Sớm tinh mơ tại biệt viện Võ An Hầu phủ ở Giang Châu, gã sai vặt Tri
Mặc được sai tới Diêu phủ hỏi thăm trở về bẩm báo, Tạ Thiếu Văn lúc này
mới biết chuyện Cẩm Sắt đã rời phủ tới chùa Linh Âm dâng hương lễ bái.
Hai hôm nay có thể nói Tạ Thiếu Văn cực kỳ lo lắng cáu kỉnh, năm ấy
khi Cẩm Sắt còn ở kinh thành, hai nhà vốn thân cận, bình thường năng qua lại, hơn nữa bởi hai đứa trẻ có hôn ước từ nhỏ nên hội người lớn cũng
vui vẻ khi thấy bọn họ thường xuyên chơi đùa cùng nhau.
Cẩm Sắt khi ấy còn bé nên không hiểu chuyện tình yêu, nhưng khi nàng
rời kinh Tạ Thiếu Văn đã hơn 12 tuổi, là lúc chớm biết yêu, đối với vị
hôn thê của mình, hắn vô cùng hài lòng và mến mộ.
Cẩm Sắt càng lớn càng xinh đẹp, xuất thân cũng xứng đôi vừa lứa với
hắn, hơn nữa nàng còn có tài nghệ xuất chúng, thông minh nhanh nhạy độc
nhất vô nhị.
Hai người từ nhỏ đã chơi cùng một chỗ, trong mắt Tạ Thiếu Văn, đương
nhiên bọn họ là một đôi. Khi đó Cẩm Sắt vẽ tranh, hắn đề thơ, Cẩm Sắt
pha trà, hắn đánh đàn, thật hài hòa đẹp đẽ. Tạ Thiếu Văn lúc ấy chỉ một
lòng một dạ ngóng trông đến ngày Cẩm Sắt bước vào tuổi cập kê, mong đợi
đến ngày nàng trổ mã thành giai nhân tuyệt thế gả làm vợ hắn, từ nay về
sau phu thê cầm sắt cùng minh*, chỉ nguyện uyên ương không nguyện tiên.
*Cầm sắt cùng minh: Nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau.
Cũng bởi vì hắn sớm sinh tình với Cẩm Sắt, càng biết người vợ tương
lai của mình đang ở nơi nào, lòng đầy nhung nhớ nên mấy năm nay khi Cẩm
Sắt không ở bên cạnh, Tạ Thiếu Văn chỉ biết tập trung tinh thần chăm chỉ đọc sách theo đuổi học vấn. Hắn cố gắng bởi muốn tương lai khi gặp lại, Cẩm Sắt có thể xem trọng mình.
Vì vậy, hắn một ngày cũng không dám lười biếng học hành, bởi hắn biết Cẩm Sắt là người thông minh hiếu học, hắn rất sợ bị nàng vượt qua, học
hành kém cỏi hơn vợ, chẳng phải quá mất mặt sao?
Hơn ba năm nay, mỗi lần nghĩ tới Cẩm Sắt, trong lòng Tạ Thiếu Văn lại hiện lên những câu thơ ca ngợi tình yêu đầy du dương trong sách vở, đối với mong muốn về tình yêu, có thể nói Tạ Thiếu Văn từ lúc còn niên
thiếu ngày đêm trong lòng chỉ tương tư một mình Cẩm Sắt, thậm chí hắn
còn hờ hững lạnh nhạt với đám nha hoàn mà Vạn thị tận tâm xếp vào trong
phòng.
Khó khăn lắm mới qua ba năm, vất vả lắm hắn mới thi đỗ Giải Nguyên
của kỳ thi Hương, trở thành thiếu niên anh tuấn nổi danh kinh thành, lần này tới Giang Châu, trái tim hắn như cánh chim được sổ lồng, đã sớm bay tới bên Cẩm Sắt, chỉ mong có thể nhìn thấy dáng vẻ nàng hiện giờ, mong
đợi nhìn thấy một ánh mắt ngưỡng mộ của nàng, có thể ngày ngày hàn huyên với nàng, trải hết nỗi lòng nhung nhớ ly biệt trong ba năm qua mới
thỏa.
Ai dè hiện giờ đến được Giang Châu, nhưng ngay cả gương mặt nàng cũng chẳng nhìn thấy, còn chưa tính đến việc có thể nói với nhau được đôi
câu. Ba ngày nay ngày nào hắn cũng định tới Diêu phủ, nhưng chẳng hiểu
sao mẫu thân lúc nào cũng mượn cớ không cho hắn rời phủ.
Hai ngày trước, mẫu thân thúc giục hắn tới thăm hỏi mấy vị lão gia đã về hưu ở trong thành, hôm qua mãi mới nhàn rỗi, mẫu thân lại lấy lý do
sang năm hắn phải tham gia kỳ thi mùa xuân, không thể cứ mãi rong chơi
nên bắt hắn ở trong phòng đọc sách cả ngày trời.
Hôm nay xem ý mẫu thân thì hình như muốn hắn tới chùa Linh Âm bái lạy cầu khấn Văn Xương Đế Quân*, cầu cho sang năm hắn có thể thi đỗ Hội
Nguyên. Hắn căn bản không bằng lòng cho lắm, nhưng hiện giờ nghe xong
lời Tri Mặc, biết Cẩm Sắt đang ở chùa Linh Âm, đôi mắt hắn chợt sáng
bừng.
*Văn Xương Đế Quân (文昌帝君) hay Văn Xương Tinh (文昌星) là vị thần
được dân gian lẫn Đạo giáo tôn sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc
của sĩ nhân.
Tri Mặc thấy chủ nhân vui vẻ thì cũng chiều lòng nịnh hót: “Diêu Tứ
tiểu thư và ngài đúng là có duyên trời định, thật trùng hợp làm sao!
Tạ Thiếu Văn nghe vậy tủm tỉm, y vội vàng cởi quần áo ra rồi nói:
“Ngươi xem bộ xiêm y màu ngọc bích này có phải quá rực rỡ không? Cẩm Sắt muội muội trước giờ luôn thích màu nhạt, bộ trang phục này xem ra không chín chắn điềm tĩnh cho lắm, mau, đi lấy bộ trang phục in họa tiết hình tròn màu xanh đen tới cho ta. Đúng rồi, mang cả chiếc hà bao hình cây
lê sắc thu ta để dưới gối tới đây, chiếc hà bao này do chính tay Cẩm Sắt thêu, đến khi nàng nhìn thấy ta đeo trên người ắt hẳn sẽ rất vui.”
Tri Mặc lanh lảnh đáp ứng, quay qua quay lại một lúc mới giúp Tạ
Thiếu Văn ăn vận chỉnh tề, dùng kim quan buộc tóc cho ngay ngắn, sau đó
Tạ Thiếu Văn gọi thêm hai gã sai vặt nữa rồi đi thẳng ra cửa phủ. Bọn họ tới cửa phủ, đang định lên ngựa khởi hành thì chợt nghe thấy phía sau
vọng tới giọng nói của Vạn thị.
“Con muốn đi đâu vậy?”
Tạ Thiếu Văn nghe thấy giọng mẹ thì giật nảy người, hắn chỉ sợ mẹ lại đổi ý. Hắn cau có xuống ngựa, sau đó mới làm bộ tươi cười, xoay người
cung kính thi lễ với Vạn thị rồi nói: “Hôm qua mẹ bảo con lên núi bái
lạy Văn Xương Đế Quân, bây giờ con đang định khởi hành đây. Mẹ còn gì
dặn dò không ạ? Nếu bây giờ khởi hành tới chùa Linh Âm cũng phải mất hai canh giờ mới đến, con muốn sớm xuất phát để đến chiều kịp về phủ cùng
dùng bữa với mẹ.”
Vạn thị thấy hắn lộ vẻ thấp thỏm thì sao không rõ hắn đang nghĩ gì?
Nàng ta làm bộ hiền hòa, bước lên trước sửa sang lại vạt áo cho hắn rồi
nói: “Con thật là, rời phủ sao không tới chào mẹ, quả nhiên vừa rời kinh đã quên hết tất thảy quy tắc. Mẹ mới biết tin đêm qua Bình Nhạc Quận
chúa bị động thai ở chùa Linh Âm, các hiệu thuốc Bắc ở Giang Châu đều bị đám nô tài phủ Trấn Quốc Công tới gõ cửa gần hết, chỉ sợ Bình Nhạc Quận chúa lành ít dữ nhiều. Chúng ta hiện giờ đang ở Giang Châu, cũng không
thể không lên núi thăm viếng. Mẹ đã sai người đi chuẩn bị xe ngựa và lễ
vật, một chốc nữa hai mẹ con mình cùng nhau lên núi nhé.”
Tạ Thiếu Văn thấy Vạn thị không nhắc tới Cẩm Sắt thì cứ tưởng mẹ
không biết chuyện nàng đang ở trên núi, hắn định lên tiếng, nhưng không
biết sao lời đến cổ họng lại nuốt xuống, chỉ đành cung kính đáp ứng.
Vạn thị thấy hắn có vẻ ngập ngừng thì khẽ nhíu mày rồi tiếp lời: “Còn nữa, Cẩm Sắt muội muội của con hôm qua cũng lên núi dâng hương, chốc
nữa con cũng lên núi, không tránh khỏi gặp gỡ với con bé. Thanh Nhi sang năm cũng tham gia thi thử, nếu con tới bái lạy Văn Xương Đế Quân thì rủ thằng bé đi cùng đi. Thằng bé là em vợ tương lai của con, hai con phải
thân thiết nhiều hơn, Thanh Nhi từ nhỏ không có trưởng bối dạy dỗ, con
phải đôn đốc nó nhiều vào. Mẹ ở trong phủ chờ con, con nhanh đi gọi Văn
Thanh cùng lên núi với chúng ta, chỗ nhà họ Diêu mẹ đã cho người thông
báo qua rồi, bảo Văn Thanh không cần phải lo lắng.”
Tạ Thiếu Văn thấy vậy lập tức vui mừng, mặt bừng sáng, mất hẳn vẻ
thấp thỏm khi nãy. Trước kia chẳng hiểu sao hắn hay cảm thấy mẫu thân
hình như không muốn cho hắn và Cẩm Sắt tiếp xúc nhiều, hắn cũng không rõ nguyên do, nhưng bây giờ nghe mẫu thân nói vậy, hắn coi như hoàn toàn
yên tâm, thầm trách bản thân suy nghĩ nhiều, trách lầm mẫu thân.
Vì trong lòng thấy áy náy nên hắn càng tỏ ra kính cẩn, vội vàng chắp
tay đáp ứng, sau đó nói: “Vậy con đến học đường của Diêu gia gọi Văn
Thanh ngay đây.”
Vạn thị nhìn Tạ Thiếu Văn ruổi ngựa đi xa, lúc này mới mặt co mày cáu nói: “Thật đúng là có vợ lập tức quên mẹ, còn chưa cưới vào cửa mà nó
đã một lòng một dạ nhớ nhung đến con bé. Nếu là một cô gái xứng đôi vừa
lứa thì chẳng sao, nhưng con bé đó chỉ là một đứa mồ côi cha mẹ, không
có mẹ đẻ bên cạnh chăm lo dạy dỗ thì sao có thể là một cô gái tốt được?
Chỉ trách năm xưa ta quá nóng lòng nên mới sớm quyết định mối hôn sự
này!”
Khương ma ma đứng sau lưng Vạn thị vội vàng khuyên nhủ: “Phu nhân
đừng nghĩ vậy, thiếu gia vốn là người bẩm sinh ngoan ngoãn lễ phép, lại
thông minh ham học, quả là một cậu con trai hiếu thảo, bao nhiêu vị phu
nhân ở kinh thành đều hâm mộ người may mắn có cậu con trai như vậy. Hơn
nữa, thiếu gia quan tâm tới Diêu tiểu thư chứng tỏ thiếu gia là người
trọng tình cảm, người trọng tình cảm thì sao có thể là đứa con bất hiếu
được. Bởi Diêu tiểu thư là vị hôn thê mà phu nhân chọn cho thiếu gia nên người mới tỏ ra như vậy. Tương lai từ hôn rồi, phu nhân chỉ cần tìm cho thiếu gia một cô gái tốt hơn thì thiếu gia ắt hẳn sẽ hiểu rõ lòng yêu
thương mà phu nhân dành cho người.”
Khương ma ma nói vậy sắc mặt Vạn thị mới dịu xuống đôi chút, nhưng
rồi nàng ta lại lập tức chau mày lo lắng hỏi: “Trên núi an bài ổn thỏa
hết chưa? công tử họ Thôi đã lên núi rồi chứ?”
Khương ma ma vội vã gật đầu đáp: “Phu nhân yên tâm, Thôi công tử mới
nghe nói đến đại mỹ nhân hiếm thấy, lại nhìn bức họa như tiên nữ kia thì đứng ngồi không yên, tinh mơ hôm nay đã mang theo gã sai vặt hăm hở lên núi rồi.”
Vạn thị nheo mắt rồi mỉm cười nói: “Lời này quả thật không sai, con
bé Diêu Cẩm Sắt càng lớn càng giống hệt A Hoa, rất xinh đẹp… Ôi, nếu cha mẹ nó còn sống, con bé này không có phận khổ như vậy thì tốt biết bao
nhiêu, nếu vậy quả là ngàn dặm mới tìm được một cô con dâu tuyệt vời. Ta dưới gối chỉ có độc Văn Nhi, phụ mẫn toàn thiên hạ đều thà làm người
độc ác nhưng cũng không thể để con mình gặp phải dù chỉ một chút bất lợi nguy hiểm nào trong tương lai cả.”
Khương ma ma trong lòng hiểu rõ, Vạn thị nói Diêu tiểu thư có số khổ, sợ khắc thế tử, chẳng qua chỉ là lời ngụy biện mà thôi, nàng ta hẳn
nhiên để ý nhất đến việc Diêu tiểu thư hiện giờ không nơi nương tựa mới
đúng. Dù biết vậy nhưng ngoài mặt bà vẫn tỏ vẻ cảm động, đoạn nói: “Phu
nhân nói đúng, công tử họ Thôi cũng là chàng trai tuấn tú lịch sự, họ
Thôi tuy là gia tộc thương nhân nhưng gia cảnh giàu có, lại còn là một
gia tộc lớn ở Giang Châu. Thôi công tử còn là con độc đinh ba đời, Diêu
tiểu thư được gả sang đó, nàng có ông chú Diêu lão gia làm chỗ dựa, lại
thêm vào dung mạo xinh đẹp như vậy, Thôi công tử ắt hẳn ngày ngày đều sẽ ở bên nàng, yêu thương nâng niu trong lòng bàn tay, họ Thôi chắc chắn
cũng sẽ không xử tệ với Diêu Tứ tiểu thư. Sau này phu nhân tỏ ra quan
tâm tới nàng nhiều một chút, mối nhân duyên này tuy không so được với
việc gả cho Hầu phủ chúng ta, nhưng cũng là mối duyên bao cô gái mong
còn chẳng được ấy chứ. Tóm lại vẫn là phu nhân có lòng nhân hậu, tuy hủy hôn với Diêu Tứ tiểu thư nhưng vẫn tìm sẵn đường lui cho nàng ấy.”
Vạn thị nghe Khương ma ma nịnh nọt khuyên giải như vậy, tuy biết bà
ta nghĩ một đằng nói một nẻo, nhưng nghe những lời này nàng ta quả thật
thấy rất thoải mái, có những lời này của Khương ma ma, chuyện nàng ta
mưu tính hủy hoại danh tiết của Cẩm Sắt tự dưng trở thành chuyện đương
nhiên có lợi cho Cẩm Sắt. Nghĩ vậy mọi nỗi áy náy trong lòng nàng ta tan biến hết, nàng ta cất tiếng hỏi: “Ngươi phân phó xong hết thảy chưa?
Bình Nhạc Quận chúa cũng đang ở trên núi, chuyện này nhất định phải tiến hành thật cẩn thận, một giọt nước cũng không được lọt, nếu bị Bình Nhạc Quận chúa phát hiện ra sơ hở thì không biết sau này nàng ta sẽ đồn thổi những gì về Hầu phủ ở kinh thành đâu. Ta vốn muốn lợi dụng nàng ta để
truyền đi chuyện Cẩm Sắt bại hoại danh tiết tới khắp kinh thành, chứ
không phải muốn nàng ta truyền ngược lại.”
Khương ma ma vội đáp: “Phu nhân yên tâm, lần này dùng toàn những kẻ
đáng tin nhanh nhạy, nhất định sẽ không xảy ra chuyện gì đâu. Tương lai
nếu mọi người nhắc đến chuyện này, ai cũng chỉ biết trách Diêu tiểu thư
số khổ, chẳng ai nghĩ rằng liên quan tới phu nhân đâu.”
Bây giờ chuyện này đã như mũi tên rời cung, không thể quay đầu, Vạn
thị khẽ nắm chặt tay, trong lòng thầm mong lần này hết thảy mọi chuyện
đều trở nên thuận lợi, sớm hủy mối hôn nhân như nghẹn ở cổ họng này thì
nàng mới tìm được một mối lương duyên khác, khỏi liên lụy tới việc con
nối dõi của Hầu phủ và công danh tiền đồ của con trai. Khương ma ma nói
rất đúng, sau này chỉ cần nàng quan tâm để ý tới Diêu Cẩm Sắt nhiều một
chút, coi như là làm theo những lời dặn dò của tỷ muội Liêu Hoa đã mất,
các bậc phụ mẫu toàn thiên hạ đối với những chuyện liên quan đến con cái thì ai chẳng ích kỷ, Liêu Hoa trên trời có linh cũng nên thông cảm cho
nàng, dù sao Cẩm Sắt chỉ là một đứa bé mồ côi mà có thể trở thành phu
nhân Hầu phủ thì đúng là chuyện khôi hài nhất thế gian.
Bên này Vạn thị còn đương suy tính, mặt khác bên kia trong chùa Linh
Âm, Cẩm Sắt nghe Bạch Chỉ nói thì hơi ngẩn ra, sau đó nàng mới nhớ tới
việc vừa nãy ở trong nhà bị Dương Tùng Chi sơ ý hất nước trà vào người,
nước trà vốn rất ấm, mùa đông nàng lại mặc quần áo dày nên chẳng những
không bị bỏng mà còn hầu như chẳng cảm thấy gì, có lẽ Dương Tùng Chi lúc đó còn chưa chạm được vào chén trà, không rõ tình hình nên mới lo lắng
đích thân tới tặng thuốc.
Nàng lắng tai nghe, quả nhiên thấy bên ngoài mang máng vẳng tới giọng nói trầm thấp của một chàng trai, thấy Bạch Chỉ đương chờ mình đáp lời, nàng liền nói: “Ngươi đi nói với Dương thế tử rằng, trong lúc cấp bách
khó tránh khỏi vô ý thất lễ, ta không sao cả, bảo y đừng bận tâm.”
Bạch Chỉ thấy Cẩm Sắt có ý tránh điều tiếng thì gật đầu đáp ứng, sau
đó bước ra khỏi phòng. Cẩm Sắt đứng dậy ngồi xuống trước gương, đang cầm lược chải tóc thì chợt nghe thấy bên ngoài vọng tới tiếng bước chân
vững vàng, sau đó vang lên giọng nói bình tĩnh của Dương Tùng Chi.
“Tuy Diêu tiểu thư là người nhân hậu, nhưng ta cũng không thể vì vậy
mà thất lễ với nàng, hôm nay do ta đường đột, xin tiểu thư nhận một lễ
của ta.”
Cẩm Sắt quay đầu nhìn ra, thấy bên ngoài cửa sổ in bóng một chàng
trai đương khom người làm lễ, y nói xong cũng chẳng đợi nàng đáp lại,
quả quyết xoay người sải bước nhanh chóng rời đi. Cẩm Sắt thấy vậy chợt
nở nụ cười, thầm nghĩ vị thế tử Trấn Quốc Công nhìn có vẻ lạnh lùng
nhưng lại vô cùng chính trực.
Liễu ma ma tiễn Dương Tùng Chi rời đi rồi trở về phòng, mặt đầy vui
vẻ, bà nói với Cẩm Sắt: “Vị thế tử Trấn Quốc Công này quả nhiên là một
chàng trai tốt, đúng là trong nóng ngoài lạnh. Vừa nãy lão nô vô tình
hàn huyên vài câu, y biết lão nô bị bệnh thấp khớp còn bảo rằng chốc nữa trở về sẽ bảo gã sai vặt tặng thuốc cho lão nô, thật bình dị gần gũi
quá.”
Cẩm Sắt thấy Liễu ma ma tỏ vẻ quý mến thích thú thì nhoẻn cười nói:
“Trấn Quốc Công phủ mấy đời cầm binh, lớp lớp danh tướng, con cháu tòng
quân khó tránh khỏi đổ máu thương vong, cũng thường phải hành quân nơi
lạnh giá nên nhiều tướng sĩ hay mắc bệnh thấp khớp. Chuyện khác thì ta
không biết, chứ thuốc chữa ngoại thương và thấp khớp của phủ Trấn Quốc
Công thì nhất định tốt gắp trăm nghìn lần so với thuốc bán bên ngoài, ta vốn muốn chờ Quận chúa khỏe hơn tới xin ít thuốc, bây giờ thì khỏi cần
rồi.”
Liễu ma ma nghe vậy cười cầm lấy chiếc lược trong tay Cẩm Sắt, một
mặt vừa chải đầu giúp nàng, mặt khác cất tiếng: “Lão nô biết tiểu thư
luôn quan tâm tới mình, nhưng người cũng phải suy tính chuyện của bản
thân đi. Trong phủ Đại tiểu thư đâu phải là người biết tỉnh ngộ, bây giờ nàng ta đem lòng nhung nhớ thế tử, tuy nói lần này nàng ta trộm gà
không được còn mất thêm nắm thóc*, nhưng khó đảm bảo lần tới…”
*Trộm gà không được còn mất thêm nắm thóc: Đây là một câu tục
ngữ, ý chỉ vốn muốn tranh giành chiếm đoạt với người nhưng không thành,
ngược lại còn phải chịu thua thiệt.
