Đế Bá - Lý Bát Dạ

Chương 14: Tu luyện




Hứa Bội khẽ kêu:

- Thiếu gia.

Trái tim Hứa Bội hoàn toàn thần phục, trong lòng nàng toàn là hình bóng của Lý Bát Dạ.

Lý Bát Dạ nhẹ gật đầu, chậm rãi nói:

-Nàng nghỉ ngơi đi.

Lý Bát Dạ nói xong, chậm rãi nhắm mắt lại, rất nhanh tiến nhập trạng thái không minh, bắt đầu sắp xếp lại một chút công pháp, bí kíp trong đầu.

Hứa Bội đứng dậy mặc quần áo lại, lẳng lặng khoác áo ngoài cho Lý Bát Dạ, bước nhẹ lui ra, không dám quấy rầy, nhưng đi đến cửa nàng không kiềm được, nàng thèm thuồng, ngoái đầu nhìn nam nhân thoạt nhìn không có gì đặc biệt kia.

....

Sau khi Hứa Bội rời đi, Lý Bát Dạ bắt đầu học Đế Thuật Hoạ Mi Lục Biến.

Các đời Tiên Đế đều sáng chế ra công pháp Đế thuật vô cùng khiếp người, trong đó bao gồm Thọ pháp để bồi dưỡng huyết khí, kéo dài tuổi thọ, Mệnh công để tu mệnh phạt địch, thể thuật để tẩy tuỷ đúc thể. Kể cả Thiên Mệnh Bí Thuật mà chỉ Tiên Đế mới có thể sáng tạo.Trong cả cuộc đời của mình, Minh Nhân Tiên Đế đã sáng tạo ra vô số công pháp. Bất kể là Thọ pháp, Mệnh công hay Thể thuật, Lý Bát Dạ đều cực kỳ quen thuộc.

Minh Nhân Tiên Đế do một tay hắn bồi dưỡng ra, đa số công pháp mà Minh Nhân Tiên Đế sáng chế đều có sự tham gia của Lý Bát Dạ, trong đó tất nhiên bao gồm cả Thiên Mệnh Bí Thuật. Mặc dù ở lần ngủ say vừa rồi, toàn bộ ký ức về công pháp của Lý Bát Dạ đều được Hắc Long Vương xoá đi, nhưng mà hắn vẫn có thể tìm lại đấy.

Đế thuật Hoạ Mi Lục Biến là môn Mệnh công mạnh nhất trong toàn bộ số Mệnh công mà Minh Nhân Tiên Đế từng sáng tạo.

Năm xưa, lúc Minh Nhân Tiên Đế còn trẻ, Âm Nha Lý Bát Dạ từng mang Minh Nhân Tiên Đế đứng xem Hoạ Mi giao phối từ xa. Minh Nhân Tiên Đế từ đó mà quy ra thành sáu cái động tác cơ bản, sáng chế ra Tiên Đế Mệnh Công – Hoạ Mi Lục Biến tiếng tăm lừng lẫy.

Theo Lý Bát Dạ tìm hiểu, sáu cái động tác xếp hình kì quái chậm rãi biến đổi trong đầu của hắn. Lúc thì hoạ mi tung cánh chín tầng trời, vỗ cánh bay ba ngàn dặm, lúc thì hoạ mi xông vào chín tầng địa đất, mổ xuyên cả địa phủ, có lúc lại tiến vào vực sâu, biến thành một đoản Côn to lớn....

Khi thì biến thành hoạ mi, khi lại biến thành đoản Côn, biến đổi càng ngày càng nhanh, không ngừng thay đổi, rốt cuộc đến lúc không cách nào phân biệt, chim biến thành côn, côn biến thành chim, hót vang chín tầng trời, phịch luôn đại đạo, Côn và hoạ mi chuyển hóa qua lại như nhật nguyệt chuyển hóa, tự nhiên mà phù hợp với đạo vận của trời đất.

