Đại Phách Quan

Chương 45




Bạch y như tuyết, quãng thời gian năm năm tựa hồ chưa từng tồn tại, rõ ràng vẫn là Thiếu khanh Đại Lý Tự một thân quan phục cuộn người ngủ trong kiệu ngày nào, nhưng đôi nhãn châu càng thêm trong trẻo phân minh, như hai dòng suối, tú sắc thanh dật chói mắt bức người, không có nửa phần khói lửa nhân gian, nhìn Phó Khinh Trần chỉ nhẹ nhàng mỉm cười, ngay cả nốt ruồi nho nhỏ kia cũng như muốn nói lên bao nhiêu hoan hỷ mãn nguyện.

——–

Mùa đông Kiến Bình năm thứ ba, đại tướng Lương Châu Nhan Mục tạo phản, cấu kết thủ lĩnh Lý Ngụy của bộ lạc Lãng Yết bất ngờ tập kích Lương Châu, trong vòng mười ngày chiếm được thành đầu tiên ở phía bắc Trữ quốc, hiện tiến quân hướng Thâm Châu.

Đàn Khinh Trần không rời Tĩnh Phong nhưng đã định liệu trước, đại cục đều nắm rõ.

Đầu tiên cực kỳ táo bạo dùng danh tướng thiếu niên Tạ Trọng Hành, nhờ Cửu vương Phó Lạc Phong trợ giúp, điều khiển hai mươi vạn kỵ binh, từ Thâm Châu đánh thẳng bắc tuyến; lại lệnh Tây Châu hầu Thương Thanh Quảng dẫn mười vạn quân chọn tuyến đường qua sông Liêu Long, xâm nhập thảo nguyên, thừa lúc các bộ lạc chia rẽ, đánh sườn kích phá, khiến Lãng Yết ở bắc tuyến hai mặt đều thọ địch.

Lãng Yết Lý Ngụy, kỵ binh của Nhan Mục tuy thế như sấm chớp, mỗi lần lâm trận là không gì cản nổi, nhưng lại bị đại quân Trữ quốc đánh úp hai đầu phải lui mấy ngàn dặm, bỏ chạy thục mạng để thoát thân, Tạ Trọng Hành nhẫn nại kinh người, dĩ dật đãi lao, kỵ binh Lãng Yết tới, liền tránh đi mũi nhọn, lại thừa thế khó này, không công thành, không chiếm lộ, chỉ chờ Thương Thanh Quảng đến mở Yết thành, lưỡng quân tứ hợp, đại phá Lãng Yết, nhất cử đoạt lại Lương Châu, đánh hạ Yến Chi quan, thâm nhập Vân Sóc.

Chỉ một trận chiến, diệt hết năm vạn kỵ binh tinh nhuệ của bộ lạc Lãng Yết, dê cừu chiếm mấy chục vạn con.

Vài trăm năm sau trận chiến này ở thảo nguyên lưu truyền bi ca: Mất Vân Sóc sơn, khiến lục súc ta tan đàn xẻ nghé, mất Yến Chi quan, khiến nữ tử ta không còn hồng nhan. (chơi chữ, Yến Chi ≈ yên chi = son phấn)

Nhan Mục một mình cưỡi ngựa, thân bị trúng tên, nhờ vào khứu giác chiến trường trời sinh thoát khỏi loạn quân.

Đến hoàng hôn ngay dưới hẻm núi Ngũ Ưng, bị một tiểu đội kỵ binh Trữ quốc gồm vài chục người phát hiện bao vây.

Nhan Mục tiễn thương rất nặng, mất máu quá nhiều, không thể chiến đấu được nữa.

Đột nhiên từ trên khe núi một thân ảnh bay xuống, đáp trên lưng ngựa của Nhan Mục, ôm hắn từ sau, khẽ quát một tiếng, thúc ngựa phóng thẳng vào giữa loạn thạch.

Truy binh chỉ thấy họ hai người một ngựa giữa loạn thạch rẽ đông vòng tây, chớp mắt đã biến mất trong màn đêm dần buông xuống.

Vội chạy theo, một lòng muốn bám gót, nào ngờ chạy đông chạy tây, vào nam ra bắc, nhưng càng đi càng loạn, thủy chung vẫn chỉ vòng quanh trận loạn thạch này, truy binh hoảng hốt, có người còn kinh hô là quỷ dẫn đường.

