14.1
Tôi vẫn còn nán lại bên ô cửa sổ hồi lâu sau khi đám cây rừng nuốt trọn chút bóng dáng thấp thoáng sau cùng nơi tôi sinh sống. Lần này tôi thậm chí còn không có một tia hi vọng mong manh được quay trở về. Trước buổi đấu đầu tiên, tôi đã hứa Prim sẽ làm mọi thứ có thể để thắng cuộc và giờ tôi tự thề sẽ làm tất cả để giúp Peeta sống sót. Tôi sẽ chẳng thể đổi chiều chuyến đi này lần nữa. Tôi hiện tại đã biết được những lời nói sau cùng mà tôi muốn gửi tới những người tôi yêu thương là gì. Cách tốt nhất là đóng và khóa cửa lại, bỏ họ dù buồn khổ nhưng an toàn lại phía sau. Và giờ Capitol cũng cướp đi cả điều đó.
“Chúng ta sẽ gửi thư về, Katniss” Peeta lên tiếng sau lưng tôi “Dù thế nào cũng sẽ tốt hơn nếu để một người trong chúng ta ở lại với họ. Ông Haymitch sẽ chuyển thư giúp chúng ta nếu…nó cần được gửi”
Tôi gật đầu và đi thẳng về phòng. Ngồi trên giường, tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ viết những lá thư đó.Chúng sẽ giống như bài diễn thuyết mà tôi đã cố viết ra để tưởng nhớ Rue và Thresh ở quận 11. Mọi thứ có vẻ trở nên rõ ràng trong đầu tôi và thậm chí cả khi tôi phát biểu trước đám đông, nhưng những ngôn từ không bao giờ được viết ra tức thì. Hơn nữa,những lá thư ấy đi cùng với ý muốn ôm hôn và vuốt ve mái tóc Prim, muốn mơn trớn khuôn mặt Gale, muốn siết chặt đôi bàn tay Madge. Chúng không thể được gửi đi cùng với một chiếc thùng gỗ với thân thể lạnh ngắt, cứng đờ của tôi bên trong. Tôi quá chán nản để khóc lóc, tất cả những gì tôi muốn là cuộn mình trên giường và ngủ lì cho tới khi tới Capitol vào sáng mai. Nhưng tôi có một sứ mệnh. Không, nó còn hơn cả một sứ mệnh. Đó là nguyện vọng được chết. Để Peeta sống. Không giống với việc tôi hoàn thành nó trước bộ mặt giận dữ phía Capitol, mà quan trọng là tôi phải đứng đầu trận đấu của chính mình. Điều này sẽ không xảy ra nếu tôi tiếp tục than khóc với từng người tôi yêu mến đang ở phía sau. Hãy để họ đi, tôi tự nhủ với bản thân. Hãy nói lời tạm biệt và quên họ đi. Tôi cố gắng hết sức, nghĩ về từng người một, và giải thoát họ khỏi chiếc lồng bảo vệ trong tôi như những chú chim, sau đó khóa chặt cửa ngăn họ quay trở lại.
Lúc bà Effie gõ cửa gọi tôi tới bữa tối là lúc tôi đang đói meo. Nhưng việc cử động nhẹ nhàng cũng không có gì khó chịu. Bữa tối thật lặng lẽ. Thực ra là quá mức lặng lẽ tới độ có những khoảng im lặng kéo dài chỉ được phá tan bởi việc dọn ra những món cũ và bày thêm món mới. Một món súp rau nguyên chất. Bánh hình cá với kem chanh. Những con chim nhỏ đằng kia còn được phủ xốt cam, cùng với gạo dại và cải xoong. Món sữa trứng sô cô la điểm bằng quả anh đào nữa. Peeta và bà Effie thỉnh thoảng nếm thử khi nói chuyện nên nhanh chóng hết sạch.
“Cháu thích tóc mới của bà đấy” Peeta nói.
“Cảm ơn. Ta đặc biệt tạo kiểu tóc này để hợp với chiếc ghim của Katniss. Ta đang suy nghĩ việc chúng ta có thể tặng cháu một dải băng buộc cổ tay màu vàng và tìm cho ông Haymitch một chiếc vòng tay vàng hay gì đó, thế thì tất cả chúng ta có lẽ sẽ trông như một đội vậy” bà Effie nói.