"Ầm" Một tiếng vang thật lớn phát ra, hoạ mi ngừng hót, chết thẳng cẳng, chỉ trong nháy mắt, cả người Lý Bát Dạ chấn động kịch liệt, hoạ mi quạt sóng cao vạn trượng đột nhiên tiêu tan, sóng lớn ngập trời cũng giống vậy, tất cả mọi thứ chậm rãi biến thành đạo vận, đạo vận diễn hóa ra ảo diệu, vận chuyển đại đạo. Cuối cùng, từng cái phù văn trong ký ức vốn đã bị xóa đi lại lần nữa hiện ra rõ ràng trong đầu Lý Bát Dạ.

Những cái phù văn này khi thì biến thành hoạ mi, khi lại biến thành đoản Côn, ảo diệu biến hóa vô tận. Đến cuối cùng, chẳng thể phân biệt là Côn hay chim mà hóa thành một con hoạ mi nguyên vẹn thì một bộ Hoạ Mi Lục Biến hoàn chỉnh không hề khiếm khuyết xuất hiện trong đầu của Lý Bát Dạ.

Lý Bát Dạ vui vẻ vô cùng, trời không phụ lòng người, hắn cuối cùng cũng tìm lại được toàn bộ ký ức về Hoạ Mi Lục Biến.

Không biết đã qua bao lâu, Lý Bát Dạ rốt cuộc phục hồi tinh thần lại từ trong sự huyền diệu huyền bí của Hoạ Mi Lục Biến, bất tri bất giác hắn đã chìm đắm trong môn vô thượng mệnh công này hơn một giờ rồi.

Sau khi tìm hiểu những ảo diệu của Hoạ Mi Lục Biến, Lý Bát Dạ cũng không có làm biếng, tự đắc. Hắn hiểu rõ tình huống của bản thân hơn bất kì ai khác. Nếu so sánh với những thiên tài kia, bất luận Thể chất, Thọ luân hay là Mệnh cung, hắn đều thua kém rất nhiều, nên hắn càng phải chăm chỉ nỗ lực tu hành hơn gấp trăm lần. Hắn phải kiên nhẫn, vậy thì hắn mới có khả năng gánh lấy Dâm Mệnh, chịc chín tầng trời, phịc mười tầng đất.

Với tư cách một người đã từng tự tay hướng dẫn và bồi dưỡng Tiên Đế, chỉ điểm vô số tồn tại cường hãn, nên hắn hiểu rõ về nguyên lý của Đại đạo hơn bất kỳ ai hết! Mặc dù Thể chất, Thọ luân và Mệnh cung hơi yếu kém nhưng hắn lại có ưu thế của riêng mình, đó là một bộ hướng dẫn tu luyện hoàn mỹ.

Lý Bát Dạ bắt đầu nghiên cứu Nguyệt Qua Dương Luân Công, bộ công pháp này là một môn Thọ pháp, chuyên tu luyện Thọ luân, dùng để kéo dài tuổi thọ, bồi dưỡng huyết khí.

Bất kì một tu sĩ nào, cho dù là người thường cũng có thọ luân. Chỉ cần một sinh linh có trí tuệ đều phải có ba thứ: một là Thể chất, hai là Thọ luân, ba là Mệnh cung.

Thể chất thì không cần nhiều lời, đây là thứ chứa đựng sinh mệnh, nếu không có thân thể thì không có sinh mệnh, cho dù là người thường cũng vẫn có Phàm thể. Thân thể máu thịt là vật dẫn tốt nhất cho sinh mệnh.

Thọ luân thì lại có một câu nói về nó, cây có vòng năm, người có vòng tuổi. Thọ luân nằm bên trong cơ thể, nhưng nó không phải là thực chất, nó là một vòng sáng quay liên tục. Chỉ có chính bản thân tu sĩ mới có thể nhìn thấy Thọ luân của mình, sau khi tu luyện Thọ pháp thì Thọ luân mới hiện ra sau ót, đại biểu cho độ mạnh yếu của huyết khí và thọ nguyên.

