Điền Quý như đã cảm nhận được bà cụ này sắp xuất hiện, nên đã ngồi ngay ngắn lại từ bao giờ.
Anh chàng lấy trong áo ra một gói thuốc lào, một cái lược đồng, nói:
“Có ít quà quê, con biếu cụ lấy thảo.”
Bà lão mặc áo nâu xồng, đầu đóng khăn, tóc buộc đuôi gà theo kiểu phụ nữ nông thôn miền bắc của thế kỷ trước.
Bà cụ cầm gói thuốc hết nâng lên lại hạ xuống, đưa lên mũi hít hít ngửi ngửi, mất một lúc mới gật gù:
“Đúng thuốc lào Tiên Lãng.”
Kế lại đưa tay vơ lấy cây lược, dùng một ngón búng lên thân lược một cái.
Cây lược đồng tức thì ngân lên một tiếng trầm, khỏe như tiếng cồng.
Phượng Ngân ngồi ngay cạnh cũng phải vội vàng bịt tay, chỉ thấy váng đầu hoa mắt, không thể tưởng tượng nổi cái lược con bằng một mẩu mà lại kêu to được đến thế.
Bà cụ lên tiếng:
“Đúng đồng Ngũ Xã.
Cậu đã có lòng, thì già cũng xin có dạ.
Không biết lần này cậu muốn biết điều chi?”
Điền Quý nhún vai, nói:
“Cũng không dám giấu, lần này cháu được cô này thuê, muốn phá một ngôi huyệt cổ.”
“Mộ thường thường thì chắc người như cậu chẳng đến đây tìm bà hàng nước như già đâu nhỉ? Lần này lại muốn chọc ra cái họa gì?”
“Thưa cụ, có mười sáu chữ này thôi, nào có phải họa hoằn gì? Người câm mở miệng, xác chết mỉm cười, ao tròn, giếng méo, cây khế còng queo.
Mong cụ cứ thế mà giải đáp cho.”
Điền Quý nói xong, lập tức đưa tay bịt chặt tai.
Tai còn chưa ấm, bà già đã quát to lên rằng:
“Vậy mà còn không phải họa??”
Bà cụ hét xong, mới sững người nhận ra trong quán hãy còn khách, mới nhỏ giọng lại:
“Mộ huyệt trên đời chẳng cái nào đơn giản, không động thổ linh tinh được đâu.
Hai đứa nghe lời già, giàu sang gì cũng phải có mạng mới hưởng được.”
Điền Quý chưa kịp nói thêm, thì Phượng Ngân đã khẩn khoản:
“Chuyện này đối với con mà nói rất quan trọng, mong bà hãy giúp cho.”
Bà cụ cau mày, đoạn nói, giọng đanh thép không cho ai được ý kiến ý cò gì hết:
“Ai muốn chết cũng xuống mộ đó mà chết được, chỉ riêng cô thì không!”
Thấy bà ta đột nhiên thay đổi thái độ, lại nhắm thẳng vào mình, Phượng Ngân cũng đâm bực, bèn nói:
“Cháu với bà không quen biết gì nhau, sao lại cố tình làm khó nhau thế?”
“Vì sao à? Vì cô họ Trịnh.”
Bà cụ nói xong, đang định đứng dậy thì mới phát hiện cả người dính chặt lấy băng ghế không nhúc nhích gì nổi.
Bà ta quay sang Điền Quý, vội vàng hạ giọng:
“Có gì từ từ nói, cậu cần gì phải nặng tay với già?”
Anh chàng ngáp một cái, nói:
“Những gì bà e ngại cháu cũng đã cân nhắc rồi.
Có chuyện gì cháu xin chịu cả, bà cứ nói rõ ra cho bọn cháu là ơn bà lắm rồi.”
“Thôi được rồi.”
Bà cụ lấm lét nhìn Phượng Ngân một cái, nhưng nay bị anh chàng đe dọa chẳng khác nào dao kề ngay cổ, muốn thoái thác cũng chẳng được.
Trong bụng thì chửi xéo Điền Quý, nhưng ngoài mặt thì vẫn phải cố nặn ra một nụ cười gượng gạo.
Bà cụ còm nhom nhìn khắp quán một lượt, rồi nói nhỏ:
“Chuyện này càng ít người biết càng tốt, mong cô cậu giữ kín giúp cho.”
Phượng Ngân thấy câu này bà nói hơi thừa, chẳng rõ tại sao bà cụ lại phải yêu cầu một chuyện hiển nhiên như thế.