Hiển nhiên bà ấy không biết rằng chiếc ghim hình con chim nhại của tôi giờ là một biểu tượng được sử dụng bởi đám dân nổi loạn. Ít nhất là tại quận 8. Ở Capitol, con chim nhại vẫn còn là một lời nhắc nhở dai dẳng về một đấu trường sinh tử đầy kích thích. Nó còn có thể là gì được chứ? Đám dân nổi loạn thực sự sẽ không gửi gắm một biểu tượng bí mật lên thứ gì đó lâu bền như kim cương. Họ sẽ đặt nó lên một chiếc bánh mì quế mà có thể ăn ngay nếu cần thiết.
“Cháu nghĩ đó là ý kiến tuyệt vời đấy” Peeta đáp lại “Nó thế nào, bác Haymitch?”
“Ờ, sao cũng được” ông Haymitch nói. Haymitch không uống rượu nhưng tôi có thể hiểu ông ấy muốn thế. Bà Effie đã nhờ người mang chỗ rượu của mình đi khi thấy ông Haymitch cố gắng thế nào, nhưng ông ấy vẫn ở trong tình trạng khổ sở. Nếu Haymitch là vật cống nạp, ông ấy sẽ không nợ Peeta điều gì và có thể say như ông ấy thích. Giờ nó sẽ lấy đi tất cả mọi thứ của ông nhằm giúp cho Peeta sống sót trong một trường đấu toàn những người bạn cũ và có thể ông ấy sẽ thất bại nữa.
“Có lẽ chúng cháu cũng sẽ tặng bác một bộ tóc giả” tôi cố gắng nói chuyện giữa sự yên lặng. Nhưng ông ấy chỉ ném cho tôi một cái nhìn ám chỉ rằng hãy để ông ấy yên, rồi tất cả chúng tôi im lặng ăn bánh trứng sữa.
“Chúng ta có xem bản tóm lược về các lễ tuyển chọn không?” bà Effie hỏi, lau ướt miệng với chiếc khăn ăn trắng bằng vải lanh. Peeta bỏ ra ngoài để tìm cuốn sổ tay về những kẻ chiến thắng hiện còn sống, rồi chúng tôi tập trung trong gian phòng có tivi và xem ai sẽ là đối thủ cạnh tranh của chúng tôi trong đấu trường. Khi bài quốc ca bắt đầu vang lên, tất cả chúng tôi đã vào chỗ ngồi và chương trình tóm tắt về lễ tuyển chọn hàng năm ở mười hai quận được khởi chiếu. Trong lịch sử trường đấu, có bảy mươi lăm nhà vô địch. Tôi nhận ra rất nhiều khuôn mặt trong đó, từ việc nhìn thấy họ như những vật tế hay người cố vấn ở cuộc đấu trước kia, hoặc từ việc xem băng ghi hình về những người thắng cuộc gần đây. Một vài người đã già nua hoặc trở nên gầy yếu do bệnh tật, thuốc phiện hay chất cồn đến nỗi tôi không thể nhận ra họ. Như mọi người nghĩ, những vật tế nhà nghề tới từ các quận 1,2 và 4 chiếm lớn nhất. Nhưng mỗi quận cố gắng chọn ra ít nhất một nữ và một nam.
14.2
Các buổi tuyển người trôi qua nhanh chóng. Peeta chăm chỉ đánh dấu sao những cái tên được chọn vào cuốn sổ tay của cậu ấy. Ông Haymitch xem mà không bày tỏ cảm xúc gì khi những người bạn của ông bước lên sân khấu. Còn bà Effie thì có những nhận xét đau buồn và lặng lẽ kiểu “Ôi, đừng là Cecelia” hay “Chà, Chaff thì không bao giờ đứng ngoài cuộc đấu rồi” và thường xuyên thở dài.