Nếu cả đời một người thường không xảy ra tai họa gì thì Thọ luân sẽ quyết định tuổi thọ của hắn có bao nhiêu. Ví dụ như Thọ luân cấp Phàm của Lý Bát Dạ, nếu hắn không tu luyện Thọ pháp thì sẽ ngỏm khi tới sáu mươi tuổi, trong trường hợp không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn.

Thọ luân, Thể chất và Mệnh cung đều có phân cấp bậc từ thấp đến cao: cấp Phàm, cấp Hậu Thiên, cấp Tiên.

Mặc dù Thọ luân, Thể chất và Mệnh cung đều chia cấp bậc giống nhau nhưng trên nguyên tắc tu sĩ không thể thay đổi cấp bậc của Thọ luân và Mệnh cung, đây là do trời sinh, chỉ có Thể chất mới có thể thông qua tu luyện mà từ từ cải biến. Ví dụ như người có thân thể Tiên Thiên mà tu luyện thể thuật cấp Hoàng thì có thể thăng cấp thành Hoàng thể.

Thọ luân và Mệnh cung lại hoàn toàn trái ngược, trời sinh thế nào thì như thế đấy, Thọ luân Tiên Thiên là Thọ luân Tiên Thiên hoặc Hoàng Mệnh vẫn là Hoàng Mệnh. Cho dù ngươi có mạnh hơn đi nữa, có trở thành Tiên Đế cũng không thể cải biến được, trừ khi ngươi muốn sửa mệnh.

Đối với việc tu luyện: Thể chất, Thọ luân và Mệnh cung đều cực kỳ trọng yếu, một thứ cũng không thể thiếu. Thể chất quyết định gân cốt và thể trạng tốt hay xấu. Thọ luân quyết định huyết khí có đủ dồi dào hay không còn mệnh cung lại quyết định thiên phú và ngộ tính.

Ví dụ như ngươi có Thánh Luân, vậy thì huyết khí của ngươi sẽ phong phú dồi dào như sa mạc, nếu tu luyện cùng một loại công pháp thì ngươi sẽ tu luyện nhanh hơn, uy lực phát ra cũng lớn hơn.

Lý Bát Dạ từ từ tìm hiểu Nguyệt Qua Dương Luân Công, chậm rãi tìm về toàn bộ áo nghĩa sâu xa của bộ công pháp này. Thực tế thì Nguyệt Qua Dương Luân Công cũng được Tẩy Nhan Cổ Phái bảo tồn nguyên vẹn, không có chút thiếu sót. Nhưng áo nghĩa mà Lý Bát Dạ đang diễn hóa ra còn thâm ảo hơn bộ bí kíp này.

Nói đến Nguyệt Qua Dương Luân Công thì phải nhắc đến lại lịch phi phàm của nó, Lý Bát Dạ cũng từng tốn vô số tâm huyết vào môn công pháp này. Trong những năm đầu tiên của thời đại Chư Đế, có một khoảng thời gian ngắn hắn từng tính toán để Minh Nhân Tiên Đế tu luyện môn công pháp này nhưng rồi lại thôi.

Ở thời đại Hoang Mãng cực kỳ xa xưa, cho dù Nhân tộc hay Yêu tộc đều là những sinh linh cực kỳ nhỏ yếu, không biết bao nhiêu tiên hiền đã thay phiên nhau sáng tạo ra vô số công pháp để đấu tranh sinh tồn, cuối cùng mới có thể khai sáng ra một cục diện thịnh thế phồn hoa.

Thời đại đó, có một vị tiên hiền cực kỳ tài giỏi đã sáng tạo ra môn Thọ pháp có thể nhanh chóng luyện thành, môn Thọ pháp đó chính là Nguyệt Qua Dương Luân Công. Trong giai đoạn đầu của môn công pháp này, tu sĩ có thể dùng huyết khí của bản thân kéo theo Mệnh hồn, nhanh chóng nâng cao đạo hạnh.