Song, cô nàng cũng gật đầu lấy lệ, bụng bảo dạ ắt hẳn bà ta lại nói tiếng lóng gì với Điền Quý đây.
Anh chàng gõ ngón tay lên bàn một cái, cười:
“Bác cứ yên tâm, chuyện hôm nay bác nói với bọn cháu một chữ cũng sẽ không lọt vào tai người thứ ba.”
Bà cụ nói:
“Hồi sinh thời bà từng nghe người ta đồn ngày trước lúc phong trào Cần Vương chống Pháp đang hăng, có một tay phù thủy cao tay ấn đến đầu quân cho cụ Đinh Công Tráng.
Cụ thể sự tình ra sao thì già không rõ, nhưng hắn thuyết phục nghĩa quân là khí số nước ta sắp hết, muốn kéo dài thì phải dùng đến thuật phong thủy mới xong.
Cái mả hai đứa đang đi tìm gọi là Lăng Vua Ma, chính là do tay thầy pháp kia bố trí.
Ngày mộ xây xong, cũng là lúc mà bọn thợ xây đều bị chết thảm khốc, những người bỏ giữa chừng cũng không ngoại lệ.
Xác chất đầy cả ao.”
Bà ngừng lại một chốc, nhìn Điền Quý, rồi lại ngó sang cô nàng Phượng Ngân một cái.
Thấy không dọa được hai người, bà cụ mới thở dài, lại hỏi:
“Mày nhất quyết dẫn con bé xuống đấy à?”
Quý cười, nói:
“Có những chuyện nó là cái số rồi, có muốn tránh cũng chả được đâu cụ.
Thế còn mười sáu chữ kia thì sao? Con đoán nếu thợ xây lăng đã chết hết, thì bây giờ cửa vào lăng ở đâu chắc chẳng còn ai biết nữa...”
Bà già đáp:
“Mười sáu chữ này là do một thợ xây lăng ngày đó khắc vào viên gạch dưới hiên nhà, bảo con trai bao giờ mình chết thì đào lên mà nhớ kỹ.”
Phượng Ngân bèn nói:
“Thế tại sao chúng ta không thử đi hỏi hồn ma của những thợ xây kia?”
“Hơn trăm năm rồi, cô nghĩ chưa ai nghĩ đến cách này à?”
“Ý cụ là, không ai tìm thấy hồn ma của những thợ xây kia?”
Trước câu hỏi của Phượng Ngân, bà cụ chỉ gật đầu một cái, coi như xác nhận.
Điền Quý nói:
“Mười sáu chữ kia thì sao hả bà? Phải bắt đầu từ đâu?”
“Già nhớ độ hai chục năm trước, lúc mà miền bắc bị đánh bom ác liệt ấy, hậu duệ của anh thợ xây định dựa vào mười sáu chữ cổ của tổ tiên để phá mộ kiếm tiền, nhưng cuối cùng cả họ hơn trăm người đều chết bất đắc kỳ tử.
Duy có cậu con trai độc đinh là còn sống do lúc ấy đi công tác trên huyện.
Ngặt nỗi lúc hay tin thì cậu ta cũng hóa thành điên điên dại dại, lầm lầm lì lì.
Hai đứa có thể bắt đầu điều tra từ hướng đó.”
Sau khi mua thêm một chai máu gà, hai người bọn Điền Quý rời khỏi quán Ba Thước, bỏ lại cửa hàng thịt gà của Bắc sau lưng.
Lúc này mặt trời đã ngả dần về phía tây, ráng chiều nhuộm vàng mặt đường bụi bặm.
Điền Quý ngó đồng hồ đeo tay, rồi nói:
“Thế này chắc lỡ tàu luôn rồi, hay tìm chỗ nào nghỉ trọ cái đã?”
Phượng Ngân im lặng, mặt cúi gằm.
Bà cụ hàng nước đã chỉ rõ ngôi mộ có mười sáu chữ hướng dẫn hai người sắp xuống là Lăng Vua Ma, có liên quan đến Đinh Công Tráng chứ chả can hệ gì tới họ Trịnh cả.
Điều đó nghĩa là lí do cô nàng bịa ra trên tàu đã bị lật tẩy.
Cô nàng lại nhớ đến câu trả lời của Điền Quý trước sự can gián của bà hàng nước.
“Có những chuyện muốn tránh cũng không tránh được.”
Rất rõ ràng, anh ta biết điều gì đó liên quan đến chuyện “người họ Trịnh không thể xuống Lăng Vua Ma”.
“Nếu đã biết rõ...!tại sao hắn ta còn chưa lật tẩy mình? Có khi nào ngay từ đầu hắn đã muốn đưa mình xuống ngôi mộ đó?”