Về phần tôi, tôi cố ghi nhớ trong tâm trí những kẻ cống nạp còn lại, nhưng giống năm trước, chỉ có vài người thực sự được ghi nhớ trong đầu tôi. Có hai chị em với nét đẹp cổ điển tới từ quận 1 là nhà vô địch trong nhiều năm liên tiếp khi tôi còn ít tuổi. Brutus, tình nguyện viên của quận 2, người ít nhất phải bốn mươi tuổi và hình như cũng không thể đợi được để ở đấu trường lần nữa. Finnick, một gã đàn ông trông sáng sủa với mái tóc màu đồng tới từ quận 4 đã lên ngôi vô địch mười năm trước khi ở tuổi 14. Một phụ nữ trẻ trông cuồng loạn với mái tóc nâu mượt cũng được nêu tên từ quận 4, nhưng cô ta nhanh chóng được thay thế bởi một tình nguyện viên, một bà lão 80 tuổi cần tới gậy để lên được sân khấu. Sau đó là Johanna Mason, nhà vô địch nữ duy nhất còn sống từ quận 7, đã chiến thắng vài năm về trước bằng việc giả vờ ốm yếu. Còn người phụ nữ từ quận 8 mà bà Effie gọi là Cecelia, trông khoảng ba mươi, phải tách mình khỏi ba đứa trẻ đang đuổi theo để bám lấy cô ấy. Và Chaff, tới từ quận 11, người mà tôi biết là một trong những người bạn đặc biệt của ông Haymitch cũng tham gia. Tôi được gọi lên. Rồi tới ông Haymitch. Và Peeta lên tình nguyện. Thực ra một trong những người đưa tin đã khóc vì có vẻ như việc lẻ người không bao giờ là điều chúng tôi muốn, và vì chúng tôi là những kẻ được yêu mến đầy bất hạnh của quận 12. Sau đó cô ta tự trấn an mình để nói rằng cô ta cá chắc “Đây sẽ là cuộc đấu tuyệt vời nhất từng có” đến nỗi ông Haymitch rời gian phòng mà không nói lời nào, còn bà Effie, sau vài nhận xét không liên quan về kẻ cống nạp này nọ, đã ném cho chúng tôi lời chúc ngủ ngon. Tôi thì chỉ ngồi đó quan sát Peeta xé bỏ những trang mà người chiến thắng không được chọn.
“Sao cậu không ngủ một chút đi?” cậu ấy đề nghị.
Vì tớ không thể điều khiển những cơn ác mộng. Không phải vì không có cậu, tôi nghĩ thế. Đêm nay chắc chắn chúng sẽ rất đáng sợ. Nhưng tôi không thể yêu cầu Peeta đi ngủ cùng tôi được. Chúng tôi còn không chạm vào nhau kể từ khi Gale bị quất roi.
“Cậu định sẽ làm gì?” tôi hỏi.
“Chỉ xem lại ghi chú một chút thôi. Và hiểu cho rõ ràng vấn đề mà chúng ta đang vấp phải. Nhưng tớ sẽ xem xét kĩ lại với cậu vào sáng mai. Đi ngủ đi, Katniss” cậu ấy nói.
Thế nên tôi đi ngủ và chắc chắn là trong vài giờ nữa, tôi sẽ choàng tỉnh từ trong cơn ác mộng, ở đó có một người đàn bà già nua từ quận 4 sẽ biến thành một loài gặm nhấm khổng lồ và gặm khuôn mặt tôi. Tôi biết tôi sẽ hét toáng lên, nhưng không ai tới cả. Không phải Peeta, thậm chí còn không có một người phục vụ nào của Capitol. Tôi với lấy chiếc áo choàng, cố làm bớt đi cơn sởn gai ốc đang tràn ra khắp người. Ở nguyên trong phòng là điều không thể, nên tôi quyết định đi tìm ai đó nhờ pha trà hoặc sô cô la nóng hay gì cũng được. Có lẽ ông Haymitch còn thức. Chắc chắn ông ấy chưa ngủ. Tôi gọi sữa ấm, thứ làm tôi bình tĩnh nhất mà tôi có thể nghĩ ra, từ một người phục vụ. Nghe được giọng nói từ phía phòng chiếu tivi, tôi bước vào và trông thấy Peeta. Bên cạnh cậu ấy, trên ghế bành, là chiếc hộp bà Effie đã gửi chứa đoạn phim về những cuộc đấu sinh tử trong quá khứ. Tôi nhận ra một tập mà trong đó Brutus là kẻ chiến thắng. Peeta ngồi dậy và đẩy đống băng ra khi cậu ấy trông thấy tôi.
“Không ngủ được à?”.
“Không hẳn”.
Tôi kéo chiếc áo sát hơn quanh người khi nhớ tới cảnh người phụ nữ già biến thành loài gặm nhấm.
“Muốn nói về nó không?” Peeta hỏi. Thỉnh thoảng nó có tác dụng, nhưng tôi chỉ lắc đầu, cảm giác lờ mờ rằng những người mà tôi chưa giao đấu đã ám ảnh tôi trước rồi.