Nhưng Nguyệt Qua Dương Luân Công lại có một nhược điểm trí mạng, giai đoạn đầu thì có thể dùng huyết khí dồi dào làm cộng cơ để tăng lên đạo hạnh, nhưng đạo hạnh càng cao, huyết khí của một người không còn đủ để kéo công pháp Mệnh hồn được nữa, đến thời kỳ này, huyết khí không còn tiếp tục như cũ, đạo hạnh thì lại đình trệ không tiến, nếu như cưỡng ép tu luyện còn có thể bị giảm thọ.

Vì cải thiện Nguyệt Qua Dương Luân Công mà Lý Bát Dạ đã bỏ ra biết bao nhiêu tâm huyết, hắn thậm chí còn tìm vài vị Tiên Đế như Huyết Tỳ Tiên Đế, Minh Nhân Tiên Đế, Thôn Nhật Tiên Đế... tham gia công việc này.

Mãi cho đến thời đại của Hắc Long Vương, Lý Bát Dạ mới chính thức hoàn thiện Nguyệt Qua Dương Luân Công. Ngày hôm nay, lúc Lý Bát Dạ bình tĩnh tìm hiểu thì hết thảy ký ức về áo nghĩa của Nguyệt Qua Dương Luân Công vốn đã bị xóa đi cũng chậm rãi trở về trong đầu hắn.

Lý Bát Dạ đã tốn mất nửa ngày để tìm hiểu Hoạ Mi Lục Biến và Nguyệt Qua Dương Luân Công.

Sau khi Lý Bát Dạ chỉnh sửa lại một lượt hai môn Thọ pháp và Mệnh công cho hoàn chỉnh, tất cả đều sẵn sàng thì hắn cũng bắt đầu tu luyện.

Lý Bát Dạ đồng thời tu luyện cả hai bộ công pháp, bất quá cả hai đều không hề có liên hệ lẫn nhau, cũng không có khai thông qua lại.

Hoạ Mi Lục Biến thuộc về Mệnh công để hộ mệnh phạt địch mà Nguyệt Qua Dương Luân Công lại là Thọ pháp để dưỡng huyết, kéo dài tuổi thọ. Một cái tu luyện Mệnh cung, cái còn lại thì tu luyện Thọ luân, vào giai đoạn đầu có thể đồng thời tu luyện, không ảnh hưởng lẫn nhau.

Công pháp thì được chia thành bốn loại: một là Thọ pháp dùng để dưỡng huyết, kéo dài tuổi thọ, hai là Mệnh công để hộ mệnh, phạt địch, ba là Thể thuật để luyện thể, tẩy tủy và bốn là Thiên Mệnh Bí Thuật có khả năng gánh lấy Thiên Mệnh.

-Đùng!

Lúc này, một âm thanh nhẹ nhàng vang lên, tiếp theo là tiếng cửa Mệnh cung mở ra "két, két, két". Lý Bát Dạ vận chuyển Hoạ Mi Lục Biến dùng chim gõ một cái, liền mở ra cửa Mệnh cung.

Cảnh giới tu luyện từ thấp đến cao: Khấu Cung, Thác Cương, Uẩn Thể, Ích Cung, Tráng Thọ, Chân Mệnh, Hoa Cái, Niết Dục, Thiên Nguyên, Dục Thần…

.....

Thể chất, Thọ luân và Mệnh cung, ba thứ này luôn hỗ trợ lẫn nhau và sống nhờ vào nhau, thiếu một trong ba thứ trên cũng không được.

Mệnh Cung cũng đồng thời chi phối Thọ Luân, Thọ Luân tạo ra Thọ Huyết, Thọ Huyết làm Thể Chất cường tráng, mà Thể Chất cường đại có thể thủ hộ Mệnh Cung.

Phía sau đầu Lý Bát Dạ, lúc này lóe sáng, từng vòng sáng của Thọ Luân quay không ngừng, đồng thời kéo khí huyết vận chuyển theo. Mà ở trong Thọ Luân của Lý Bát Dạ lại xuất hiện một vòng xoáy, khi vòng xoáy này hình thành, huyết khí của hắn bỗng nhiên mạnh mẽ hẳn lên, chảy nhanh như nước mùa mưa bão.

