Ngô Công Lĩnh nhanh chóng đoạt lấy. Nhìn phía sau không phải là truyền thư, rõ ràng là hịch văn.
Mông Sơn Minh nói ông đã nhận chức chủ soái đông chinh, cảnh cáo bên này, quy định trong ba ngày nếu không giao Huệ Thanh Bình ra, quân Yến lập tức tấn công nước Tống.
Đây quả thật là một sự uy hiếp trắng trợn, ngay cả một điểm thương lượng cũng không có, cưỡng ép giao ra người phụ nữ của ông ta. Ngô Công Lĩnh không khỏi hận đến nghiến răng nghiến lợi.
Bảo ông ta đồng ý, vậy mặt mũi của ông ta để đâu?
Nhưng Mông Sơn Minh đã đích thân đến tiền tuyến, lực chấn nhiếp đối với ông ta quả thật không nhỏ. Gương mặt ông ta lạnh lại, ánh mắt âm tình bất định, cũng không biết đang suy nghĩ chuyện gì.
“Xin hỏi bệ hạ, tình huống ra sao rồi?” Thừa tướng Tử Bình Hưu hỏi thăm một câu.
Ngô Công Lĩnh im lặng, ném quân tình và hịch văn của Mông Sơn Minh đến tay văn võ đại thần.
Mọi người thay phiên nhau nhìn qua, ai nấy đều hãi hùng khiếp vía. Mông Sơn Minh đích thân đến tiền tuyến, ngôn từ chuẩn xác muốn khai chiến, khiến mọi người cảm thấy áp lực không nhỏ.
Đối với toàn bộ nước Tống mà nói, Mông Sơn Minh đã bao phủ một sự lo lắng trong lòng người nước Tống, nhiều lần tạo ra những thiệt hại to lớn cho bọn họ. Đến nay, dường như không ai ở nước Tống có thể cản nổi ông.
Im lặng một hồi, Ngô Công Lĩnh đột nhiên hỏi: “Chư vị cảm thấy như thế nào?”
Còn có thể thế nào nữa? Đã hất nước ra ngoài thì không dễ dàng thu lại. Đổi giọng là tự đánh vào mặt của mình. Vì thế, không ai tùy tiện thay đổi lập trường, vẫn hai luồng ý kiến tranh chấp khác nhau.
Một bên cho rằng ngay cả Mông Sơn Minh cũng đã đến Bột Hải châu, Bột Hải châu không phải địa bàn của Ngưu Hữu Đạo, đủ để cho thấy nội bộ Tử Kim động đã thống nhất ý kiến, rất có thể sẽ khai chiến thật sự. Một bên thì cho rằng trước mắt nước Yến đang trong giai đoạn khôi phục nguyên khí, không có khả năng lỗ m ãng khai chiến, chỉ là dọa người mà thôi.
Giằng co qua lại, không ai dám xác định sẽ là như thế nào, cũng không ai dám lấy tính mạng của mình ra đảm bảo.
Thấy mãi mà không ra kết quả, keng! Ngô Công Lĩnh rút thanh bảo kiếm bên hông, quét ra một luồng ánh sáng lạnh, gọn gàng chém xuống một góc bàn, không khí lập tức yên tĩnh trở lại, chỉ thấy ông ta dữ tợn nói: “Yến tặc khinh người quá đáng. Người đàn bà của trẫm há có thể tùy tiện đưa cho người khác. Sĩ khả sát bất khả nhục. Ý trẫm đã quyết, thà làm ngọc vỡ không làm ngói lành, thề quyết một trận tử chiến với Yến tặc. Người nào dám ngăn ta, đây là kết quả.”
Trong nội đường, mọi người nhìn nhau, có người chắp tay lĩnh mệnh, có người thì lo lắng.
Sau khi văn võ đại thần rời đi, Ngô Công Lĩnh chống kiếm mà đứng, sắc mặt âm tình bất định, trong lòng không khỏi lo lắng.
Phía sau rèm, Đan Đông Tinh vén rèm bước ra, cầm quân tình và hịch văn của Mông Sơn Minh xem qua, cau mày hỏi: “Bệ hạ, làm sao bây giờ?”
Ngô Công Lĩnh đáp: “Ta đang nghĩ cách.”
Đan Đông Tinh hỏi tiếp: “Sao không báo cho ba đại phái, nhờ bọn họ cùng nhau nghĩ biện pháp?”
Ngô Công Lĩnh hừ một tiếng: “Việc này còn có thể che giấu sao? Cho dù không báo, bọn họ cũng sẽ rất nhanh biết được. Cho dù bọn họ biết thì sao, một khi nước Yến thật sự khai chiến, chỉ bằng quốc lực của nước Tống trước mắt, ngươi cảm thấy ba đại phái có thể đỡ nổi à?”
......
Phủ Thừa tướng, Tử Bình Hưu chạng vạng mới trở về nhà. Sau khi vào phủ, ông ta đi thẳng đến Tây viện, tiến vào viện tử của Giả Vô Quần, ngồi xuống bên cạnh ông ta.
Người làm bên dưới cũng đã quen thuộc tình huống. Hai người làm vội mang giá đỡ dùng để viết chữ được chế tạo đặc biệt đến cho Giả Vô Quần, đồng thời cũng mài mực sẵn bên cạnh.
Đợi người làm thối lui hết, Tử Bình Hưu mới nói: “Lực ảnh hưởng của Ngưu Hữu Đạo đối với quân đội nước Yến thật sự không thể coi thường, tư thế chấn nhiếp không nhỏ. Điều động toàn bộ người của nước Yến thì không nói, lại còn phái Mông Sơn Minh đích thân đến tiền tuyến Bột Hải châu, giống như sẵn sằng muốn đánh...” Ông ta giải thích tình huống trong quân tình và hịch văn của Mông Sơn Minh qua một lần, còn có phản ứng của văn võ đại thần trong triều.