Khi Peeta mở rộng cánh tay, tôi tiến ngay vào giữa chúng. Đây là lần đầu tiên kể từ lúc họ đưa tin về Cuộc dẹp yên đường phố, cậu ấy bày ra với tôi chút tình cảm. Cậu ấy trông còn giống hơn một huấn luyện viên khắt khe, luôn thúc giục, luôn nài ông Haymitch và tôi chạy nhanh hơn, ăn nhiều lên và hiểu biết về đối thủ rõ hơn. Người yêu ư? Quên điều đó đi. Cậu ấy thậm chí còn từ chối việc giả vờ là bạn tôi. Tôi vòng cánh tay thật chặt quanh cổ cậu ấy trước khi cậu ấy yêu cầu tôi chống đẩy hay gì đó. Nhưng cậu ấy kéo tôi lại gần hơn và vùi mặt vào tóc tôi. Hơi ấm tỏa ra từ những chỗ mà môi cậu ấy chạm vào cổ tôi, dần dần lan toản khắp cơ thể. Cảm giác thật thoải mái, thoải mái đến không thể ngờ được, rằng tôi biết tôi sẽ không phải là người buông tay trước. Sao tôi lại nên như vậy? Vì tôi đã nói lời tạm biệt với Gale. Tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa, đó là điều chắc chắn. Giờ không việc gì mà tôi làm có thể làm tổn thương anh. Anh ấy sẽ không hiểu điều đó hoặc nghĩ tôi đang đóng kịch trước máy ghi hình. Ít nhất thì đó là một gánh nặng bớt khỏi đôi vai tôi.
Sự xuất hiện của người phục vụ Capitol với cốc sữa ấm làm chúng tôi tách nhau ra. Anh ta đặt cái khay với chiếc bình gốm đang bốc hơi và hai chiếc cốc lên bàn.
“Tôi đã mang thêm một cái cốc” anh ta nói.
“Cảm ơn” tôi đáp.
“Tôi cũng cho thêm ít mật ong vào sữa. Cho ngọt. Và chỉ thêm một nhúm muối”. Anh ta nhìn chúng tôi như muốn nói thêm gì đó, rồi gật nhẹ đầu và đi ra khỏi phòng.
“Anh ta sao vậy?” tôi hỏi.
“Tớ nghĩ anh ta cảm thấy bất an vì chúng ta”.
“Phải rồi” tôi nói và rót sữa ra.
“Ý tớ là. Tớ không nghĩ tất cả mọi người ở Capitol sẽ thấy hạnh phúc khi ta quay lại”. Peeta nói “Hay cả những nhà vô địch khác nữa. Họ đi liền với ngôi quán quân mà”.
“Tớ đoán họ sẽ thay đổi điều đó một khi có máu đổ thôi” tôi đáp thẳng tưng. Thật sự là, nếu có một việc mà tôi không dành thời gian cho, thì đó là đi lo lắng về chuyện Cuộc dẹp loạn sẽ ảnh hưởng thế nào tới tâm trạng dân Capitol.
“Thế cậu đang xem lại tất cả đoạn băng lần nữa à ?”.
“Không hẳn. Chỉ là lướt qua xem kĩ thuật chiến đấu khác nhau của mọi người thôi” Peeta trả lời.
“Ai tiếp theo vậy?” tôi hỏi.
“Cậu chọn đi” Peeta nói và giơ ra chiếc hộp.
Tất cả đống băng được đánh dấu năm và tên của người chiến thắng. Tôi tìm quanh và đột nhiên tìm được một cuộn mà chúng tôi chưa xem. Năm của cuộc chơi là năm 50. Năm đó là cuộc Dẹp loạn thứ hai. Còn tên của nhà vô địch là Haymitch Abernathy.
“Chúng ta chưa xem cái này” tôi nói.
Peeta lắc đầu “Không. Tớ biết bác Haymitch không muốn thế. Giống như chúng ta không muốn khơi lại cuộc đấu của chính mình.Nhưng từ khi chúng ta là một đội, tớ không nghĩ nó có vấn đề gì”.
“Người chiến thắng năm 25 có ở đây không?” tôi hỏi.
“Tớ không nghĩ thế. Dù là ai thì chắc giờ đã chết rồi. Bà Effie chỉ gửi tớ những người mà chúng ta có thể phải đối mặt” Peeta cầm cuộn băng về ông Haymitch trên tay “Sao? Cậu nghĩ chúng ta cần xem nó không?”.
“Cuộn băng về cuộc Dẹp loạn duy nhất ta có. Chúng ta phải rút ra điều gì đáng giá về cách mà bọn họ tiến hành”, tôi nói. Nhưng cảm thấy kì quặc. Nó cứ như là xâm phạm sự riêng tư của ông Haymitch. Tôi không biết sao lại thế, vì toàn bộ sự việc là công khai. Nhưng nó lại vậy. Tôi phải thừa nhận là tôi rất tò mò. “Chúng ta không cần kể với ông Haymitch là đã xem nó mà”.