Huyết khí như nước sông cuồn cuộn chảy, trong nháy mắt đã vận chuyển được một chu thiên, huyết khí càng vận chuyển càng nhanh tạo thành một vòng xoáy cực lớn chảy trong người Lý Bát Dạ. Trông nó giống một vòng Huyết Nguyệt chìm nổi trong cơ thể Lý Bát Dạ vậy.

Đây chính là chỗ thần kỳ và đáng sợ của Nguyệt Qua Dương Luân Công, môn công pháp này có thể làm cho huyết khí biến thành một dòng chảy vô cùng cường đại.

Trải qua ma luyện của đạo cơ, huyết khí càng trở nên tinh thuần, đậm đặc và óng ánh khôn cùng. Huyết khi sau khi được ma luyện lại chảy vào trong Thọ Luân.

Cảm nhận Huyết Khí no đủ, Lý Bát Dạ bắt đầu tu luyện thể thuật.

....

Trời sinh ra Thể Chất cũng có nhiều loại, Phàm Thể kém cỏi nhất, Tiên Thể tốt nhất, người ta đó thể phân biệt từ yếu đến mạnh như sau: Phàm Thể, Hậu Thiên Thể, Tiên Thiên Thể, Hoàng Thể, Thánh Thể, Tiên Thể!

Người mang Phàm Thể, Hậu Thiên Thể, Tiên Thiên Thể, Hoàng Thể và thậm chí Thánh Thể có thể được trời may mắn sinh ra vậy, nhưng Tiên Thể thì không phải thế, vì nó là cực hạn của tất cả các Thể Chất, cho nên từ cổ xưa đến nay chưa từng nghe thấy có ai đó sinh ra đã mang Tiên Thể.

Phàm Thể lại không yêu cầu như vậy, trước khi bắt đầu tu luyện, người ta có thể lựa chọn bất cứ Thể thuật nào.

Đương nhiên bước từ Phàm Thể lên Hậu Thiên Thể hoặc Tiên Thiên Thể cũng không phải việc dễ dàng, tu sĩ cần có Thể thuật cường đại, cần cố gắng kiên trì so với người khác gấp mười lần, cuối cùng cần có Thể cao càng nhiều và càng cao cấp thì càng tốt.

Cho nên việc tu luyện Phàm Thể thành Tiên Thiên Thể là chuyện cực kỳ khó khăn, tu sĩ muốn hoàn mỹ công đoạn này sẽ phải trả giá vô số tâm huyết.

Lý Bát Dạ cũng biết con đường đã chọn của mình gian khổ vô cùng, nhưng chịc tâm của hắn cực kỳ kiên định, hơn thế nữa hắn còn có Thể Thư - một trong Cửu Đại Dâm Thư, thứ mà ngay cả Tiên Đế cũng thèm thuồng.

Nếu đã có người tu luyện thành công thì hắn sẽ nhất định làm được như vậy. Có biết bao nhiêu hậu nhân của Tẩy Nhan Cổ Phái cho rằng Tiên Thể của Minh Nhân Tiên Đế là do trời sinh ra, nhưng Lý Bát Dạ lại biết chuyện này đơn thuần là ăn nói nhảm nhí. Hắn một tay bồi dưỡng Minh Nhân Tiên Đế nên hiểu rõ ràng mọi chuyện: Minh Nhân Tiên Đế chính là người trời sinh Phàm Thể.

Nếu nói ra chỉ sợ không mấy ai trong Tẩy Nhan Cổ Phái sẽ tiếp nhận sự thật này, nhưng lúc Minh Nhân Tiên Đế còn trẻ được Âm Nha Lý Bát Dạ truyền thụ cho chữ “Dương” của Thể Thư mới tu luyện được từ Phàm Thể thành Trú Nhan Thể, một trong mười hai Tiên Thể.

Hôm nay, Lý Bát Dạ bình tĩnh tìm hiểu Thể Thư, hết tháy ảo nghĩa về nó đều hiển hiện trong đầu hắn. Muôn đời đến nay, không có ai nắm giữ huyền bí của Thể Thư nhiều hơn hắn, cũng vì đó mà Lý Bát Dạ đã sáng tạo ra vô vàn truyền kỳ.

Thể Thư có tổng cộng sáu chữ: Âm Dương, Cương Nhu, Hiếp Dâm!

Tuy Thể Thư chỉ có sáu chữ, nhưng chúng lại ẩn chứa những áo nghĩa tối cao nhất về Thể Chất của mọi sinh linh trong vũ trụ này. Từ thời đại xa xưa đã có truyền thuyết về mười hai Tiên Thể, nhưng không ai biết được chúng có khởi nguồn từ Thể Thư cả.

Nếu như tu luyện sáu chữ của Thể Thư đến tận cùng thì từng chữ sẽ sinh ra hai loại Tiên Thể khác nhau và tu sĩ chỉ tu luyện được một trong hai loại Tiên Thể đó.

Ví dụ như Minh Nhân Tiên Đế năm đó được Lý Bát Dạ truyền thụ cho chữ “Dương”: cực hạn của chữ này biến hóa ra hai loại Tiên Thể là Trú Nhan Thể và Thái Dương Thể. Minh Nhân Tiên Đế cũng chỉ có thể luyện thành dương Tiên Thể trong mười hai Tiên Thể - Trú Nhan Thể mà thôi.

Trải qua đời đời suy diễn và thử nghiệm, Lý Bát Dạ tổng kết rằng: có Thể Thư là có thể tu luyện bất kỳ Thể Chất gì, nhưng tuyệt không có Thể Chất nào cường đại hơn mười hai Tiên Thể cả.

Lúc này, Lý Bát Dạ quyết định tu luyện chữ "Dâm” tới tận cùng, tới cực hạn. Hắn muốn luyện ra Trấn Bím Thần Thể của mười hai Tiên Thể này.

Toàn bộ áo nghĩa của Thể Thư hiện rõ trong đầu Lý Bát Dạ, hắn điều khiển những áo nghĩa của chữ "Dâm" như nước sông chảy cuồn cuồn, tràn vào Mệnh Cung của mình.

Chân Mệnh của Lý Bát Dạ vừa phun ra nuốt vào huyết khí vừa nuốt lấy áo nghĩa của chữ "Dâm”. Bị Chân Mệnh mài rũa, toàn bộ huyền bí huyền ảo của chữ "Dâm” được sát nhập vào bên trong huyết khí.

Bỗng nhiên Lý Bát Dạ cảm thấy chấn động toàn thân, trong chớp mắt, hết thảy đều trở nên chậm chạp.

Thọ Luân quay liên tục, huyết khí ầm vang. Nguyệt Qua Dương Luân Công tuyệt đối là kỳ công hiếm thấy muôn đời nay, nó khiến huyết khí tạo thành một vòng xoáy chảy hung mãnh.

Lúc những phù văn của chữ "Dâm" dung nhập vào huyết khí của Lý Bát Dạ thì huyết khí nhiên trở nên trầm trọng, nặng tựa vạn cân, dòng chảy huyết khí cũng vì đó mà chậm lại.

Có một câu nói lưu truyền lại: Trấn Bím Thần Thể nặng vô cùng, một lần cử động có thể chịc chết cả Thần lẫn Ma. Qua câu nói đó người ta có thể tưởng tượng được hung oai của nó.

Lý Bát Dạ mất một ngày luyện thành Trấn Bím Thể. Cảm nhận thứ giữa hai chân nặng như một toà sơn mạch, mỗt cộng lông tơ như một ngọn núi, Lý Bát Dạ mỉm cười. Hắn biết, chỉ cần tu luyện Tiên Thể tới đại thành, lông chim của mình sẽ mọc dài hơn...