Phượng Ngân đứng sững, lần đầu tiên thấy chùn chân không dám bước tiếp.
Càng lúc, cô nàng càng không nhìn thấu được người thanh niên ăn bận lôi thôi lếch thếch phía trước.
Nhưng cuối cùng, cô nàng vẫn hạ quyết tâm và dấn bước đuổi theo.
“Mặc xác hắn muốn gì, mình thề phải quật cái mả đó lên, bằng không không bao giờ thoát được cái đám cưới ma này.”
Phượng Ngân xiết chặt bàn tay, âm thầm thề.
Điền Quý đề nghị để cô nàng lựa chọn nhà trọ nghỉ lại hôm nay...
“Tôi nghĩ chắc cô cũng phát ngán những chuyện ma quỷ linh dị rồi đúng không?”
Anh chàng vừa ngáp vừa đế thêm:
“Nhưng nhanh lên nhé.
Tôi ngái ngủ lắm rồi...”
Phượng Ngân thở dài, rồi cũng ghé vào một tiệm sách cũ hỏi thăm địa chỉ của một quán trọ từng được họ hàng chỉ cho, tên là Hương Rừng.
Dù không muốn, nhưng cô nàng cũng không thể không thừa nhận Điền Quý nói đúng y phóc tâm trạng của mình.
Ngày hôm nay hết gặp quỷ đói, gà mổ xác lại đến quán nước của ma, tuy không sợ, nhưng Phượng Ngân đã ngán tới tận cổ rồi.
Hai người tìm đến nhà trọ Hương Rừng mới biết đây là một nhà khách giá rẻ, bèn thuê phòng để nghỉ lại, định bụng sáng mai sẽ bắt đầu điều tra con trai của dòng họ thợ xây lăng năm xưa.
Phượng Ngân kéo ghế ngồi đếm tiền.
Lần này cô nàng bỏ trốn, không kịp lên kế hoạch kỹ càng, nên cũng không dư dật gì.
Tàu xe đã mất hơn một nửa số tiền lộ phí, chỗ còn lại thì chỉ đủ trả tiền phòng ba ngày, còn chưa tính ăn uống tắm giặt.
Phượng Ngân thở dài.
“Mình bây giờ phải tìm được người con trai sống sót kia, thuyết phục anh ta giải cho mười sáu chữ manh mối.
Nếu được, thì lại phải lội bộ thêm một trăm cây số về thị trấn A, rồi tìm đường vào Lăng Vua Ma.
Nghe cứ bất khả thi thế nào ấy...”
Người ta nói “cái khó bó cái khôn” đúng là không sai.
Vấn đề tiền nong còn chưa giải quyết được, thành ra Phượng Ngân chẳng có chút lòng tin nào vào việc tìm được Lăng Vua Ma cả.
Bỗng chốc bên ngoài có tiếng gõ cửa.
Rồi một giọng đàn ông cất lên, nghe có vẻ na ná giọng Điền Quý:
“Ngân...!Ngân à? Mở cửa, cho xin ngụm nước với...”
Phượng Ngân ngó cái đồng hồ treo tường, thấy đã mười giờ tối.
Cô nàng đứng dậy, đi đến bên vách tường bên trái rồi áp tai vào.
Nhà trọ này là loại bình dân, tiền thuê rẻ bèo, thành ra cũng chẳng tốt lắm.
Tường ngăn giữa các phòng mỏng dính, cách âm lại không tốt, thế nên dù không đặt chân khỏi cửa nửa bước, Phượng Ngân vẫn nghe rõ mồn một tiếng Điền Quý ngáy như kéo gỗ ở phòng bên cạnh.
Lúc này, bên ngoài trời mưa tầm tã.
Cô nàng kéo ghế ra ngồi đối diện cửa ra vào, một tay rút thỏi son to bằng ngón tay trong túi áo ra, giộng mấy cái lên tay ghế.
Chẳng biết vỏ son làm bằng gì, nhưng mỗi lần cô nàng gõ xuống, nó lại cất lên một tiếng “oong” vừa thanh vừa rõ, hệt như tiếng ngân của kiếm tốt sắp ra khỏi vỏ.
Nói đoạn, cô nàng nói thẳng về phía cánh cửa:
“Biết khôn thì cút xéo! Đừng để đến lúc tao phải mở cửa ra mà hối!”
Mưa vẫn rơi tí tách, nhưng đã không còn tiếng người nữa.
Căn phòng trọ canh khuya lại im phăng phắc, cứ như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra