như sóng nước hồ thu dập dềnh, sóng sánh khiến cho Kim Kiền loạn nhịp hụt hơi, đầu óc choáng váng.
“Ti chức chưa từng nghĩ như vậy...”
“Vậy sau này Dung Hoa còn có thể tới tìm Kim bổ khoái nói chuyện phiếm không?”
“Đội ơn Vương gia không chê, ti chức nào dám…”
“Đừng gọi Dung Hoa là Vương gia nữa, Dung Hoa thấy không quen...”
“Ti chức không dám!!!”
“Haizz...”, Phạm Dung Hoa vẻ mặt thất vọng, thở dài, nhìn Kim Kiền một cái, rồi đột nhiên hai mắt sáng lên, bước lên mấy bước, ở bên cạnh Kim Kiền đánh giá hai lượt, gật gật đầu nói, “Kim bổ khoái tuổi tác ước chừng còn nhỏ hơn Dung Hoa, từ nhỏ Dung Hoa đã ước ao có một đệ đệ, sau này ta sẽ gọi đệ là Tiểu Kim nhé”.
“... Đội ơn Vương gia yêu thích...”, khóe môi Kim Kiền giật giật.
Kim Kiền, cái người được mệnh danh đệ nhất chém giá ngoài chợ ở Đông Kinh Biện Lương, hôm nay thất bại thảm hại, mũ giáp tả tơi mà quay về.
Vì vậy trong đoàn khâm sai, thường bắt gặp những câu như thế này:
“Tiểu Kim, đừng ăn nhiều quả dại như vậy, không tốt cho thân thể đâu.”
“Tiểu Kim, Triệu Hổ đại ca kêu đệ đi hỗ trợ, sao lại từ chối?”
“Tiểu Kim, sao lại ăn mặc lôi thôi thế kia? Mau chỉnh trang gọn gàng lại, để như thế còn ra thể thống gì?!”
“Tiểu Kim, sao lại không cẩn thận vậy, áo quần rách cũng không biết khâu vá...”
Thế nên ánh mắt khó hiểu của mọi người đều biến thành ánh mắt xem náo nhiệt.
Vì vậy, đương lúc Kim Kiền quẫn bách, cùng đường bí lối, không cách nào thoát thân, liền hạ quyết tâm bất chấp nguy hiểm cũng phải đi tìm cái vị thần tượng trong lòng Phạm tiểu vương gia để xin viện trợ, ấy thế mà người nào đó chỉ nhẹ nhàng buông ra một câu:
“Triển mỗ có tài có đức gì mà ý kiến có thể chi phối Vương gia được?”
Nói rồi, thúc ngựa lướt đi.
Bỏ lại Kim Kiền ngu mặt đứng nguyên tại chỗ, mặc cho phía sau ma âm lại vang lên:
“Tiểu Kim, ta đã vá y phục của đệ xong rồi, mau tới xem thử...”
Mẹ ơi, sao bỗng dưng vô duyên vô cớ lại có thêm một bà má già thích lảm nhảm vậy chứ!
Tiểu Miêu, ngài thấy chết không cứu, thực là quá không trượng nghĩa rồi!
***
Mấy trăm người đoàn khâm sai, trùng điệp nhấp nhô, mất nửa tháng mới trở về Đông Kinh Biện Lương.
Hôm ấy, đoàn khâm sai của Bao đại nhân đi tới bên ngoài Nam Huân môn ngoại thành Biện Lương, thanh la dẹp đường vang rền, cờ phướn phấp phới, bách tính trong thành điều biết Bao đại nhân đã về, tất cả hân hoan lạ thường, đứng sắp hai bên đường chào đón.
Một thoáng, con đường bỗng trở nên chật ních, biển người đông nghịt khiến cho đội ngũ của Bao đại nhân bị ngăn trở, tất cả đều đi thong thả, ngay đến đội kỵ binh đi đầu cũng không thể không xuống ngựa đi bộ, tránh bất cẩn làm dân chúng bị thương.
Không dễ dàng gì mới tới nội thành, còn chưa vào cửa thì quan coi thành liền cấp tốc tới báo, nói rằng có người cung kính đợi ở cửa thành đã lâu, thỉnh Bao đại nhân hạ kiệu để gặp mặt.