Nhan Mục trọng thương, thần trí vẫn tỉnh táo, thoát khỏi trận loạn thạch, quay đầu nhìn, không khỏi cười nói: “Thì ra là ngươi.”

Dường như yên tâm, ở trên lưng ngựa mơ màng ngủ.

Niếp Thập Tam thúc ngựa vọt tới trước một hang núi, thấy Hạ Mẫn Chi đã chờ ở cửa động, cười nói: “Hoàn thành sứ mệnh.”

Nắm lấy đai lưng trên hông Nhan Mục, vác hắn xuống ngựa.

Hạ Mẫn Chi vội đỡ Nhan Mục, để Niếp Thập Tam cõng hắn vào động, một bên cười lạnh khinh thường nói: “Có ta bày trận loạn thạch, cho dù là heo cũng có thể cứu hắn về, gì mà hoàn thành sứ mệnh.”

Niếp Thập Tam biết hắn khẩn trương sốt ruột, cũng không nổi giận, hỏi: “Sao ngươi biết hắn nhất định đi qua hẻm núi Ngũ Ưng này?”

“Ngũ Ưng dễ thủ khó công, phía trước còn là sơn cốc nhỏ hẹp, chỉ qua lọt một người, truy binh khó tới… Hơn nữa hắn là đại ca ta, mấy năm trước, đều do hắn dạy ta binh pháp đánh trận, ta còn không hiểu hắn sao?”

Niếp Thập Tam giúp an trí Nhan Mục xong, rút đầu tên ra, băng bó vết thương cho hắn, suy nghĩ một chút, điểm huyệt ngủ của hắn, mới lên ngựa quay lại trận loạn thạch.

Binh sĩ trong trận đã sớm không ngừng kêu khổ. Kẻ thông minh chỉ muốn đợi lúc sao lên, theo hướng sao ra khỏi trận quái thạch này, nhưng lại trớ trêu gặp phải đêm đông gió dữ, bão tuyết càn quét đến cả người vô tri giác, chỉ còn nước chờ chết trong đói lạnh.

Đang bi ai không biết có thể sống qua đêm nay hay không, chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên, một hắc y thiếu niên đột nhiên xuất hiện, mắt như điểm sơn mày như mực họa, nhìn thân hình chính là người đã cứu Nhan Mục trước đó, binh sĩ không khỏi trong lòng sợ hãi.

Lại nghe hắn cao giọng nói: “Đi theo ta.”

Thúc ngựa dẫn đầu, mọi người theo sát phía sau, chỉ thoáng chốc, đã ra khỏi trận.

Mọi người đang kinh nghi bất định, thiếu niên kia lạnh lùng nói: “Chuyện hôm nay, chư vị coi như chưa từng xảy ra, mới có thể giữ được tánh mạng.”

Dứt lời phi thân, đáp xuống giữa trận, trường kiếm trong tay vẽ ra một đạo lệ quang, những tảng đá lớn trong trận loạn thạch đều vỡ nát, vụn đá bắn mịt mù.

Một kiếm này xuất thần nhập hóa, còn có uy lực khai thiên tịch địa.

Đám binh sĩ nhìn đến trong lòng kinh hãi, thấy hắn khí thế như vậy, lại nghĩ tới chuyến này vô công trở về, cho dù báo lại chủ tướng, cũng không được thưởng, vội răm rắp đáp ứng, tức tốc rời đi.

Trong động vô cùng ấm áp, trên mặt đất trải một lớp da sói thật dày, còn có một đống lửa, Niếp Thập Tam tiện tay dùng một tảng đá khổng lồ chắn trước miệng hang, nghe bên ngoài tiếng gió gào thét, nói: “Khổ cho đám binh sĩ kia.”

Hạ Mẫn Chi thấp giọng nói: “Cũng may đêm nay không sao, nếu bọn họ muốn nhờ trăng sao chỉ đường, e rằng chỉ càng phí công, sức cùng lực kiệt, đã sớm chết trong trận.”