“Được rồi” Peeta đồng ý. Cậu ấy đút cuộn băng vào và tôi cuộn tròn người cạnh Peeta trên ghế bành với cốc sữa thật ngon lành với mật ong và muối, đắm chìm với Đấu trường sinh tử lần thứ 50. Sau bài quốc ca, họ chiếu cảnh tổng thống Snow rút chiếc phong bì cho Cuộc dẹp loạn thứ hai. Ông ta trông trẻ hơn nhưng như đang có ý từ chối. Tổng thống đọc từ góc tờ giấy với giọng điệu nặng nề ý như lúc nói với chúng tôi, cho toàn Panem biết rằng để tưởng nhớ tới Cuộc dẹp loạn đường phố, sẽ tăng gấp đôi số vật tế. Những người biên tập cắt cảnh đúng lúc tới buổi tuyển người, nơi từng cái tên một sẽ được đọc lên.
14.3
Lúc chúng tôi xem tới quận 12, tôi hoàn toàn bị choáng ngợp bởi số lượng những đứa trẻ sắp phải chết. Có một người phụ nữ, không phải bà Effie, gọi những cái tên ở quận 12, nhưng bà ta vẫn bắt đầu bằng “Nữ trước!” rồi đọc to tên một cô gái tới từ khu Seam, bạn có thể nhận ra qua hướng nhìn của bà ta, và rồi tôi nghe thấy cái tên “Maysilee Donner”.
“Ôi!” tôi nói “Cô ấy là bạn mẹ tớ”. Máy quay tìm thấy cô gái đang ở trong đám đông, bám theo hai cô gái khác. Tất cả chắc chắn là những đứa trẻ con nhà buôn bán.
“Tớ nghĩ đó là mẹ cậu, đang ôm cô ấy” Peeta nói nhẹ nhàng. Và cậu ấy đã đúng. Khi Maysilee Donner dũng cảm tự mình tách ra và đi về phía sân khấu, tôi bắt gặp cái nhìn lướt qua của mẹ đang ở tuổi tôi, và không ai nói quá lên vẻ đẹp của mẹ cả. Đang nắm tay mẹ và khóc lóc là một cô gái khác nhìn giống như cô Maysilee. Nhưng cũng giống một ai đó mà tôi biết nhiều hơn.
“Là Magde” tôi nói.
“Đó là mẹ của Madge. Cô ấy và Maysilee là sinh đôi hay là gì đó” Peeta đáp “Bố tớ đã nhắc tới nó một lần”.
Tôi nghĩ tới mẹ của Madge. Phu nhân ngài thị trưởng Undersee. Người đã mất nửa cuộc đời trên giường mà không thể di chuyển với vết thương tồi tệ, thờ ơ với cả thế giới. Tôi nghĩ tới việc làm sao mà tôi lại không nhận ra cô ấy và mẹ tôi lại có chung mối quan hệ này. Vể cả việc Madge đã xuất hiện trong cơn mưa bão để mang tới thuốc giảm đau cho Gale. Về chiếc ghim cài con chim nhại và tại sao nó có ý nghĩa hoàn toàn khác vì giờ tôi đã biết chủ nhân trước đó của nó là dì của Madge, Maysilee Donner, một vật tế bị sát hại trong đấu trường.
Tên ông Haymitch được gọi sau cùng. Thấy ông ấy còn sốc hơn khi thấy mẹ tôi. Trẻ trung. Khỏe mạnh. Dù khó thừa nhận, nhưng ông ấy có gì đó giống người xem hơn. Mái tóc tối màu và quăn, đôi mắt xám của dân Vỉa Than sáng rỡ và thậm chí còn nguy hiểm nữa.
“Ờ, Peeta này, cậu có nghĩ bác Haymitch đã giết cô Maysilee không?” tôi thốt lên. Không biết tại sao, nhưng tôi không nén nổi ý nghĩ ấy.
“Với bốn mươi tám người chơi khác? Tớ sẽ nói rằng lợi thế sẽ đánh bại điều đó” Peeta đáp.
Những cỗ xe ngựa, trong đó có những đứa trẻ quận 12 với trang phục thợ than thật kinh khủng, và các bài phỏng vấn chớp nhoáng qua. Có rất ít thời gian để tập trung vào ai đó. Nhưng vì ông Haymitch sắp thành nhà vô địch nên chúng tôi chuyển sang theo dõi toàn bộ cuộc trao đổi giữa ông ấy và Caesar Flickerman, gã trông hệt như lúc thường trong bộ comple xanh lấp lánh giữa đêm tối. Chỉ có mái tóc xanh đậm, lông mi và môi là khác.