Liễu ma ma còn chưa dứt lời đã thầm than thở trong lòng, bà thấy Cẩm
Sắt vẫn bình thản thì không biết nàng có nghe hiểu lời mình nói không,
tức thì lại tiếp lời: “Tiểu thư không được lơ là, thế tử giờ còn trẻ, dù bây giờ toàn tâm toàn ý với tiểu thư, nhưng dù sao y cũng chưa từng
trải đời, chỉ là một chàng trai đơn thuần không hiểu lòng dạ đàn bà. Đại tiểu thư lớn hơn người vài tuổi, lại đương tuổi thiếu nữ hoài xuân, nếu như nàng ta mỗi ngày cứ lượn lờ trước mặt thế tử thì cũng chẳng hay ho
gì. Các vị thiếu gia công tử mê luyến nữ sắc, trong phòng có một đống
đàn bà, bọn họ không hẳn ai nấy đều là người phong lưu, vài người do
tuổi còn trẻ, tính cách không vững nên mới bị những ả nha hoàn có ý đồ
xấu đó quyến rũ hại người… Ôi, tính ra thì vị thế tử Trấn Quốc Công này
chỉ hơn thế tử Võ An Hầu có vài tuổi, thế mà trông chín chắn vững vàng
làm sao. Y có xuất thân tôn quý, lại hiểu biết lễ nghĩa, chẳng giống một chàng trai con nhà võ giết người không chớp mắt chút nào, tương lai
không biết vị tiểu thư khuê các nào có phúc được gả vào phủ Quốc Công
đây.”
Cẩm Sắt thấy trong lời nói của Liễu ma ma đượm chút lo âu và mơ hồ
thất vọng với Tạ Thiếu Văn thì liền biết rõ suy nghĩ của bà, bà lo lắng
không yên như vậy ắt hẳn vì cách cư xử của Tạ Thiếu Văn hôm lễ mừng thọ
lão thái thái, vì thế bây giờ mới khuyên nhủ mình thế này. Nếu nàng muốn từ hôn thì đương nhiên phải được Liễu ma ma và Vương ma ma ủng hộ mới
tốt. Liễu ma ma hiện giờ đã nhận thấy Tạ Thiếu Văn xử sự có phần không
ổn, tương lai nếu tiếp xúc nhiều hơn nhất định bà sẽ càng thất vọng về
hắn.
Cẩm Sắt trong bụng vui mừng, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ suy tư, nàng
gật đầu đáp: “Phủ Quốc Công chỉ có một vị thiếu gia con vợ cả, tất nhiên phải dạy dỗ cho tử tế, khi Dương Tùng Chi được 3 tuổi, Trấn Quốc Công
liền dâng tấu cầu chỉ phong hắn làm thế tử, tự mình dạy dỗ bên người.
Khi y mới biết đi thì đã bắt đầu tập đứng tấn, 6 tuổi liền theo Trấn
Quốc Công tới doanh trại, gần 8 tuổi lần đầu theo cha ra trận, lúc đó
khi nhóm binh sĩ đột kích từ phía sườn núi xuống, không hiểu sao Dương
Tùng Chi sơ suất thế nào mà bị ngã ngựa, y kiên cường chống đỡ, đợi cho
đến khi địch đã lui quân thì mới phát hiện ra bị ngã gãy chân. Lúc binh
lính khiêng y về doanh trại, Trấn Quốc Công chẳng những không an ủi câu
nào, ngược lại còn phạt y 20 gậy và mắng: “Dương gia sao có loại con
cháu yếu ớt đến yên ngựa cũng ngồi không vững?” Sau đó Dương Tùng Chi
phải nằm dưỡng thương tới hai tháng trong phủ, Minh Nguyệt Quận chúa
ngày đêm chăm sóc cho cậu con độc nhất nhưng chưa từng than thở một câu, Dương Tùng Chi còn chưa lành hẳn đã phải rời giường khổ luyện cưỡi ngựa bắn cung, Dương Kiến càng đích thân dốc lòng đốc thúc. Nghe nói từ bé
tới giờ Dương Tùng Chi mỗi ngày đều giữ thói quen tập bắn 300 mũi tên
vào sớm tinh mơ, mặc kệ gió mưa, chưa từng lười biếng dù chỉ một ngày.
Năm ấy chuyện Dương Kiến dạy con chấn động Đại Cẩm, ngay cả ông nội
Dương Tùng Chi cũng lắc đầu chịu thua. Nói người lại nghĩ đến mình, hiện giờ Mậu Nhi đã tròn 8 tuổi, còn lớn tuổi hơn so với Dương Tùng Chi năm
ấy, thế mà chẳng bằng một góc, có lẽ do người làm chị như ta không biết
dạy dỗ em trai chu đáo.”
Cẩm Sắt dứt lời thấy Liễu ma ma kinh ngạc há hốc mồm thì mới tiếp:
“Trái lại, Võ An Hầu phủ cũng chỉ có độc một cậu con trai, nhưng dưỡng
dục không bằng Trấn Quốc Công phủ. Mấy năm nay huynh ấy ra sao thì ta
không rõ lắm, nhưng ta nhớ có năm Tạ Thiếu Văn lén lút chuồn ra khỏi phủ đi dạo hội chùa phía Tây kinh thành với một đám công tử bột. Năm ấy lão Hầu gia vẫn còn tại thế, vì quá thất vọng nên ông mới phạt Tạ Thiếu Văn nhịn ăn quỳ gối từ đường một đêm, không cho phép người ngoài lén đưa đồ ăn, phu nhân Võ An Hầu ngược lại không những đưa bát canh nóng tới mà
còn khóc lóc kể lể với lão phu nhân. Cuối cùng lão Hầu gia vì không chịu nổi hai người phụ nữ khóc lóc ỉ ôi nên đành ra lệnh cho huynh ấy quỳ
hơn một canh giờ, sau đó đành bỏ qua chuyện này.”
Cẩm Sắt dứt lời khẽ mỉm cười, sau đó mới tiếp: “Ma ma nói Dương thế
tử là người bình dị dễ gần, nhưng người phải biết rằng y quanh năm sống
trong doanh trại, nếu muốn binh lính vào sinh ra tử vì mình thì chắc
chắn cũng phải quan tâm để ý đến bọn họ. Xưa nay danh tướng ai ai cũng
là người can đảm thận trọng, gan dạ thông minh, đối xử tử tế với thuộc
hạ, nghiêm khắc với bản thân. Vốn dĩ không có binh lực thì cũng chẳng
thể đối đầu với kẻ thù. Tạ Thiếu Văn là người được nuôi dạy trong nhung
lụa, lại được chiều chuộng thành quen, dù có đọc sách giỏi đến đâu thì
khó tránh khỏi đôi lúc không biết cách đối nhân xử thế, càng miễn bàn
tới tầm nhìn và năng lực*. Sách là thứ triết lý bảo thủ, thiếu sự sự rèn luyện và trải nghiệm thì có thông minh đến đâu cũng khó làm nên nghiệp
lớn. Ma ma nghĩ tại sao Tiêu Trạng nguyên thiếu niên anh tài, được tiên
đế vô cùng yêu thích mà lại quyết tâm rời xa triều đình? Y từng mượn cớ
vì thiếu kinh nghiệm nên không thể đảm nhiệm chức vụ cao, tuy câu nói
này có phần chỉ là lý do thoái thác, nhưng tuyệt đối không sai, mấy năm
nay Tiêu Uẩn luôn ngao du khắp thiên hạ, đó chính là mưu tính sâu xa của Tiêu lão gia. Nếu nói như vậy, Tạ Thiếu Văn dù ít tuổi hay nhiều tuổi
hơn thế tử Trấn Quốc Công Dương Tùng Chi thì cũng không thể so với y,
một người trưởng thành trong quân doanh từng nhiều lần theo cha xuất
chinh, Tạ Thiếu Văn từ lâu đã thua ngay từ mốc khởi đầu rồi.”
