Đêm Đầu Tiên

Chương 15




Mô hình thiên cầu

-Đó là một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất từ các công xưởng của thế kỷ XVI. Một số xưởng sản xuất mang tên của Arsenius. Chúng sản xuất ra các dụng cụ đo thiên thể ngày xưa và các mô hình thiên cầu. Gauthier là họ hàng của nhà toán học Gemma Frisius người đã công bố các điều ước quốc tế tại Antwerp năm 1553 chứa các công bố đầu tiên về nguyên tắc phép đạc tam giác, và một nguyên tắc để xác định các kinh độ. Cái cậu đang xem thật sự là một món đồ hiếm, có giá phù hợp với nó.

-Ông nói cái này ấy à?

-Vô giá, nếu nó là nguyên bản gốc, người bán đồ cổ nói trong khi sắp xếp các dụng cụ đo thiên thể ngày xưa xung quanh mình. Thật không may, nó chỉ là một bàn sao, có lẽ được làm vào cuối thế kỷ XVIII bởi một người Hà Lan giàu có mong muốn gây ấn tượng với bạn bè của mình. Tôi đang buồn chán, người chủ tiệm đồ cổ nói kèm một tiếng thở dài, cậu có muốn uống cà phê không? Đã rất lâu rồi tôi không có vinh dự nói chuyện với một nhà Vật lý thiên văn.

-Làm sao ông biết nghề nghiệp của tôi? Tôi hỏi, sửng sốt.

-Rất ít người biết cách xử lý dễ dàng các vật dụng này, và cậu không có đầu óc của một thương gia, không cần quá sâu sắc để có thể đoán được nghề nghiệp của cậu. cậu tìm gì ở cửa hiệu của tôi? Tôi có một số thứ có giá cả hợp lý hơn.

-Tôi có lẽ sẽ làm ông thất vọng nhưng những gì tôi quan tâm đến chỉ là một chiếc hộp máy ảnh cũ.

-Thật là một ý tưởng lạ lùng, nhưng không bao giờ là quá muộn để bắt đầu một bộ sưu tập mới, để tôi cho cậu xem một vài thứ sẽ kích thích cậu, tôi chắc đấy.

Người chủ tiệm đồ cổ giàn ua đi đến thư viện và lấy ra một quyển sách bọc da cũ. Ông đặt nó lên bàn, chỉnh lại kính và mở những trang sách được bảo quản một cách tuyệt vời.

-Đấy, ông nói, nhìn xem, đây là bản vẽ của một mô hình thiên cầu rất đặc biệt. Chúng ta mắc nợ Erasmus Habermel, người tạo ra các dụng cụ toán học cho hoàng đế Rudolph II.

Tôi cúi xuống bản vẽ và ngạc nhiên khi thấy một bản vẽ trông giống hệt những gì tôi và Keira phát hiện được dưới chân của một con sư tử bằng đá trên đỉnh núi Ha Shan. Tôi ngồi trên ghế và cố dán mắt vào bản vẽ tuyệt vời này.

-Nhìn đi, ông chủ tiệm nói, nhìn qua vai tôi vì tính chính xác của bản vẽ này quá hoàn hảo. Điều gì đã luôn cuốn hút tôi trong lĩnh vực về các mô hình thiên thể, ông thêm vào, không những là họ cho phép chu1ngta xác định vị trí của các ngôi sao trên bầu trời trong một thời điểm nhất định, mà là những gì họ không chỉ bảo cho chúng ta, dù tôi chỉ đoán thế thôi.

Tôi nhìn vào cuốn sách quý của ông rồi quay sang nhìn ông, tò mò về những gì ông sắp nói.

-Chân không và ông bạn thời gian của ông ta! Ông nói, đầy vui vẻ. Chân không là một khái niệm thật lạ. Một lỗ trống được lấp đầy bởi những thứ vô hình. Như việc xuyên qua thời gian và thay đổi mọi thứ, nó thay đổi quá trỉnh của các ngôi sao, những hòn đá vũ trụ của một quá trình vận động vĩnh cửu. Chính ông là ngưởi đã để con nhện khổng lồ của sự sống giăng tơ trên chiếc khung vũ trụ. Lực hấp dẫn mà đến giờ chúng ta vẫn không hề biết, cậu có nghĩ thế không? Cậu thật thân thiện với sự ngạc nhiên mà không ai có được. Tôi sẽ bán cho cậu mặt hàng này với giá cậu muốn.

Ông chủ tiệm đồ cổ nói thì thầm vào tai tôi mức giá ông muốn tôi trả cho quyển sách này. Keira đang vắng mặt, tôi mua quyển sách.

-Nhớ trở lại nhé, ông chủ tiệm nói khi chân tôi đã đặt ở ngưỡng cửa, tôi còn và thứ thú vị khác muốn cho cậu xem, sẽ không phí thời gian của cậu đâu, tôi đảm bảo, ông nói vui vẻ.

Ông đóng cánh cửa phía sau tôi lại bằng chìa khóa, và từ ngoài cửa sổ, tôi thấy ông biến mất vào căn phòng phía sau.