Kéo tay Niếp Thập Tam, nói: “Thập Tam, ngươi cứu người chứ không đả thương nhân mạng, ta rất thích. Mười một năm trước ta từng một phen lãnh binh cứu đại ca, lần đó hại chết quá nhiều người, mấy năm qua nghĩ lại, vẫn luôn thấy hối hận…”

Lại thở dài: “Đời này chúng ta không còn gì tiếc nuối, nhưng thế nhân khổ nạn liên miên, không biết tới khi nào mới có thể được hưởng thái bình. Đại ca ta đánh trận này là vì đại nghiệp phục quốc, đẩy các bộ lạc thảo nguyên vào chiến họa, tự nhiên không đúng. Đàn Khinh Trần đánh trận này, một nửa là vì hùng tâm bá nghiệp của bản thân, một nửa cũng là vì Trữ quốc, nhưng dân Trữ quốc là người, còn dân Lãng Yết thì không phải người? Dân Yên Diệc cũng không phải người chăng?”

Niếp Thập Tam thấy thần tình hắn kích động, nhẹ nhàng ôm lấy thân thể hắn, nói: “Đương nhiên cũng là người, chúng sinh vốn bình đẳng như nhau.”

“Đại ca ngươi và Đàn sư huynh, đều không qua được ải quyền thế tham dục này.”

“Đừng nói là bọn họ, thậm chí võ lâm hiện tại, sở dĩ có sóng gió phân tranh cũng là vì bốn chữ tham dục quyền thế. Lúc bắt đầu luyện võ thì muốn làm chưởng môn, làm chưởng môn rồi lại muốn thống nhất giang hồ làm minh chủ, làm minh chủ rồi có lẽ sẽ ôm mộng làm hoàng đế, làm hoàng đế xong đại khái sẽ mơ đến trường sinh bất lão, đắc đạo thành tiên.”

Mỉm cười: “Kiếp người trăm năm, bất quá chỉ trôi qua trong nháy mắt, quý ở tùy tính tùy tâm, không thẹn với lòng là được, cần gì phải lo nghĩ như vậy?”

Hạ Mẫn Chi nghe đến vui vẻ thư thái, nhịn không được hôn lên má Niếp Thập Tam.

Niếp Thập Tam lập tức hôn đáp lại, hai người nói cười đùa giỡn khắp động, cuối cùng Niếp Thập Tam ấn Hạ Mẫn Chi ngã xuống tấm đệm da sói, nhìn hắn nước da nõn nà, đôi mắt thu thủy, tuy đã quen ngắm nét phong lưu kia, nhưng lần nào cũng cảm thấy mới mẻ vô cùng, hoàn toàn không có định lực, hô hấp ngưng trệ, cúi đầu xuống, hai người môi lưỡi giao hòa, phóng túng thưởng thức tư vị mỹ hảo của đối phương.

Niếp Thập Tam xưa nay luôn bá đạo trên phương diện tình sự, ngón tay đã kéo xuống nội y da thú của Hạ Mẫn Chi, trực tiếp chạm vào da thịt mềm dẻo mà săn chắc của hắn.

Hạ Mẫn Chi liều mạng ngăn cản, nhưng dưới thế tiến công của hắn, thanh âm đứt quãng hàm hồ: “Dừng tay… Đại ca ta…”

Niếp Thập Tam thấp giọng nói: “Ta đã điểm huyệt ngủ của hắn, hơn nữa hắn đang bị thương.” (hóa ra đây mới là mục đích tối cao của chuyện điểm huyệt ngủ =)))

Hạ Mẫn Chi cả giận, co chân đạp hắn, lại bị hắn áp trụ, còn thừa cơ tách hai chân ra.

Hạ Mẫn Chi vội cường điệu một lần nữa: “Đại ca ta ở đây, ngươi cũng có thể làm ra loại chuyện cầm thú này?”

Niếp Thập Tam động tác không ngừng, thuận miệng nói: “Trong viện nhà chúng ta nuôi một hồ cá vàng, lần trước còn không phải ở ngay bên hồ làm ra loại chuyện cầm thú này sao? Sao lúc đó ngươi không nói?”

Hạ Mẫn Chi phẫn nộ: “Cá vàng với đại ca ta, sao có thể giống nhau được?”

Niếp Thập Tam cười nói: “Con kiến hay hoàng đế, cá vàng hay Mộ Dung, cũng đều là chúng sinh, đâu có gì khác biệt…”

Dứt lời liền dùng miệng hành động, chắn ngay môi Hạ Mẫn Chi, hôn đến triền miên ấm áp.