*Nguyên văn là từ Tu vi (hay gặp trong truyện huyền huyễn): Từ chỉ năng lực, tu dưỡng, tố chất của một con người.
Cẩm Sắt nói bằng giọng thản nhiên, câu nào câu nấy nhấn đúng trọng
tâm khiến Liễu ma ma nghe mà đăm chiêu suy nghĩ, Cẩm Sắt thấy bà như
vậy, đoạn không nhiều lời nữa. Nàng ra rả như vậy đơn giản vì muốn Liễu
ma ma có thể so sánh bọn họ với nhau, cùng có xuất thân tôn quý, nhưng
vì cách dạy dỗ khác nhau mà tính tình cũng sẽ khác biệt cả ngàn dặm, dẫn đến hoàn cảnh càng thêm chênh lệch, e rằng trong vòng mười năm, sự
chênh lệch này sẽ càng nới rộng hơn, cuối cùng trở thành sự cách biệt
như trời với đất.
Khoảng nửa canh giờ sau Cẩm Sắt mới tới gặp Bình Nhạc Quận chúa, nàng nằm tựa đầu trên gối mềm màu vàng, tóc dài xõa xuống vai, tuy đang nghỉ ngơi nhưng sắc mặt vẫn có vẻ không tốt lắm, trông cực kỳ yếu ớt.
Căn phòng được sắp xếp thành phòng ở cữ tạm thời, hai mặt cửa sổ được che tấm vải đen, tuy đốt hai chiếc đèn thật to nhưng trong phòng vẫn
đầy vẻ âm u như trước.
Ánh đèn màu vàng rọi vào đôi gò má gầy gò của Bình Nhạc Quận chúa,
làn da ngọc có vẻ hơi vàng vọt, đôi môi trắng nhợt, trông thần sắc u tối ốm yếu. Nhưng dù vậy cũng không giấu được vẻ đoan trang bẩm sinh trên
gương mặt, đôi mắt hạnh long lanh ngấn nước như phủ lớp sương mù nhẹ.
Hiện giờ nàng mới 23 tuổi, đương tuổi thanh xuân đẹp đẽ nhất, vẻ tiều
tụy buồn bã này có vẻ khiến nàng trông xinh đẹp đáng thương động lòng
người, làm cho người khác nhìn mà sinh lòng thương tiếc.
Cẩm Sắt còn chưa hành lễ chào hỏi thì đã bị nàng gọi tới trước mặt,
sau đó nàng cầm tay Cẩm Sắt, mở miệng nhưng không nói lời cảm kích khách sáo mà chỉ dùng ánh mắt vương hồi ức cảm khái: “Quả là giống Liêu Hoa
tỷ tỷ như đúc, nhưng dung mạo có vẻ xinh đẹp hơn, phong thái cũng trầm
tĩnh hơn chị ấy. Ngươi có lẽ không biết, năm xưa ta vô cùng thích ở gần
mẹ ngươi, đơn giản vì năm ấy Liêu Hoa tỷ tỷ là cô gái xinh đẹp nhất
trong số các vị tiểu thư khuê các. Khi đó ta nghịch như khỉ, còn từng
nói đùa kiếp sau phải đầu thai làm đàn ông để cưới một cô gái xinh đẹp
như mẹ ngươi làm vợ. Sau này chị ấy gả chồng theo về Giang Châu nhậm
chức, từ bấy tới giờ chưa từng gặp lại, không ngờ chớp mắt một cái ngươi đã lớn thế này, quả thật là năm tháng như thoi đưa.”
Bình Nhạc Quận chúa nói với giọng buồn bã, Cẩm Sắt biết nàng hẳn
nhiên lại đang nghĩ tới duyên phận vợ chồng ngắn ngủi, còn đương nghĩ
nên khuyên nhủ thế nào thì nàng chợt mỉm cười cất tiếng: “Trước kia mẹ
ngươi giống chị gái ta thường gọi ta là Vân Nhi, ngươi nếu bằng lòng thì cũng gọi ta một tiếng Vân di* nhé, được không?”
*Di: Dì.
Kiếp trước Cẩm Sắt 17 xuân xanh, bây giờ tính ra thực chất nàng cũng
chỉ kém Bình Nhạc Quận chúa có 5 tuổi*, gọi nàng bằng dì cũng không phải không được, Bình Nhạc Quận chúa mới nói vài câu đã khiến nàng thấy rất
thiện cảm, cũng sinh lòng mong muốn kết giao bạn bè. Vì vậy Cẩm Sắt nghe vậy chỉ cười nói: “Quận chúa và mẫu thân tiểu nữ chênh nhau đến 10 tuổi nhưng người chỉ gọi mẫu thân là tỷ tỷ, bây giờ Quận chúa hơn tiểu nữ
khoảng 12 tuổi mà bắt tiểu nữ phải gọi người bằng dì, sao có thể thế
được? Quận chúa tưởng tiểu nữ không biết tính toán sao?”
*Giải thích thêm một chút, kiếp trước Cẩm Sắt sống đến năm 17
tuổi, kiếp này sống lại năm 11 tuổi, Bình Nhạc Quận chúa kiếp này 23
tuổi, vậy thật ra chỉ kém Bình Nhạc Quận chúa tầm 5-6 tuổi nhé, gọi bằng dì thì hơi già.
Giang An Huyền chủ ngồi bên cạnh nghe vậy chợt nhoẻn miệng cười, nàng và phu nhân Trấn Quốc Công vốn thân quen, nàng cũng rất thương Bình
Nhạc Quận chúa, thấy cô gái tuổi còn trẻ đã trở thành góa phụ thì đương
nhiên muốn Bình Nhạc Quận chúa phải tiếp xúc nhiều với các thiếu nữ trẻ
tuổi khác, tương lai sau này cũng thuận lợi tìm kiếm một mối lương
duyên, bây giờ nghe lời Cẩm Sắt hợp với lòng mình thì lập tức lên tiếng: “Cẩm nha đầu nói phải đấy, gì mà Vân di chứ, tự dưng gọi vậy khiến bản
thân già đi mấy tuổi. Theo ta thấy, Cẩm Sắt cứ gọi là Vân tỷ tỷ đi.”
Cẩm Sắt lanh lảnh đáp ứng, không đợi Bình Nhạc Quận chúa phản ứng lại đã nhìn sang cậu bé đang nằm chỗ khuỷu tay của nàng rồi nói: “Lần tới
dâng hương lễ bái này thật đáng giá quá, tự dưng muội lại có thêm một
đứa cháu trai kháu khỉnh, đáng yêu quá đi thôi.”
Bình Nhạc Quận chúa thấy Cẩm Sắt và Giang An huyền chủ chỉ bằng một
câu đã tự ý quyết định việc này, hoàn toàn không để mình xen vào thì
liền hiểu rõ ý tứ của hai người, bất giác nàng lắc đầu cười khổ.