Tôi bước ra đường với quyển sách to kẹp dưới tay, tự hỏi mình vì sao lại mua nó. Điện thoại trong túi run lên. Tôi trả lời và nghe giọng Keira. Em nói rằng Jeanne sẽ rất vui lòng chào đón chúng tôi trong cả buổi chiều và qua đêm. Tôi sẽ ngủ trên chiếc tràn kỷ trong khi chị em cô cùng ngủ trên giường. Và như thể lịch trình này còn chưa đủ cải thiện cuối ngày của tôi, em nói em đang đi thăm Max. Công xưởng của người thợ in không xa chổ Jeanne, em sẽ đi bộ khoảng mười phút. Em nói em thật lòng muốn kiểm tra vài thứ với anh ta và hứa sẽ gọi lại cho tôi ngay khi mọi chuyện xong xuôi.

Tôi lạnh người, nói với cô ấy tôi rất vui về bữa ăn tối đang đợi chúng tôi, và chúng tôi ngắt máy.

Tại góc đường Rue des Lions St. Paul, tôi không biết phải làm gì và phải đi đâu.

Không biếtđã bao nhiêu lần tôi thầm cự nự, chẳng thèm cho tôi một phút thư giản. vào cuối buổi trưa, tôi đi dạo một mình bên bờ sông Seine. Tôi dâng lên một cảm giác kỳ lạ và khó chịu khi bị mắc kẹt hai lần trong một ngày.Kẻ vô công rỗi nghề thường làm như thế nào. Tôi vẫn thường nhìn thấy họ, nằm dài trên ghế, đọc sách hay mơ mộng và chưa bao giờ tự hỏi về số phận của họ. Tôi lẽ ra nên gửi một tin nhắn cho Keira, nhưng tôi đã không làm vậy. Walter sẽ khuyến khích mạnh mẽ điều đó. Tôi muốn đến xưởng in của Max. Từ đó chúng tôi có thể đi với Jeanne, mua thêm hoa trên đường. Đó chính xác là những gì tôi mơ khi tôi rảo bước trên con đường dẫn tôi đến Saint-Loius. Giấc mơ này, có thể đạt được thật đơn giản, nhưng lại không thể thực hiện. Keira nói tôi ghen, và đó thì không phải phong cách của tôi, cuối cùng…

Tôi di chuyển đến phía dưới mái hiên của một quán nhỏ trên góc đường Rue des Deux-Ponts. Tôi mở quyển sách và đắm mình vào việc đọc khi xem giờ trên đồng hồ. Một chiếc taxi dừng lại phía trước tôi, một người đàn ông bước xuống. Ông ta mặc một chiếc áo choàng vào cầm một túi nhỏ trong tay. Ông ta bước đi vội vàng trên cầu cảng Quai d’Orleans. Tôi chắc chắc rằng đã nhìn thấy ông ta trước kia, nhưng tôi không nhớ ở trong hoàn cảnh nào. Những bước chân của ông biến mất sau cánh cổng.

****

Keira ngồi trong góc văn phòng.

-Chiếc ghế thì thoải mái hơn đấy, Max nói, ngước mắt lên, anh đang đọc một tài liệu.

-Em đã mất thói quen ngồi trên những thứ mềm mại trong vài tháng gần đây.

-Em thật sự đã ở tù mấy tháng?

-Em đã nói rồi mà, Max, tập trung vào văn bản đi và cho em biết anh đang nghĩ gì.

-Anh nghĩ rằng kể từ khi em thường xuyên gặp phải những tình huống này, có thể gọi như thế này, như là một bạn đồng hành, cuộc sống của em chẳng giống bất kỳ thứ gì khác nữa. Anh thậm chí không hiểu vì sao em vẫn tiếp tục gặp anh ta sau tất cả mọi chuyện đã xảy ra với em. Khỉ thật, anh ta hủy hoại nghiên cứu của em, điều đó không có nghĩa các nhân viên của em đã đạt được công việc em đang dang dỡ. cơ hội không đến hai lần. Và em mong chờ tìm kiếm những thứ thật tầm thường.

-Max, cho bài học đạo đức là em có một người chị làm trong lĩnh vực này, em đảm bảo với anh mình đang ở trong trạng thái tốt nhất, đừng có đi lạc đề. Và cũng đừng có làm lãng phí thời gian cua anh. Anh nghĩ gì về giả thuyết của em?

-Và nếu mà anh có nói với em, em sẽ làm gì? Em sẽ đi đến Crete để thăm dò biền Địa Trung Hải, sẽ bơi thuyền đến Syria? Em sẽ làm bất kỳ điều gì, chẳng thèm quan tâm mình sẽ làm như thế nào. Em có thể để lại cả tính mạng của mình, như ở Trung Quốc, em không ý thức được.

-Vâng, hoàn toàn, nhưng như anh thấy này, da* em vẫn rất đẹp, em chẳng cần chút kem dưỡng nào…

-Đừng có xấc xược như thế, làm ơn.

-Hmmm, Max của em, em rất thích khi anh giở giọng điệu giáo sư của mình ra với em. Em nghĩ đó là những gì thu hút em nhất khi còn là sinh viên của anh, nhưng giờ em không phải là học trò anh nữa. Anh không biết gì về Adrian hết, không biết tí gì về cuộc hành trình mà bọn em đã thực hiện, do đó, nếu yêu cầu nho nhỏ em nhờ anh là quá nhiều, tốt thôi, trả lại cho em tờ giấy rồi em sẽ để anh yên.

-Nhìn thẳng vào mắt anh này và cho anh biết làm cách nào cái văn bản này sẽ giúp ích cho em trong cuộc tìm kiếm em đã tìm tòi trong mấy năm qua?