Tin báo được truyền tới này khiến mọi người đều sửng sốt.
Nên biết lần này Bao đại nhân ra ngoài chính là phụng chỉ xuất hành, tới nơi nào đều như thánh giá giá lâm, lúc này tuy đã hồi kinh, nhưng còn chưa đến phục mệnh với Hoàng thượng, Bao đại nhân vẫn mang thân phận khâm sai, theo lý mà nói nếu có người tới nghênh đón cũng phải quỳ xuống trước kiệu, nào có cái lý mời khâm sai hạ kiệu gặp mặt.
Chỉ trừ trường hợp ngự giá giá lâm, hoặc là Vương gia chờ đợi đã lâu.
Bao đại nhân nghe xong, tất nhiên không dám trễ nải, liền vội vàng hạ lệnh dừng kiệu, chỉnh lại mũ quan, giũ giũ quan bào, kéo lại đai ngọc, hạ kiệu ra nghênh đón.
Hài quan còn chưa chạm đất đã nghe phía trước truyền tới tiếng cười sắc nhọn cao vút:
“Ha ha ha, Bao đại nhân chuyến này đi cực khổ rồi, chúng ta thi lễ trước ở đây.”
Chúng nhân ngước mắt lên nhìn, ai nấy đều kinh hoàng thất sắc.
Chỉ thấy phía trước đội nhân mã là một đoàn người, vận y phục bằng gấm đầu đội mão ngọc, tay cầm phất trần, đứng chỉnh tề hai bên.
Người đứng chính giữa, đầu đội mũ ô sa cẩn ngọc, thân vận bào gấm hoa đỏ, đai lưng vàng bạch ngọc, thắt lưng đeo tua ngọc phỉ thúy rủ dài, tay cầm một cây phất trần màu trắng bạc, trong suốt như tơ. Thân cao chưa đầy sáu thước, vai xuôi, bụng ỏng, eo lưng núc ních đầy những thịt rung rung lên xuống theo tiếng cười, mái tóc hoa râm, khuôn mặt tròn ủng, da dẻ sáng bóng, đôi hàng lông mày bạc vặn vẹo kéo đến tận tóc mai, hai con mắt ti hí gian tà, bọng mắt chảy xệ, cặp môi ửng đỏ, cái cằm trơn nhẵn, tuổi tác chí ít cũng phải khoảng sáu mươi.
Tiển Chiêu lùi lại phía sau vài bước không một tiếng động, không dấu vết đứng bảo vệ bên cạnh chiếc kiệu mạc ở phía sau kiệu quan của Bao đại nhân. Ngồi trong chiếc kiệu ấy chính là Lý hậu nương nương cung Ngọc Thần; đứng kế bên kiệu là Phạm Dung Hoa với vẻ mặt nghiêm nghị ngưng trọng.
Công Tôn tiên sinh vừa liếc đôi mắt phượng, ánh mắt quét qua, Tứ đại hiệu úy cùng lắc mình, nghiêm cẩn đứng hai bên Bao đại nhân.
Kim Kiền tuy không rõ vì sao, nhưng nhìn thấy tình hình không tốt, cũng lập tức lui lại vài bước, theo sát phía sau Triển Chiêu.
Chỉ thấy Bao đại nhân sắc mặt nghiêm lại, đôi mắt sắc bén long lên, lập tức phát ra quan uy, tiến lên một bước ôm quyền nói: “Bao Chửng không biết Quách Hòe, Quách công công đợi đã lâu, thất lễ rồi!”.
Những lời này vừa thốt ra thì chợt nghe thấy tiếng hít khí lạnh trong kiệu của Lý hậu.
Kim Kiền liền run rẩy, nghĩ thầm:
Cái lão tròn vo, sáng bóng như bôi dầu này chính là Quách Hòe ô danh lẫy lừng đây sao?
Nom hệt như cái bánh trôi to đùng trơn bóng toàn dầu nát nát đầy những lông với tóc!
Tiêu rồi tiêu rồi, boss đã bất ngờ xuất trận, phe ta trang bị cấp bậc đều không đạt chuẩn, chuẩn bị tinh thần chết luôn cho nhanh!