Cẩm Sắt đương muốn dùng tay sờ vào đôi môi đỏ hồng của đứa bé, ngón
tay còn chưa đụng tới cánh môi đang trề ra thì đứa bé đột nhiên mặt nhăn mày nhó khóc òa lên.
Cậu bé vừa khóc Cẩm Sắt liền hoảng vía, vội vàng rút tay về, mặt đầy
áy náy nói: “Có lẽ do muội trồng hoa lâu năm nên trên tay vương mùi lạ
chăng? Làm thế nào bây giờ.”
Bình Nhạc Quận chúa vì không có kinh nghiệm nên cũng hơi bối rối, vú
nuôi bước lên xem rồi cười với Cẩm Sắt: “Tứ tiểu thư đừng sợ, tiểu thiếu gia vừa tè dầm.”
Vú nuôi ôm đứa bé đi thay tã, Cẩm Sắt lè lưỡi cười trừ, bộ dạng hệt
một cô bé đáng yêu, khiến Bình Nhạc Quận chúa và Giang An huyền chủ phải phá lên cười.
“Phải vậy chứ, là tiểu cô nương thì phải có dáng vẻ của tiểu cô nương chứ.” Giang An huyền chủ cười nói.
Bình Nhạc Quận chúa cũng cười phụ họa: “Ta cứ tưởng Liêu Hoa tỷ tỷ đã là người trầm tĩnh, không ngờ con gái chị ấy còn trò giỏi hơn thầy ấy
chứ.”
Cẩm Sắt bị chọc ghẹo đến mặt mày ửng hồng, thấy gương mặt Bình Nhạc
Quận chúa đượm vẻ u tối nhưng vì cười lên mà nét mặt bừng sáng thì cũng
chợt vui vẻ theo, giả bộ nhăn nhó ngượng ngùng, khiến cho nàng ấy lại
cười thêm một lúc.
Vú nuôi cho đứa bé bú sữa, thay tã xong rồi ôm tới, đứa trẻ vẫn đang
tỉnh, đôi mắt đen bóng như hạt nhãn. Cẩm Sắt trêu đùa một lúc, sau đó
mới lấy một chiếc bùa hộ mệnh trong ngực ra rồi nói: “Đáng lẽ muội nên
chuẩn bị lễ vật, nhưng vì vội quá nên không kịp làm y phục, bùa hộ mệnh
này hôm nay muội mới xin ở trong chùa, tỷ và bé đừng chê nhé.”
Nàng nói xong đặt tấm bùa xuống cạnh chiếc bọc, Bình Nhạc Quận chúa
gỡ dây màu đỏ đeo vào cổ đứa bé, sau đó nói: “Hôm nay ít nhiều đã làm
phiền tới muội, tỷ và con mang ơn muội, thằng bé đeo bùa hộ mệnh muội
xin trong chùa thì còn gì tốt hơn chứ.”
Cẩm Sắt ngượng ngùng cười, Giang An Huyền chủ đã nghe nói đến chuyện
hôm nay, bây giờ mới có cơ hội lên tiếng hỏi: “Sao Cẩm Sắt ra ngoài lại
mang theo bên mình hoa lan và Điền Thất vậy?”
Cẩm Sắt cười đáp: “Bồn hoa lan kia vốn luôn đặt trong phòng của tiểu
nữ, mỗi đêm tiểu nữ phải ngửi hương hoa thì mới thiếp đi được, bình
thường khi tới chùa cũng không mang theo, nhưng mấy ngày trước tiểu nữ
vốn bị bệnh, từ lúc ấy vẫn ngủ lúc được lúc không, tiểu nữ sợ vào chùa
không ngửi quen hương thì mất ngủ nên mới mang bồn hoa theo. Còn củ Điền Thất kia thì… Mẫu thân năm ấy sau khi sinh không được chữa trị cẩn thận nên qua đời sớm, trước khi mẫu thân lâm bồn, phụ thân đã sớm tìm kiếm
khắp nơi những gốc Điền Thất thượng hạng, đáng tiếc sau khi mẫu thân qua đời mới tìm thấy, chậm trễ hết thảy. Hai ngày trước đương lúc mơ mơ
màng màng, nửa mê nửa tỉnh tiểu nữ chợt mơ thấy mẫu thân, thấy người và
phụ thân ở thế giới bên kia vẫn nặng tình bên nhau, mẫu thân còn mang
thai nữa, khi trò chuyện với phụ thân chỉ lo lại dẫm vào vết xe đổ của
kiếp trước. Sau khi tỉnh lại, tiểu nữ luôn nhớ mãi cảnh này, vì thế mới
lên núi dâng hương, trước khi rời phủ càng cân nhắc mãi xem có nên mang
theo gốc Điền Thất kia không, tiểu nữ nghĩ nếu lúc dâng hương đặt nó
trước đèn chong của mẫu thân thì cũng yên tâm phần nào. Nhưng hóa ra
không phải mẫu thân cần đến nó, mà vì người nhớ đến Vân tỷ tỷ, cho nên
mới báo mộng cho tiểu nữ.”
Giang An huyền chủ nghe vậy cả cười, nàng nói với Bình Nhạc Quận
chúa: “Ngươi đúng là đứa lắm phúc, ngay cả ông trời cũng phù hộ cho, bây giờ có con rồi, phải tích phúc nhiều vào, đừng tuỳ hứng nữa!”
Bình Nhạc Quận chúa hoảng hốt, nàng nhìn đứa bé trong lòng mà mắt
ngấn nước. Cẩm Sắt cầm tay nàng, cũng nhìn sang đứa bé, ánh mắt đong đầy hồi tưởng, nàng cất tiếng: “Sau khi mẫu thân qua đời, phụ thân rất
thương yêu chiều chuộng hai chị em muội, không nỡ nói nặng một câu. Ông
nội càng thương hại hai đứa bé thuở nhỏ đã mất mẹ mà đích thân dốc lòng
dạy dỗ. Khi đó em trai còn bé, muội thì đã hơi hiểu chuyện, dù không có
mẹ ở bên nhưng cũng ít khi thấy thiếu thốn gì so với những đứa trẻ khác. Nhưng thi thoảng đến đêm khuya vắng người muội lại da diết hồi tưởng
đến cảnh được mẹ ôm vào trong lòng, nhớ lúc muội diện đồ mới có mẹ ở bên ngắm nhìn khen ngợi, cưng nựng yêu chiều. Ban ngày muội luôn được đám
ma ma, nha hoàn vây quanh, được ăn ngon mặc đẹp, nhưng khi ở trên đường
muội lại có thể ngơ ngẩn đứng nhìn một đứa bé nhà nghèo đang được mẹ đút cho một miếng bánh bột đen sì, trong lòng tha thiết mong ước bản thân
cũng được mẹ đút cho một miếng bánh ôi thiu cứng đờ như vậy… Nếu được
thế thì dù phải đổi bằng cuộc sống ăn sung mặc sướng, vinh hoa phú quý
thì muội cũng cam lòng.”
Giọng Cẩm Sắt vô cùng nhẹ nhàng, như đang kể lể cho chính bản thân
nghe vậy, tuy giọng nói không buồn cũng chẳng vui, nhưng đượm đầy vẻ
nghẹn ngào hồi tưởng. Không hiểu sao giọng nói nhàn nhạt của nàng lại có thể khiến cho người nghe cảm thấy vô cùng xúc động, ai nấy đều bất chợt âu sầu buồn bã. Giang An Huyền chủ dù là người từng trải sự đời, hiếm
khi xúc động, thế mà bây giờ nghe vậy mắt chợt hoen lệ.