Giả Vô Quần nâng bút viết xuống, hỏi: “Thế hoàng đế phản ứng như thế nào?”
Tử Bình Hưu đáp: “Rút kiếm chặt một góc bàn, thề thà làm ngọc vỡ chứ không làm ngói lành, quyết chiến với nước Yến đến cùng. Nếu ai dám khuyên can, kết quả sẽ giống như bàn trà bị chặt một góc. Tiên sinh, lần này chúng ta sợ rằng biến khéo thành vụng mất. Ngưu Hữu Đạo có đánh thật hay không thì không biết, nhưng bệ hạ là hạ quyết tâm tử chiến.”
Giả Vô Quần viết: “Chiến? Lấy cái gì mà chiến? Trật tự trong nước vừa mới được khôi phục, ngay cả cung cầu cơ bản nhất cũng khó mà bảo đảm. Dân tâm còn đang định, binh lính thì không có sĩ khí, trong thời gian ngắn tìm kiếm vật tư tác chiến ở chỗ nào? Khai chiến thất bại, ông ấy không phải không biết chứ?”
Tử Bình Hưu lắc đầu: “Ngài không phải không biết bệ hạ. Lúc trước, khi quân Hàn đánh vào cảnh nội cường thế đến cỡ nào, nhưng bệ hạ có nhượng bộ không? Mọi người đều muốn hòa đàm, ngay cả ba đại phái cũng thế, nhưng bệ hạ cứ khư khư cố chấp, muốn tử chiến đến cùng. Đây chính là một vết xe đổ. Bây giờ bệ hạ lại tiếp tục huyết chiến, sao có thể xem là trò đùa được.”
“Haha...” Giả Vô Quần ngửa đầu lên trời bật cười. Bởi vì không có đầu lưỡi, tiếng cười của ông ta hơi cổ quái.
Ông ta lắc đầu, lại viết xuống giấy: “Nếu ông ta làm người mà không biết một hai, sao có thể dám hướng Ngưu Hữu Đạo hiến kế chứ? Năng lực Ngô quân đúng là có, đã từng thắng Mục Trác Chân, nhưng nhìn thì cường ngạnh đấy, thật ra ngoài mạnh trong yếu. Cứng đối cứng trên sa trường, ông ta có mấy lần dám? Gặp phải cọng rơm cứng, ông ta chỉ biết một đường chạy trốn bên trong cảnh nội nước Yến. Nước Tống và quân Hàn giao chiến bên trong cảnh nội, ông ta cũng chỉ biết trốn tránh, không dám chính diện giao phong, làm sao mà dám tử chiến với quân Yến bây giờ? Người này rất thức thời, Thừa tướng dựa vào cái gì mà nói ông ta cường thế?”
Viết hết một tờ, chuyển qua một tờ, Giả Vô Quần viết tiếp một hàng chữ nữa: “Thừa tướng có dám cược với ta không. Ta đoán ông ta sẽ nhẫn nhục giao người.”
Thấy Giả Vô Quần chắc chắn như vậy, Tử Bình Hưu a một tiếng, cau mày suy nghĩ, sau đó mới lên tiếng: “Có thể tiến thối dây dưa cùng quân Hàn như vậy, chẳng lẽ không thể như thế với quân Yến?”
Giả Vô Quần lắc đầu viết xuống: “Trước khác nay khác, vẫn là chuyện xưa, người này rất thức thời. Người vô tình vô nghĩa, làm sao có thể đến ranh giới cuối cùng, làm sao có thể vì một người đàn bà mà bất khuất?”
Tử Bình Hưu đứng dậy: “Hy vọng như lời tiên sinh đã nói, không chiến là tốt nhất. Thật sự nước Tống không chịu nổi giày vò được nữa rồi.”
Dù sao ông cũng là Thừa tướng nước Tống, tại vị nhiều năm, trong lòng vẫn hy vọng nước Tống được tốt hơn.
Giả Vô Quần biết ông ta nghĩ gì, đối với việc này cũng không cần nhiều lời nữa, bưng chén trà lên nhấp một ngụm.
Chính lúc này, quản gia vội vàng bước đến. Sau khi hành lễ với Tử Bình Hưu và Giả Vô Quần, ông ta mới lên tiếng bẩm báo với Tử Bình Hưu: “Thừa tướng, Chưởng môn Đồng Tiên các Đan Đông Tinh đến.”
Tử Bình Hưu hỏi: “Có chuyện gì?”
Quản gia đáp: “Không biết, chỉ nói là đến bái phỏng Thừa tướng mà thôi.”
“Lúc này đến bái phỏng ta...” Tử Bình Hưu vuốt râu suy nghĩ, thấy Giả Vô Quần bỏ chén trà xuống, viết một hàng chữ chuyển cho ông ta: “Thuyết khách đến.”
Tử Bình Hưu nhìn Giả Vô Quần, thấy Giả Vô Quần như cười như không, Tử Bình Hưu đăm chiêu một chút rồi đứng dậy rời đi.
Người bên cạnh được Ngô Công Lĩnh tin tưởng tất nhiên là khách quý. Sau khi chủ khách phân biệt ngồi xuống ngoài đại sảnh, Giả Vô Quần cũng xuất hiện, chậm rãi đứng một bên dưới mái hiên lắng nghe. Nếu người khác dám nghe lén Thừa tướng nói chuyện, tất sẽ bị đuổi, nhưng là Giả Vô Quần, hộ vệ chỉ nhìn mà không ai có hành động gì.