-Nói cho em biết đi, Max, anh không phải là một giáo sư khảo cổ sao? Anh đã dành bao nhiêu năm nghiên cứu và giảng dạy trước khi trở thành một thợ in? nhìn thẳng vào mắt em đây này và giải thích cho em biết làm thế nào công việc mới của anh có bất kỳ điều gì liên quan đến những gì anh đã làm trong quá khứ? Cuộc sống đầy những bất ngờ, Max. Em đã đến thung lũng Omo hai lần, có lẽ đây là lúc em tự chất vấn mình về tương lai của bản thân.

-Em đang say mê với loại hình này vào thời điểm vô nghĩ như thế này ư?

-Điều này, như anh nói, có lẽ đầy những thiếu sót, anh ấy có thể lơ đễnh, thỉnh thoảng hay mơ mộng viễn vong, nhưng là một điều gì đó mà em chưa hề biết trước đây. Anh ấy lôi cuốn em, Max, kể từ khi em biết cuộc sống của em như bất kỳ thứ gì, thực vậy, anh ấy khiến em cười, chạm đến em, khiêu khích em, và anh ấy khiến em yên lòng.

-Điều này tồi tệ hơn anh nghĩ. Em yêu anh ta.

-Đừng khiến em nói những thứ em đã không nói.

-Em đã nói, và thật đáng lo nếu em không nhận ra mình đang thật ngu ngốc.

Keira đứng dậy và bước ngang văn phòng để nhìn ra cửa kính của xưởng in. Cô nhìn các con quay đang kéo các cuộn giấy dài với tốc độ điên cuồng. Âm thanh ngắt quãng vang lên đến tầng lửng. Chúng ngừng lại, và im lặng ngự trị trong công xưởng đã đóng cửa.

-Điều đó làm em rối loại? Max nói, và sự tự do xinh đẹp của em?

-Anh có thể đọc văn bản hay là không? Cô cằn nhằn.

-Anh đã đọc nó hàng trăm lần kể từ lần viến thăm cuối cùng của em. Và anh nghĩ rằng em đang lơ đễnh.

-Max, làm ơn.

-Gì cơ? Anh vẫn còn cảm giác với em? Sự khác biệt không đến từ em, đó là vấn đề của anh, không phải của em.

Keira bước đến cửa văn phòng, mở nó và đi mất.

-Trở lại đây, đồ ngốc! Max ra lệnh. Quay lại và ngồi xuống góc phòng anh. Anh sẽ nói cho em nghe những gì anh nghĩ về lý thuyết của em. Có lẽ anh sai rồi. Ý nghĩ học sinh đã vượt qua giáo viên không khiến anh hài lòng, nhưng anh vẫn phải tiếp tục giảng dạy. Có thể với văn bản của em, từ “cao điểm” đã bị nhầm với từ “ngôi mộ” và khiến nó thay đổi ý nghĩa. Ngôi mộ là những ngôi mộ, lăng mộ dành cho tổ tiên được dựng lên bởi những người Ai Cập và Trung Quốc, có sự khác biệt: nếu các căn phòng dùng để chôn cất được dẫn vào từ các hành lang, các ngôi mộ được xây dựng phía dưới lòng đất và không phải là trung tâm của một kim tự tháp hay bất kỳ công trình nào khác. Anh không nói hết với em mọi thứ, nhưng có lẽ sẽ nói cho em điều này, nhưng đây lại là điều liên quan đến sự giải thích này. văn bản mà em tìm thấy có lẽ thuộc vào những ngày thứ tư hoặc thứ năm của thiên niên kỷ trước Công Nguyên. Cái cho chúng ta biết đầy đủ về lịch sử sơ khai, đầy đủ về những con người tạo ra châu Á.

-Nhưng người Semite, những người đứng phía sau văn bản này không phải là người châu Á. Nếu như kiến thức hồi còn ở đại học của em vẫn tốt.

-Em trở nên thận trọng hơn anh nghĩ rồi đấy! Không, trên thực tế, tổ tiên của họ là người Atro-Asiatic, có liên quan đến người Berber và người Ai Cập. Họ xuất hiện ở sa mạc của Syria vào khoảng thiên niên kỷ thứ VI trước Công Nguyên. Nhưng họ chắc chắc có liên hệ với nhau, nhóm người này liên quan đến lịch sử của nhóm người khác. Những người khiến em quan tâm, cũng như một phần giả thuyết của em, thuộc về một nhóm người mà anh đã từng nói qua một chút trong suốt thời kỳ của những ngôi mộ dưới lòng dất của người Hy Lạp cổ đại. Vào đầu thiên niên kỷ thứ IV, những người Hy Lạp cổ này rời Hy Lạp đến định cư tại phía nam Italy. Họ được tìm thấy ở Sardinia. Họ khời hành từ Anatolia, từ đó họ đi thuyền để tìm đến những nền văn minh mới trên các hòn đảo và bở biển Địa Trung Hải. Không có bằng chứng nào cho thấy họ đã tiếp tục cuộc hành trình đến Ai Cập thông qua Crete. Anh đang cố gắng nói rằng người Semite hay tổ tiên của họ cũng có thể nằm trong văn bản này liên quan đến một sự kiện thuộc về lịch sử của các ngôi mộ dưới lòng đất của người Hy Lạp cổ đại.

-Anh nghĩ một trong những người Hy Lạp cổ có thể chèo thuyền lên sông Nile, sông Nile xanh?

-Lên đến Ethiopia? Anh nghi ngờ điều đó, dù sao đi nữa, một chuyến đi xa như vậy không phải là việc của một người, mà là một nhóm người. Trong vòng hai hoặc ba thế hệ, chuyến đi này mới được hoàn thành. Dù vậy, anh có xu hướng thiên về việc nó được hoàn thành theo hướng khác, từ phía đồng bằng. Một ai đó có lẽ đã chỉ dẫn cho em những điều bí ẩn của người Hy Lạp cổ. Em cần phải nói cho anh biết, Keira, nếu em thật sự muốn anh giúp em.

Keira bắt đầu bước trở vào căn phòng rộng rãi.

-Bốn trăm triệu năm trước, có năm mảnh vỡ là những vật thể duy nhất chứa những đặc tính đáng kinh ngạc.

-Điều đó thật vô lý, Keira, hãy thừa nhận nó. Không có sự sống nào phát triển đủ để làm bất kỳ điều gì. Em biết điều đó mà, cũng như anh, đó là điều không thể! Max gào lên.

-Nếu Gaileo tuyên bố rằng một ngày nào đó chúng ta có thể đưa một kính viễn vọng vào khoảng không trong Thái dương hệ, ông ấy chắc chắn sẽ bị thiêu chết trước khi kịp hoàn thành câu nói của mình, nếu Ader tuyên bố một ngày con người có thể đi bộ trên mặt trăng người ta sẽ rút hết các thiết bị bay của ông trước khi ông kịp rời khỏi mặt đất. Hai mươi năm trước, mọi người đều cho rằng Lucy là tổ tiên lâu đời nhất của chúng ta, và nếu vào thời gian đó anh có ý kiến rằng thủy tổ của loài người xuất hiện cách đây mười triệu năm anh sẽ bị tống cổ khỏi vị trí của mình ở trường đại học ngay lặp tức.

-Hai mươi, anh đã nghiên cứu lại!

-Tóm lại, nếu em phát thảo ra những tuyên bố tưởng chừng không thể thành hiện thực việc đó đòi hỏi chúng ta phải thức mấy đêm liền để lên một danh sách.

-Chỉ một thôi cũng đủ khiến anh hạnh phúc rồi. (chẹp, ở đây nghĩ là chỉ thức một đêm với Keira cũng đủ khiến ổng hạnh phúc rồi, không cần đến “mấy đêm liền”…)

-Anh thật thô thiễn, Max! em chắc rằng bốn hoặc năm ngàn năm trước đây một ai đó đã phát hiện ra những vật thể này. Vì vài lý do em vẫn chưa thể hiểu hết, ngoại trừ có lẽ nổi sợ hãi đã đánh thức các thuộc tính, người hay những người đó đã quyết định không phá hủy nó mà tách nó ra thành từng mảnh. Và đó có lẽ là những dòng đầu tiên của bản thảo.

Dưới các tam giác sao, tôi đã phó thác cho các thầy pháp chiếc dĩa của những quyền hạn, đã được tách các phần hợp trại.

-Anh không muốn ngắt lời em, nhưng “dĩa của quyền hạn” giống như lời dẫn cho kiến thức, kiến thức. Và nếu anh sẵn sàng tham gia trò chơi của em, anh sẽ cho em biết rằng có lẽ nó được tách ra với mục đích là mỗi mảnh mang thông tin được đặt tại một biên giới của thế giới.

-Có thể, nhưng nó không phải là những gì được nói đến ở cuối phần văn bản. Để có một trái tim trong sạch, để nhìn thấy nơi các mảnh vỡ bị phân tán. Chúng ta có hai, và cái thứ ba đã được tìm thấy, nhưng vẫn còn những mảnh khác. Nghe này, Max, em đã dừng nghĩ về phần văn bản tiếng Geez trong suốt thời gian em ở tù, đặc biệt là dòng thứ hai “phó thác cho các thầy pháp”. Anh nghĩ ai là Thầy pháp?

-Các học giả, hoặc cũng có thể là người đứng đầu các bộ lạc. ‘Thầy pháp’ là chủ nhân, nếu em thích nói thế.

-Anh là thầy giáo của em? Keira hỏi với giọng điệu mỉa mai.

-Một thứ tương tự thế, đúng vậy.

-Vậy đó chính là giả thuyết của em, thưa thầy, Keira nói. Mảnh đầu tiên được tìm thấy trên miệng núi lửa ở giữa một cái hồ trên biên giới của Ethiopia và Kenya. Chúng em đã tìm thấy một mảnh khác, cũng trên miệng một núi lửa, lần này là trên một hòn đảo thuộc quần đảo Narcondam Andamam. Thứ khiến chúng ta đi đến phía nam và phía đông. Vài trăm cây số từ thượng nguồn các con sông lớn. Sông Nile và sông Nile xanh có một mảnh, và sông Irrawaddy và sông Dương Tử có một mảnh khác.

-Rồi tiếp theo? Max ngắt lời.

-Hãy chấp nhận rằng vì một vài lý do mà em không thể giải thích, vật này đã cố tình được chia làm bốn hoặc năm phần, và được đặt rải rác ở các nơi trên khắp hành tinh. Một mảnh được tìm thấy ở phía đông, một ở phía nam, cái thứ ba đã được phát hiện cách đây hai mươi hoặc ba mươi năm…

-Nó ở đâu?

-Em không biết.Đừng ngắt lời em nữa Max. Nhưng em sẵn sàng cược rằng hai mảnh còn lại đang ở phía bắc và phía tây so với những mảnh khác.

-Anh ghét làm phiền, anh thấy anh đã bị làm phiền đủ nhiều rồi, nhưng phía bắc và phía tây, nó đủ lớn để…

-Tốt thôi, nếu anh đangcố làm em vui, em muốn về nhà.

Keira nhảy xuống và lần thứ hai đi về phía cánh cửa của văn phòng của Max.

-Dừng lại, Keira! Em luôn hành xử như một đứa trẻ, em thật phiền phức, chết tiệt thật. Cái này là độc thoại hay đối thoại? đi đi, theo đuổi lý luận của em, anh sẽ chằng thèm ngắt lời em nữa đâu.

Keira quay trở lại và ngồi kế bên Max. Cô lấy một tờ giấy và vẽ một bản đồ thế giới đơn giản chỉ đại diện cho những lục địa lớn.

-Chúng ta đều biết các tuyến đường chính trong những cuộc di cư đầu tiên cho thấy dân cư trên hành tinh. Bắt đầu từ châu Phi, đoàn người di cư đầu tiên đánh một đường về hướng châu Âu, đoàn người thứ hai đi về châu Á, Keira tiếp tục bằng cách vẽ một mũi tên lớn lên tờ giấy, và phân chia dọc theo biển Andaman. Một số tiếp tục đi đến Ấn Độ, băng qua Burma, Thái Lan, Cambochia, Việt Nam, Indonesia, Philippin, đến Australia và vài nơi khác, cô vẽ thêm một mũi tên khác, hướng về phía bắc, vượt qua Mông Cổ và Nga, đi lên sông Yana, hướng đến eo biển Bering. Vào kỷ băng hà, một nhóm người thứ ba đi thuyền từ Greenland dọc theo bờ biển từ mười lăm đến hai mươi ngàn năm trước, trên bờ biển giữa Alaska và biểu Beaufort. Sau đó họ đến Bắc Mỹ rồi Monte Verde nơi đoàn người thứ tư đã đến đó cách đây mười hai đến mười lăm ngàn năm. Điều này có lẽ là cùng một tuyến đường với những người mang theo các mảnh vỡ cách đây bốn ngàn năm. Một bộ tộc sứ giả đã đến Andaman và kết thúc cuộc hành trình của họ trên một hòn đảo của Narcondam. Phần còn lại đi đến thượng nguồn sông Nile, đến biên giới giữa Kenya và Ethiopia.

-Em nhận ra rằng hai trong số “những người truyển tin” đã đi về phía tây và phía bắc, mang theo những mảnh vỡ khác?

-Nó nói rằng: tôi đã phó thác cho các thầy pháp chiếc dĩa của những quyền hạn, đã được tách các phần hợp trại. Một nhóm sứ giả, kể từ chuyến đi có thể thực hiện trong một thế hệ, giống như đeo mặt dây chuyền của em cho Thầy pháp của đoàn người đầu tiên.

-Gỉa thuyết của em có vẽ hợp lý nhưng không có nghĩ là nó đúng. Hãy nhớ lại những gì anh đã dạy em trong giảng đường. Không phải chỉ bởi vì nó trong có vẻ hợp lý mà giả thuyết này vẫn chưa được chứng minh.

-Và anh cũng muốn nói rằng không phải chúng ta không tìm ra điều gì mà là vì những điều này không hề tồn tại!

-Em muốn gì từ anh, Keira?

-Muốn anh nói với em những gì anh sẽ làm trong việc này của em, cô nói.

-Anh sẽ không say mê người phụ nữ mà em đã trờ thành, nhưng anh vẫn luôn giữ một phần cỏn là học sinh của em. Một cái gỉ đó.

Max đứng dậy và bước từng bước dài qua văn phòng.

-Em đang phát chán với những câu hỏi của chính em, Keira, anh không biết anh có thể làm được gì cho em, nếu anh giỏi về lĩnh vực đoán mò anh đã từ bỏ nhựng bức tường dơ bẩn của trường đại học để làm công việc của mình, thay vì dạy học.

-Anh sợ rắn, ghét côn trùng, sợ sự thiếu thoải mái, đó là những thứ vượt quá khả năng của anh, Max, anh cũng như người bình thường thôi, đó không phải là một nhược điểm.

-Dù vậy, nó rõ ràng khiến em hài lòng!

-Dừng việc đó lại và trả lời em này, anh sẽ làm được gì cho em?

-Em đã nói mảnh vỡ thứ ba được tìm thấy cách đây ba mươi năm, anh sẽ bắt đầu bằng cách cố tìm ra chính xác nơi nó dược tìm thấy. Nó nằm trên một miệng núi lửa cách một con sông lớn trong khoảng từ mười đến vài trăm kilomet, nằm ở phía tây hoặc phía bắc, đây có thể là những thông tin hổ trợ cho lập luận của em. Tuy nhiên, nếu như nó được tìm thấy ở Beauce, hoặc ở giữa một cánh đồng khoai tây ở miền quê nước Anh, giả thuyết của em sẽ bị vứt vào thùng rác và em sẽ phải bắt tay làm lại từ đầu. Đó là tất cả những gì anh có thể làm cho em trước khi em đi đến một nơi mà anh không biết. Keira, em đang tìm kiếm một mẫu đá được đặt đâu đó ở một nơi bất kỳ trên địa cầu, điều đó là phi thực tế!