Cẩm Sắt tựa như vẫn còn chìm đắm trong hồi ức, nàng dường như không
nhận ra bầu không khí khác thường, nàng hơi ngừng lại một chút, sau đó
mới mỉm cười tiếp lời: “Sau này khi phụ thân qua đời, muội và em trai
được ông nội nuôi nấng, nhưng ông nội vốn đã lớn tuổi, dù lòng muốn
nhưng sức không đủ, cho nên em trai muội tính tình vẫn bướng bỉnh ương
ngạnh từ bấy tới giờ. Vân tỷ tỷ, chắc tỷ cảm thấy một đứa trẻ dù mồ côi
cả cha lẫn mẹ thì vẫn còn có ông bà nội thương yêu chăm sóc, vẫn có chỗ
dựa là gia tộc bên ngoại, hơn nữa còn có các vị chú bác, cô dì trong
dòng họ. Nhưng đối với các vị trưởng bối, cháu chắt đâu phải chỉ có một
đứa? Người xưa có câu lòng bàn tay mu bàn tay đều là thịt, nếu một đứa
trẻ thuở nhỏ đã mồ côi cha mẹ, được trưởng bối sinh lòng thương hại mà
yêu thương chiều chuộng, cứ mãi như vậy, các vị chú bác cô dì của nó
chẳng lẽ có thể vừa lòng, không sinh oán giận sao? Đám anh em đồng lứa
có thể không vì đố kị mà sinh ra ghen ghét hay sao? Còn nếu đứa bé này
được trưởng bối đối xử giống như những đứa trẻ khác, nó sẽ thấy ai ai
cũng có cha mẹ bên cạnh quan tâm chăm sóc, chỉ có mình nó là không có,
vậy liệu nó có cảm thấy tủi thân không? Lâu dần trưởng thành, liệu nó có trở thành hạng người ương bướng hay không đây?”
Nàng thấy Bình Nhạc Quận chúa hơi siết chặt tấm bọc lót đứa bé thì
mới nói tiếp: “Vân tỷ tỷ có lẽ hiểu được chuyện gì cũng có điều ngoài ý
muốn, có thể đứa bé này không có cha mẹ bên cạnh vẫn có thể thuận lợi
lớn lên khỏe mạnh, có lẽ nó vẫn có thể trở thành một nam nhi đầu đội
trời, chân đạp đất. Nhưng đứa bé này là máu mủ duy nhất của tỷ và Lý Đại thiếu gia, chẳng lẽ tỷ thật sự có thể đành lòng rời xa đứa nhỏ, để nó
lớn lên trong thiệt thòi? Chẳng lẽ chị tin vào những chuyện “có thể, có
lẽ” này sao? Vân tỷ tỷ, trên đời này đối với con trẻ, chẳng ai có thể
thay thế mẫu thân, cũng chẳng có bà mẹ nào bằng lòng rời xa con mình cả, dù chị có nhung nhớ đến người chồng đã mất thì cũng không thể buông
xuôi trách nhiệm. Củ Điền Thất quý hiếm kia dù là thuốc bổ máu thượng
hạng, nhưng nếu không nhờ vào sự gắng gượng của bản thân tỷ thì thuốc
kia cũng chẳng được tác dụng gì. Nếu trong mắt tỷ chỉ có tình yêu, không còn nhớ đến bất kỳ thứ gì, vậy ngay cả muội, một bé gái hơn chục tuổi
cũng sẽ coi thường tỷ.”
Những lời Cẩm Sắt nói, sao Bình Nhạc Quận chúa lại không hiểu chứ,
nhưng nàng vì bỗng nhiên mất đi người chồng đầu ấp tay gối nên cực kỳ
đau khổ đến mức như mê muội đầu óc, những lời này nếu do người khác nói
thì chưa chắc có tác dụng. Nhưng chính vì người nói là Cẩm Sắt, một cô
bé 11 tuổi không nơi nương tựa nên Bình Nhạc Quận chúa mới xúc động khó
mà kiềm chế. Nàng ôm chặt đứa bé vào lòng, nỉ non không ngừng.
Cẩm Sắt cũng không nói gì thêm nữa, trong nhất thời bầu không khí
trong phòng tở nên u sầu khôn tả, một hồi lâu, Bình Nhạc Quận chúa mới
ngẩng đầu lên, hai hàng lệ tuôn, nức nở hỏi Cẩm Sắt: “Nếu không có mẫu
thân sẽ rất khổ sở ư?”
“Thật, rất khổ sở, mỗi khi nhớ về mẫu thân, cảm giác như trái tim bị khoét mất một góc vậy, vô cùng trống trải.”
“Nếu không có mẫu thân ở bên thì sẽ khó trưởng thành khỏe mạnh ư?”
“Thật, không có mẹ đứa trẻ sẽ sớm phải hiểu biết mọi chuyện, đâu phải do nó mong muốn như thế, quả thật từng bước gian nan.”
Bình Nhạc Quận chúa và Cẩm Sắt cứ một người hỏi một người trả lời,
một người hoảng hốt, một người bình thản, nhưng chỉ bằng mấy câu này đã
khiến đám nha hoàn bà vú trong phòng đều rơi nước mắt.
Bình Nhạc Quận chúa hỏi xong hai câu này liền thôi, chỉ lặng lẽ chôn
mặt vào tấm vải bọc, bả vai run rẩy không ngừng, nức nở nghẹn ngào đến
khản cả cổ họng. Mặt khác hiện giờ ở ngoài phòng, Dương Tùng Chi và Tiêu Uẩn đang đứng sóng vai bên cửa sổ, dường như đã nghe thấy toàn bộ câu
chuyện. Một hồi lâu sau, con bé nha hoàn thấy bên trong chẳng vang lên
động tĩnh gì thì mới định thông báo họ đến, nhưng Tiêu Uẩn lại khoát tay ngăn lại.
Dương Tùng Chi và Tiêu Uẩn ăn ý mười phần đồng thời xoay người bước
ra ngoài, xuống bậc tam cấp, Dương Tùng Chi thở dài một tiếng, chau mày
nói: “Đi, ra sau núi uống rượu thôi, ta thấy buồn bực quá.”
Tiêu Uẩn thấy Dương Tùng Chi xưa nay vốn ít thể hiện cảm xúc, hiện
giờ tuy nét mặt hơi ủ dột nhưng bước chân có vẻ sảng khoái hơn nhiều, y
cũng cười theo: “Thư Hàn, hôm nay chúng ta không say không về.”
Hai người đi ra tới cổng, Tiêu Uẩn bất giác quay đầu lại, sau đó vừa bước đi vừa đăm chiêu suy nghĩ.
Có thật đi từng bước cũng gian nan không? Cô bé trầm tĩnh, thông minh nhanh nhạy nhưng luôn có vẻ thờ ơ hóa ra là bởi vậy sao…
Nửa canh giờ sau Cẩm Sắt mới cáo lui, Triệu ma ma đích thân tiễn nàng ra ngoài, đi tới sân, bà cầm tay nàng nói: “Quận chúa vốn trong lòng
muốn buông xuôi hết thảy, hôm nay may mà có tiểu thư khuyên giải, có lẽ
người đã thông suốt hết thảy rồi, lão nô thay mặt phu nhân nhà ta cảm tạ tiểu thư.”