“Vậy, ông Haymitch, ông nghĩ thế nào về một đấu trường có nhiều hơn một trăm phần trăm số người tham gia?” gã Caesar hỏi. Ông Haymitch nhún vai “Tôi không thấy nó khác biệt gì nhiều. Họ sẽ vẫn là một trăm phần trăm ngớ ngẩn như thường, nên tôi nhận thấy lợi thế của mình đại khái cũng giống vậy”.
Khán giả bật cười và ông Haymitch trao cho họ cái cười nửa miệng. Đáng sợ. Kiêu ngạo. Thờ ơ.
“Ông ấy không cần phải nói quá như vậy, đúng không?” tôi nói.
Giờ trời đã sáng đúng lúc cuộc đấu bắt đầu. Chúng tôi quan sát từ điểm nhìn của một trong những vật tế khi cô ấy xuất hiện từ dưới ống nước của phòng giặt là và đi vào trường đấu. Tôi không nhịn được việc há hốc miệng. Vẻ không tin nổi hiện lên trên khuôn mặt của những người chơi. Thậm chí đôi lông mày của ông Haymitch còn nâng lên vẻ thích thú, dù chúng gần như đan lại ngay lập tức thành một cái cau mày.
Đó là địa điểm hấp dẫn nhất có thể tưởng tượng được. Một chiếc sừng dê kết hoa bằng vàng đặt giữa đồng cỏ xanh với những mảng hoa đẹp lộng lẫy. Bầu trời xanh lam với những đám mây trắng lớn. Những con chim biết hót nhanh nhảu vỗ cánh trên đầu. Điều mà vài vật tế đánh hơi thấy hẳn phải có gì kì lạ. Một tiếng súng trên không cho biết cánh đồng cỏ kéo dài hàng dặm. Xa ra một khoảng, ở một phía, hình như có một cánh rừng và phía còn lại là một ngọn núi phủ đầy tuyết.
Vẻ đẹp đẽ đã đánh lạc hướng nhiều người chơi, vì khi tiếng chiêng vang lên, hầu hết trong số họ như là đang cố tỉnh dậy sau cơn mê. Nhưng không phải là ông Haymitch. Ông ấy đang ở chỗ Sừng dê, được trang bị vũ khí và một ba lô đầy lương thực. Haymitch cắm đầu đi về phía khu rừng trước khi hầu hết những người khác mới vượt qua thanh xà ngang.
14.4
Mười tám vật tế đã bị giết chết trong biển máu ngày đầu tiên đó. Những kẻ khác thì chết dần chết mòn và điều đó trở nên rõ ràng rằng hầu hết mọi thứ ở nơi xinh đẹp này – các loại quả ngọt lành đung đưa trên bụi cây, nước trong dòng suối như pha lê, thậm chí cả mùi hương của những bông hoa khi hít vào trực tiếp – đều độc hại chết người. Chỉ có nước mưa và thức ăn được cung cấp chỗ Sừng dê là an toàn. Cũng có một nhóm lớn, mang nhiều thức ăn dự trữ gồm 10 vật tế chuyên nghiệp lùng sục ngọn núi tìm các nạn nhân.
Ông Haymitch cũng gặp phải rắc rối trong khu rừng, nơi những con sóc lông vàng mịn mượt hóa ra lại là loài ăn thịt và tấn công theo nhóm, và ngòi của những con bướm lại mang tới sự đau đớn dữ dội nếu không làm chết người. Nhưng ông ấy vẫn kiên gan đi về phía trước, luôn để ngọn núi phía xa lại sau lưng. Còn cô Maysilee Donner hóa ra lại khá nhiều tài vặt, một cô gái rời chỗ Sừng dê chỉ với một balo nhỏ. Trong ba lô, cô tìm thấy một chiếc bát tô, ít thịt bò sấy khô và một ống thổi với hai tá phi tiêu. Bằng cách sử dụng những chất độc có sẵn, cô ấy nhanh chóng biến chiếc ống thổi thành một loại vũ khí chết người bằng cách nhúng những chiếc phi tiêu vào các chất gây chết và thổi chúng vào thịt kẻ thù. Trong vòng bốn ngày, ngọn núi đẹp như tranh vẽ phun trào núi lửa đã xóa sổ một tá những người chơi khác, trừ năm người trong đội Chuyên nghiệp. Với ngọn núi phun ra chất lỏng nóng bỏng, và cánh đồng cỏ không có chỗ ẩn mình, mười ba vật tế còn lại – bao gồm cả ông Haymitch và cô Maysilee không còn lựa chọn nào khác là tự giấu mình trong khu rừng. Ông Haymitch dường như tiếp tục theo hướng cũ, tránh xa ngọn núi lửa, nhưng một mê cung bờ giậu đan chắc chắn đã buộc ông ấy vòng trở lại vào giữa khu rừng, nơi ông bắt gặp ba kẻ Chuyên nghiệp và lôi con dao của mình ra. Chúng có lẽ to lớn và khỏe hơn, nhưng ông Haymitch có một tốc độ kinh ngạc và đã giết chết hai tên trong khi tên thứ ba tước mất vũ khí của ông ấy. Tên đó gần như xé ngang họng ông khi có một chiếc phi tiêu đã đánh gục hắn xuống đất.
Cô Maysilee Donner bước ra từ đám cây “Chúng ta sẽ sống lâu hơn với hai người”.
“Tôi đoán là cô vừa chứng minh điều đó rồi” ông Haymitch nói, xoa bóp cổ “Phải không đồng minh?” cô Maysilee gật đầu.
Và họ đã ở đó, rất nhanh vướng vào một trong những hiệp ước mà bạn sẽ bị truy sát vì vi phạm nếu từng mong trở về được quê hương và đối mặt với cả quận. Cũng giống như tôi và Peeta, họ làm tốt hơn cùng với nhau. Nghỉ ngơi nhiều hơn, lập ra một hệ thống hứng nước mưa, chiến đấu như một đội và chia sẻ thức ăn từ túi của những vật tế đã chết. Nhưng ông Haymitch vẫn quyết tâm tiến về phía trước.
“Tại sao?” cô Maysilee hỏi, và ông Haymitch phớt lờ cô ấy cho tới khi cô từ chối đi thêm nếu không có câu trả lời.
“Vì nó phải kết thúc ở đâu đó, phải không?” Ông Haymitch nói “Đấu trường không thể tiếp diễn mãi mãi”.
“Cậu hi vọng tìm thấy cái gì?” cô Maysilee hỏi.
“Tôi không biết. Nhưng có lẽ có thứ gì đó ta có thể dùng được” Ông Haymitch đáp.
Cuối cùng khi họ đã vượt qua hàng giậu tưởng như không thể, bằng cách dùng cây đèn hàn trong túi của một tên Chuyên nghiệp đã chết, họ thấy chính mình đang ở trên một vùng đất bằng phẳng, khô ráo dẫn tới một vách đá. Ở tận dưới, bạn có thể nhìn thấy những dãy đá lởm chởm.
“Đây là tất cả những gì đang có đấy Haymitch. Quay lại thôi”.
“Không. Tôi sẽ ở đây” ông ấy đáp.
“Được thôi. Chỉ có năm người chúng ta còn sống. Dù sao thì có lẽ giờ nên nói lời tạm biệt thôi” cô ấy nói.
“Tôi không hề muốn nó xảy đến tới cậu và tôi”.
“Được” Haymitch đồng ý. Hết. Ông không hề tỏ ý bắt tay cô ấy hay thậm chí nhìn cô. Rồi cô Maysilee bỏ đi.
Haymitch đi dọc theo gờ của vách đá như thể đang cố tìm ra cái gì đó. Chân ông ấy đá văng một viên đá cuội và nó rơi xuống vực sâu, có vẻ như biến mất mãi mãi. Nhưng một phút sau đó, khi ông Haymitch ngồi nghỉ ngơi, viên đá cuội bật trở lại cạnh chỗ ông. Haymitch nhìn chăm chăm vào nó, bối rối, và rồi khuôn mặt ông có một xúc cảm kì lạ. Ông ấy ném một hòn đá to chừng nắm tay xuống vách đá và chờ đợi. Khi nó bay trở lại ra ngoài và đúng trên bàn tay, Haymitch bắt đầu cười lớn.