-Bởi vì dành cả cuộc đời của mình để đào bới những bộ xương cổ cách đây hàng trăm ngàn năm trong một vùng thung lũng khô cằn, mà chẳng có gì chắc chắn trong tay ngoại trừ trực giác là điều phi thực tế! tìm thấy một kim tự tháp bị chôn vùi dưới cát sa mạc không phải là một điều không tưởng sao? Công việc của chúng ta là tập hợp lớn những điều không tưởng, Max, nhưng giấc mơ của tất cả chúng ta là khám phá ra tất cả những gì chúng ta cố gắng biến nó thành hiện thực!

-Đây không phải là lúc để đề cập đến vấn đề này. Em hỏi anh là anh có thể là gì cho em, anh đã trả lời. Hãy cố tìm được nơi mảnh thứ ba được phát hiện và em sẽ biết được rằng mình có đi đúng hướng không.

-Nếu đúng thì sao?

-Trở về bên anh và chúng ta sẽ cùng nhau suy nghĩ về cách em phải mượn tiền để tiếp tục giấc mơ của mình. Giờ anh phải nói vớ em vài thứ có thể làm em khó chịu.

-Điều gì?

-Em chẳng hề để ý khoảng thời gian đã trôi qua khi ở bên cạnh anh, anh rất vui, nhưng bây giờ đã là 21h30, anh rất đói, em ăn tối chứ?

Keira nhìn vào đồng hồ và nhảy dựng lên.

-Jeanne, Adiran, khỉ thật!

Đã gần mười giờ đêm khi Keira run chuông cửa căn hộ của chị cô.

-Em không muốn ăn à? Jeanne hỏi khi mở cửa.

-Adrian có đây không ạ? Keira hỏi , nhìn qua vai chị mình.

-Ít nhất cậu ấy cũng có một món quà du lịch, chị không thấy làm thế nào điều này lại có thể xảy ra.

-Em cho anh ấy một cuộc hẹn…

-Và em đã nói cho cậu ấy mã của tòa nhà chứ?

-Anh ấy không gọi ạ?

-Em có đưa cậu ấy số nhà à?

Keira im lặng.

-Trong trường hợp này có thể cậu ấy đã để lại một lời nhắn ở văn phòng chị. Nhưng chị đã về sớm để chuẩn bị bữa ăn cho em, mà em sẽ tìm thấy… trong thùng rác. Nó khét, em sẽ không thèm quan tâm!

-Adrian ở đâu?

-Chị nghĩ cậu ấy đi với em, chị nghĩ em đã quyết định có một buổi chiều lãng mạn.

-Không, em ở với Max…

-Tốt thật, chị có thể biết lý do tại sao không?

-Vì cuộc nghiên cứu của tụi em, Jeanne, nó không thể bắt đầu. Vậy em có thể tìm anh ấy ở đâu?

-Gọi điện cho cậu ấy!

Keira gọi điện đến và nghe tiếng tôi trong hộp thư thoại. Ít ra tôi vẫn còn một chút lòng tự trọng! cô ấy để lại một tin nhắn dài… “Em xin lỗi, em đã không để ý đến thời gian, em biết mình không thể được tha thứ, nhưng rất thú vị. Em có vài thứ muốn nói với anh, anh ở đâu? Em biết bây giờ đã là mười giờ hơn nhưng làm ơn gọi cho em, gọi cho em!” và lần thứ hai cô ấy đưa cho tôi số điện thoại nàh của chị gái mình. Lần kết nối thứ ba cô ấy thật sự chẳng nghe được gì từ tôi. Lần thứ tư cô ấy bắt đầu phát điên. Lần thứ năm cô ấy buộc tội tôi là một kẻ xấu xe. Cuối cùng, lần thứ sáu, vào khoảng ba giờ sáng, cô ấy ngắt máy mà không thèm nói một lời.

Tôi đã ngủ trong một khách sạn nhỏ trên đường Saint-Loius. Sớm ăn xogn bữa sáng, tôi bắt một chiếc taxi đến nhà Jeanne. Mã vẫn còn ở văn phòng, tôi tìm thấy một chiếc ghế trên vỉa hè đối diện, đặt mình ngồi xuống và bắt đầu đọc báo.

Jeanne bước ra khỏi căn hộ ngay sau đó, cô ấy lặp tức nhìn thấy tôi và bước về phía tôi.

-Keira đã lo lắng đến phát ốm!

-Vậy thì chúng ta có đến hai người phát ốm!

-Tôi xin lỗi, Jeanne nói, tôi phát điên với nó.

-Tôi không giận đâu, tôi đáp lời ngay lặp tức.

-Cậu đúng là một gã ngốc!

Cùng với câu nói đó, Jeanne chào tôi và bước đi vài bước trước khi quay lại.

-Cuộc phỏng vấn cuối cùng của nó với Max tối qua đúng là chuyên nghiệp, nhưng tôi không nói gì đâu đấy!

-Chị có đủ tử tế để cho tôi mã của cánh cửa của chị không?

Jeanne viết nó ra một tờ giấy và đi làm.

Tôi vẫn ngồi trên ghế để đọc báo cho đến tận trang cuối rồi tôi đi qua tiệm bánh nhỏ ở góc đường để mua ít bánh ngọt.

Keira mở cửa, mắt vẫn còn mơ màng.

-Anh đã ở đâu? Cô hỏi, dụi mắt, em đã lo đến phát ốm.

-Croissant? Pain au chocolate? Hay cả hai?

-Adrian…

-Ăn sáng và thay đồ đi, Eurostar sẽ bắt đầu vào buổi trưa và chúng ta có thể đến kịp.

-Em phải đến chổ Inovy trước, điều đó rất quan trọng.

-Sự thật là, Eurostar có mỗi giờ, nên… Inovy sẽ thấy.

Keira pha cà phê cho chúng tôi và nói rằng cô ấy đã có một cuộc trò chuyện với Max. Trong khi cô ấy giải thích về giả thuyết, tôi nghĩ về mô hình thiên cầu. tôi không hiểu vì sao nhưng tôi muốn gọi cho Erwan. Sự mất tập trung tạm thời của tôi đã không thoát khỏi mắt Keira và cô ấy ra lệnh tôi phải lắng nghe.

-Em muốn anh đi cùng em để gặp ông giáo sư già đó? Tôi nói, ngắt ngang cuộc trò chuyện.

-Anh có thể nói cho em biết anh đã đi đâu đêm hôm qua không?

-Không, anh nói là anh có thể nói, nhưng anh sẽ chẳng nói với em đâu, tôi nói kèm một nụ cười toe toét.

-Em chả thèm quan tâm.

-Đừng nói đến chuyện đó nữa… Chúng ta sẽ đến chổ Inovy, phải không?

-Ông ấy vẫn chưa trở về viện bảo tàng, nhưng Jeanne có đưa cho em số nhà của ông ấy, em sẽ gọi.

Keira đi vào phòng chị mình, nơi để điện thoại, rồi cô ấy quay về phía tôi.

-Anh đã ngủ ở đâu?

Inovy đồng ý sẽ tiếp chúng tôi tại nhà, ông sống trong một căn hộ thanh lịch ở đường Saint –Loius… cách khách sạn tôi ở chỉ hai bước chân. Khi cánh cửa mở tôi nhận ra người đàn ông bước xuống từ taxi khi tôi ngồi đọc sách bên hiên của một quán rượu vào ngày hôm qua. Ông mời chúng tôi vào phòng khách và cho chúng tôi trà và cà phê.

-Thật vui vì có thể thấy cả hai người, tôi có thể giúp gì?

Keira đi thẳng vào vấn đề, cô hỏi ông liệu ông có thể cho biết nơi phát hiện ra mảnh vỡ mà ông đã nói ở bảo tàng hay không.

-Nếu cô nói trước với tôi rằng cô có hứng thú?

-Tôi nghĩ rằng tôi đã có tiến triển trong việc giải mã ngôn ngữ Geez.

-Đó là thành quả cao nhất. Cô đã biết được những gì?

Keira giải thích suy luận của cô ấy về những người Hy Lạp cổ đại. Vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV hay V trước Công Nguyên, người ta đã tìm thấy vật thể đó là tách nó ra. Trong bản thảo có nói, có những nhóm người được thành lập để mang những mảnh vỡ đó đi đến các nơi khác nhau trên thế giới.

-Đó là một sự kiện tuyệt vời, Inovy kêu lên, không thể vô nghĩa được. Ngoại trừ việc cô không có ý kiến gì để thúc đầy các chuyến đi này nguy hiểm hơn hay là không.

-Tôi có ý kiến của riêng tôi, Keira nói.

Dựa trên những gì đã biết được từ Max, cô gợi ý rằng có lẽ mỗi mảnh vỡ chứa một phần kiến thức của một người phải được phát hiện.

-Về điều này, tôi không đồng ý với cô, tôi có nhiều điều để nói về hướng ngược lại, Inovy vặn lại. Phần cuối của bản thảo nêu lên tất thảy các lý do để phải giữ bằng được bí mật này. Tự đọc đi. Điều đó được giấu trong tận cùng bóng tối vô tận.

Khi Inovy và Keira chúi đầu vào “bóng tối vô tận” làm tôi nhớ lại người bán đồ cổ ở phố Marai.

-Không phải thứ chúng ta biết được từ mô hình thiên văn là mánh khóe, mà đó phải là thứ họ không chỉ cho chúng ta, và ta buộc phải đoán, tôi lẩm bẩm.

-Xin lỗi? Inovy hỏi, quay lại phía tôi.

-Chân không và thời gian, tôi nói.

-Anh đang nói về điều gì thế? Keira hỏi.

-Đó chỉ là một ý tưởng không liên quan đến cuộc trò chuyện của em, nhưng chợt vụt qua đầu anh.

-Và cậu tìm ra những mảnh thất lạc ở đâu? Inovy hỏi.

-Những mảnh chúng tôi sở hữu được tìm thấy trên miệng núi lửa, cách những con sông lớn hàng chục cây số. Một ở phía đông, cái còn lại ở phía nam, tôi nghĩ rằng những mảnh khác nằm ở phía tây và bắc.

-Vậy là hai người có hai mảnh? Inovy khẳng định với đôi mắt lấp lánh.