Cẩm Sắt vội đỡ bà dậy, ngượng ngùng nói: “Vừa nãy do tiểu nữ nhất
thời xúc động, khiến Quận chúa rơi lệ, chỉ sợ mình xử sự thất lễ, làm
hại mắt người, ma ma không trách ta là tốt rồi, lại còn ơn huệ gì nữa.
Ta nghe nói dùng lá cam đun lấy nước rồi để lạnh chườm vào có thể khiến
mắt đỡ nhức, ma ma chốc nữa thử dùng cho Quận chúa xem, nếu Quận chúa mà bị hại mắt thì thật sự do lỗi của ta rồi.”
Triệu ma ma lắc đầu nói: “Tiểu thư không biết đấy thôi, từ khi Đại
thiếu gia mắc bệnh qua đời Quận chúa chưa từng khóc lớn tiếng, chỉ âm
thầm rơi lệ, khiến lão nô rất sợ. Đại phu nào cũng nói người mắc bệnh bi thương quá độ, tích tụ trong lòng không trút ra được, còn có thể nguy
ngập đến tính mạng nữa. Trước kia còn đỡ, bây giờ vừa trải qua cơn đau
sinh đẻ, cơ thể càng suy yếu, nếu trong lòng lại cứ rầu rĩ không thôi
thì dù có điều dưỡng thế nào cũng vô hiệu, chỉ sợ càng tổn hại thêm đến
cơ thể. Bây giờ người khóc được thế này, lão nô mới thật sự yên tâm.
Tiểu thư hai ngày tới phải năng sang trò chuyện với Quận chúa đấy nhé.”
Cẩm Sắt mỉm cười đáp ứng, sau đó trở về viện riêng. Từ đêm qua tới
giờ nàng vì chuyện Bình Nhạc Quận chúa bị động thai nên chưa từng tới
trước đèn chong của cha mẹ thắp hương lễ bái, bây giờ rỗi rãi, sau khi
dùng xong một chén trà nhỏ nàng liền khoác áo choàng gấm đính lông cáo
thêu họa tiết hình tròn mang theo Bạch Chỉ và Kiêm Nhi rời viện.
Hiện giờ trời vào hoàng hôn, ánh tà dương chiếu rọi muôn nơi, gió núi thổi mạnh, khách hành hương vãn dần xuống núi, còn các tăng nhân thì
đang tập trung trong đại điện để tụng kinh buổi chiều muộn, vì thế trong chùa mọi nơi thanh tịnh, Cẩm Sắt đến điện Trường Thanh để lễ bái trước
đèn chong thì thấy trong điện từng hàng đèn dầu được thắp sáng rực rỡ.
*Chú thích: Đèn chong là loại đèn dầu thắp suốt ngày đêm trước
tượng Phật hoặc trước tượng Thần. Thời xưa thường có tục đem bài vị của
người thân lên chùa cúng bái, trước bài vị của người thân họ cũng đặt
đèn chong và ở đây Cẩm Sắt quỳ trước đèn chong có nghĩa là quỳ trước bài vị của cha mẹ và ông bà nội mình.
Cẩm Sắt lặng nhìn một hàng bốn ngọn đèn chong của ông bà nội và cha
mẹ đến ngẩn người, lát sau nàng quỳ xuống bồ đoàn, hai tay chắp thành
hình chữ Thập*, vẻ mặt thành kính yên lặng cầu nguyện.
*Chữ Thập: 什
Cha mẹ ở trên trời, con gái xin dập đầu tạ lỗi với hai người, con gái hồ đồ cả một kiếp, nay được sống lại, xin thề sẽ bảo vệ em trai chu
toàn, mong rằng cha mẹ trên trời linh thiêng phù hộ cho con gái và Văn
Thanh kiếp này được bình an hạnh phúc, mọi chuyện suôn sẻ thuận lợi.
Cẩm Sắt chậm rãi bái lạy, một lát sau mới nhờ Bạch Chỉ dìu đứng lên, nàng đứng lặng một hồi, sau đó đeo lại mũ trùm đầu.
Cả ngôi chùa cực kỳ yên tĩnh, khách đi lễ chùa thưa thớt, trong sân
chỉ có mấy tiểu Sa di đương quét tước bốn phía, chút nắng chiều tà đang
rọi xuống muôn nơi, phủ một tầng sáng màu cam lên vạn vật. Gió đêm nổi
lên, bên tai lướt qua tiếng chổi xào xạc trên mặt đất, lòng người theo
cảnh vật buổi xế chiều trở nên tĩnh mịch.
Cẩm Sắt ra khỏi điện bất chợt chậm bước, nàng vừa trở về sân viện vừa trầm tư suy nghĩ.
Thiền viện cổ kính trầm lắng, bốn phía vắng vẻ yên bình, Kiêm Nhi và
Bạch Chỉ đi sau Cẩm Sắt cũng hơi chậm bước, đâu ngờ tới một đoạn rẽ, đột nhiên một bóng người lao ra. Người nọ cúi đầu dường như đang tìm kiếm
thứ gì đó, hiển nhiên có vẻ không trông thấy ba người họ, hắn loạng
choạng như muốn đâm thẳng vào người Cẩm Sắt.
Cẩm Sắt giật mình, vội lui về sau, Bạch Chỉ thì quát to: “Đăng Đồ Tử, đi đâu vậy!”
Hắn như bừng tỉnh, chân bước lảo đảo, cơ thể chực nghiêng ngả, hai
tay quơ lung tung, loạng choạng thêm vài bước rồi mới đứng vững được.
Vừa nãy trong lúc vô tình hắn vung tay làm rơi chiếc mũ trùm đầu của
Cẩm Sắt, sau đó đương lúc hoảng loạn Cẩm Sắt được Bạch Chỉ và Kiêm Nhi
che chắn phía trước, cánh mũi nàng vẫn vương mùi son phấn trên người hắn ta, nàng hơi cau mày nhìn chằm chằm về phía hắn.
Đúng lúc đó hắn cũng nhìn sang Cẩm Sắt, ánh mắt bọn họ chợt giao nhau, hắn ta nhìn rõ gương mặt nàng bỗng dưng ngây dại si mê.
“Đồ vô liêm sỉ! Ngươi nhìn gì vậy!” Bạch Chỉ thấy hắn vô lễ nhìn
thẳng vào mặt Cẩm Sắt thì lập tức giận dữ mắng mỏ, sau đó bước nhanh lên trước chặn tầm mắt hắn, còn Kiêm Nhi thì nhặt chiếc mũ trùm đầu rơi
trên đất lên đội lại cho nàng.
Hắn ta bấy giờ mới tỏ vẻ bừng tỉnh, lui về phía sau vái chào với Cẩm
Sắt rồi nói: “Tiểu sinh đánh rơi sợi dây đính đồ trang trí cho chiếc
quạt*, sợi dây này vốn do bà nội đã qua đời của tiểu sinh ban tặng, vì
vậy tiểu sinh mới lo lắng kiếm tìm khắp nơi, chẳng ngờ đụng phải tiểu
thư, tiểu sinh tội đáng muôn chết, xin tiểu thư thứ lỗi!”
*Dây đeo quạt (Phiến trụy: Phiến: quạt, trụy: dây đeo rủ xuống)
là một loại trang sức nhỏ nhắn nhằm tăng vẻ sang trọng cho chiếc quạt
giấy thông thường. Người ta thường đính hoặc khâu những viên ngọc, đá,
mã não, san hô, ngà voi chạm trổ vào đuôi quạt, trên đó khắc những hoa
văn cát tường (may mắn).