Đó là lúc chúng tôi nghe thấy cô Maysilee la hét. Mối liên minh đã chấm dứt và cô ấy đã phá vỡ nó, thế nên không ai đổ lỗi cho ông Haymitch vì đã phớt lờ cô. Nhưng dù sao ông Haymitch cũng chạy tới chỗ cô ấy. Ông ấy tới vào đúng lúc nhìn thấy giây phút một đàn những con chim màu hồng, trang bị những chiếc mỏ dài, nhọn, đang xiên qua cổ cô. Ông nắm lấy tay Maysilee khi cô qua đời, và tất cả những gì tôi nghĩ tới là Rue và cả việc làm thế nào mà tôi lại tới trễ để kịp cứu em.
Sau hôm đó, một vật tế khác bị giết trong trận đấu và một phần ba cơ thể đã bị ăn bởi một đám những con sóc lông mượt, để lại ông Haymitch và một cô gái từ quận 1 đấu tranh cho chiếc vương miện. Cô ấy to lớn hơn ông Haymitch và cũng nhanh nhẹn; rồi cuộc đấu không thể tránh khỏi cũng tới, nó đầy máu me, kinh hoàng và cả hai đều nhận được những vết thương chí mạng khi cuối cùng ông Haymitch bị tước mất vũ khí. Ông ấy loạng choạng đi xuyên qua khu rừng xinh đẹp, ôm chặt bụng, trong khi cô gái đi trầy trật sau lưng ông, mang theo chiếc rìu mà đáng lẽ đã giáng xuống đòn tử. Haymitch theo đường chim bay tới vách đá và vừa lúc tới được gờ đá khi cô ta ném chiếc rìu tới. Ông ấy đổ sụp người xuống nền đất và nó bay vào trong vực sâu. Giờ thì có vẻ như không có vũ khí, cô gái chỉ đứng đó, cố cầm vết máu đang túa ra từ hốc mắt trống rỗng. Cô ta nghĩ có thể sống lâu hơn ông Haymitch, người đã bắt đầu run rẩy trên mặt đất. Nhưng điều mà cô ta không biết, nhưng ông Haymitch biết, là chiếc rìu sẽ quay trở lại. Và khi nó bay trở lại qua dãy đá ngầm, nó găm sâu vào đầu cô ta. Tiếng súng vang lên, xác của cô gái được chuyển đi, và kèn trumpet được thổi để loan tin chiến thắng của ông Haymitch. Peeta tắt đoạn băng đi và chúng tôi ngồi đó một lúc trong im lặng. Cuối cùng cậu ấy lên tiếng:
“Lực ném trở lại ở dưới vách đá đó, nó giống như một thứ trên mái nhà của trung tâm huấn luyện. Một thứ ném cậu trở lại nếu cậu cố nhảy lên và tự giết mình. Ông Haymitch đã tìm ra cách để biến nó thành một loại vũ khí”.
“Không chỉ chống lại những vật tế khác, mà còn cả Capitol” tôi đáp “Cậu biết là chúng không mong nó xảy ra. Nó không định trở thành một phần của trường đấu. Chúng chưa từng lên kế hoạch cho bất cứ ai dùng nó như một loại vũ khí. Nó khiến chúng trông thật ngu xuẩn cho tới khi ông ấy khám phá ra. Tớ cá là chúng đã có khoảng thời gian tốt đẹp khi cố đảo lộn chỗ đó lên. Đó là lí do tại sao tớ không nhớ đã thấy nó trên tivi. Điều đó gần như xấu xa giống chúng ta và những quả dâu rừng vậy!” Tôi không nhịn được cười, cười thật sự, lần đầu tiên nhiều tháng nay. Peeta thì chỉ lắc đầu như kiểu tôi bị mất trí, và có lẽ tôi cũng mất trí thật, một chút.
“Gần như, chứ không phải hoàn toàn” Haymitch nói từ sau lưng chúng tôi. Tôi giật mình, sợ rằng ông ấy sẽ tức giận với chúng tôi vì đã xem cuộn băng của ông, nhưng ông chỉ cười và uống một hơi từ chai rượu. Quá mức điềm tĩnh. Tôi nghĩ rằng đáng nhẽ nên buồn rầu vì ông ấy lại uống rượu, nhưng tôi lại bận rộn với một suy nghĩ khác. Tôi đã dành những tuần này để biết xem ai mới là đối thủ của tôi, mà không nghĩ tới việc ai sẽ là đồng đội. Giờ đây, một sự tin cậy mới mẻ đang nhen nhóm trong tôi, vì tôi nghĩ cuối cùng mình đã biết được ông Haymitch là ai. Và tôi cũng bắt đầu biết tôi là ai. Chắc chắn, hai kẻ đã gây cho Capitol nhiều rắc rối có thể nghĩ được cách khiến Peeta sống sót trở về nhà.