Keira vào tôi trao đổi với nhau bằng ánh mắt, cô tháo mặt dây chuyền và tôi lôi ra từ túi áo khoác mình, chúng tôi đặt chúng lên bàn. Keira đính chúng lại với nhau, và tạo ra màu xanh lơ vẫn làm chúng tôi ngạc nhiên như mọi khi, nhưng giờ đây tôi nhận thấy các điểm lấp lánh đã yếu đi, dường như các mảnh vỡ đã mất dần sức ánh hưởng.

-Thật tuyệt diệu! Inovy kêu lên, tuyệt diệu hơn bất kỳ thứ gì tôi tưởng tượng.

-Ông đã tưởng tượng ra điều gì? Keira hỏi đầy tò mò.

-Không, không có gì đặc biệt, Inovy lúng túng, nhưng phải thừa nhận rằng điều này rất đáng ngạc nhiên, nhất là đối với tuổi của mẫu vật.

-Bây giờ ông có muốn nói cho chúng tôi biết nơi ông tìm thấy mảnh vỡ của mình không?

-Nó không phải của tôi, than ôi. Nó đã được tìm thấy cách đây ba thập kỷ trong dãy Andes ở Peru. Nhưng thật không may cho lý thuyết của cô, nó không được tìm thấy trong miệng một ngọn núi lửa.

-Chứ ở đâu? Keira hỏi.

-Khoảng một trăm năm mươi dặm về hướng đông bắc của hồ Titicaca.

-Trong trường hợp nào? Tôi hỏi.

-Một nhiệm vụ được dẫn đầu bởi các nhà địa chất học của Hà Lan và họ trở về thượng nguồn của sông Amazon. Mẫu vật được tìm thấy bở hình dạng đặc biệt của nó trong một hang động nơi các nhà thám hiểm ẩn nấp để đối phó với thời tiết. Nó sẽ không thu hút sự chú ý nhiều đến thế nếu người dẫn đầu đoàn thám hiểm không chứng kiến những điều tương tự như cậu. Trong suốt đêm giông bão, sét, tiếng sét gây nên những điểm sáng trên vách một căn lều. Sự kiện đáng ghi nhận này được phát hiện vào bình minh khi mảnh vãi lều bị xuyên thủng bởi ánh sáng. Hàng ngàn lỗ hỏng nhỏ được hình thành tại đó. Cơn bão hoành hành thường xuyên trong khi vực đó, nhà thám hiểm của chúng ta đã thực hiện các thí nghiệm nhiều lần và suy luận rằng nó có thể là một hòn đá nhỏ. Ông ta đã đem mảnh vỡ về để xem xét kỹ hơn.

-Có thể gặp nhà địa chất học đó không?

-Ông ta đã qua đời vài tháng sau đó, một cú ngã ngớ ngẩn trong một chuyến thám hiểm khác.

-Mảnh vỡ mà ông ta tìm được ở đâu?

-Ở đâu đó trong một nơi an toàn, nhưng là đâu? Tôi chẳng thể biết chắc.

-Nó không nằm trên một miệng núi lửa, nhưng thay vào đó,nó ở phía tây.

-Đúng, ít nhất chúng ta có thể nói thế.

-Và cách một nhánh sông Amazon vài chục giậm.

-Chính xác, Inovy nói.

-Hai trong ba giải thuyết đã chính xác, không quá tệ, cô ấy nói.

-Tôi sợ rằng điều đó không giúp ít gì cho việc tìm kiếm những mảnh còn lại. Hai trong số chúng được phát hiện một cách ngẫu nhiên, và mảnh thứ ba cô đã rất may mắn.

-Tôi đã phải treo mình trong không khí ở độ cao hai ngàn năm trăm mét, chúng tôi phải bay qua Miến Điện trên chiếc máy bay đã gãy cánh, nói là máy bay để xứng với tên của nó thôi, tôi đã không bị chết đuối và Adrian cũng không chết vì viêm phổi, bị giam ba tháng trong một nhà tù Trung Quốc, tôi thật sự chẳng nhìn thấy điều gì được ông cho là may mắn ở đây cả!

-Tôi không có ý muốn xem nhẹ tài năng của cô. Hãy để tôi suy nghĩ vài ngày về giả thuyết của cô, tôi sẽ trở lại phòng đọc sách, và nếu tôi có thể tìm thấy bất kỳ thông tin nào đóng góp được cho yêu cầu của cô, tôi sẽ gọi.

Keira ghi số điện thoại của tôi lên một mảnh giấy và đưa cho Inovy.

-Cô định đi đâu? Vị giáo sư tiễn chúng tôi ra đến cửa.

-Luân Đôn, cả hai chúng tôi, cho một vài nghiên cứu.

-Thật tốt khi ở nước Anh. Điều cuối cùng trước khi hai người đi: cô chỉ đúng bây giờ thôi, may mắn không cùng đồng hành trong chuyến du lịch của cô đâu, hãy vô cùng cẩn thận khi bắt đầu, đừng chỉ cho ai xem hiện tượng mà tôi vừa được chứng kiến trước đó.

Chúng tôi rời khỏi nhà vị giáo sư, đến lấy túi của tôi tại khách sạn, nơi mà Keira chẳng có ý kiến gì về buổi tối trước đó, tôi đi cùng cô ấy đến viện bảo tàng để ôm tạm biệt Jeanne trước khi rời đi.