Một tay giữ hai tay hắn ở bên trên, một tay luồn vào áo choàng nhẹ nhàng lướt qua phần giữa đùi mịn màng nhạy cảm, Hạ Mẫn Chi nhịn không được run khẽ, môi lưỡi nóng bỏng của Niếp Thập Tam men theo đường cong ưu mỹ nơi chiếc cổ thon dài của hắn một đường đi xuống, không nhanh không chậm, nhàn nhã khiêu khích, hai người sống chung mấy năm, với thân thể đối phương đã sớm rõ như lòng bàn tay, Niếp Thập Tam cố tình thăm dò, mỗi một tấc da thịt ở nơi có thể lấy lòng hắn đều không bỏ qua, không lâu sau đó Hạ Mẫn Chi đã triệt để tuyên cáo đầu hàng, trên mặt hiện lên biểu tình tuyệt diễm vừa là thống khổ vừa là sung sướng.

Niếp Thập Tam đang định công thành đoạt đất, chợt nghe Nhan Mục hừ lạnh một tiếng, nói: “Mộ Dung Chi Mẫn, ngươi đúng là không có tiền đồ!”

Thấy Hạ Mẫn Chi bị dọa tới ngẩn ra, cười lạnh: “Ngươi không lấy vợ sinh con tiếp nối huyết mạch Yên Diệc ta thì thôi, ở chung với tên tiểu tử này coi như không màng thế tục nghe theo tiếng lòng, nhưng ngươi cũng không nên bị hắn áp dưới thân như vậy! Chẳng lẽ ngươi không biết áp lại hắn sao?”

Niếp Thập Tam khóe miệng co giật một hồi, ngay ngắn ngồi lên.

Hạ Mẫn Chi cũng đứng dậy, hồn phi phách tán xong, mới hỏi: “Đại ca tỉnh lại từ khi nào?”

Nhãn thần Nhan Mục sắc bén như đao, không chút e dè, nhìn thẳng vào khuôn ngực lộ ra ngoài của hắn: “Lúc các ngươi còn mặc y phục.”

Niếp Thập Tam thân hình thoắt động, đứng chắn trước người Hạ Mẫn Chi, nhíu mày nói: “Thế là ngươi cứ như vậy nằm một bên nhìn lén?”

Nhan Mục nheo mắt quan sát hắn, hắc hắc cười lạnh: “Vô nghĩa! Chẳng lẽ còn muốn ta tự mình thay ngươi áp hắn? Nhưng hắn là huynh đệ ruột của ta a.”

Niếp Thập Tam khóe miệng lại co giật một hồi nữa.

Nhan Mục lại cười nói: “Niếp Thập Tam, năm đó ngươi xuống tay thật độc, cư nhiên phế mất một thân nội lực của ta. Bất quá hôm nay ngươi cứu ta, ân oán từ đây chấm dứt.”

Niếp Thập Tam nói: “Không phải ta, là Thập Ngũ bày trận cứu ngươi.”

Lúc họ nói chuyện, Hạ Mẫn Chi đã chỉnh trang lại y phục, bước qua xem tiễn thương của Nhan Mục.

Trong mục quang lãnh khốc của Nhan Mục ẩn hiện vẻ ôn nhu, nói: “Hai năm trước nghe nói thân phận ngươi bại lộ bị xử tử, thì ra là ẩn thân học trận pháp?”

“Ở lại thảo nguyên, phò trợ ta phục quốc đi.”

Hạ Mẫn Chi thản nhiên nói: “Trận chiến này đã chết không biết bao nhiêu người, hủy diệt vô số nơi, ngươi còn chấp mê bất ngộ, một lòng muốn phục quốc? … Nếu không vì ngươi là đại ca ta, ta căn bản sẽ không cứu ngươi.”

Nhan Mục vết thương đau đớn, trong lòng giận dữ, nhất thời khống chế không được, bật thốt ra: “Nếu không vì ngươi là huynh đệ của ta, năm đó…”

Nói đến nửa chừng, lập tức ngậm miệng lại.

Niếp Thập Tam như thấu hiểu, vội hỏi: “Năm đó thế nào? Độc được Thập Ngũ trúng là Dương xuân tam trọng tuyết?” Ngữ khí nóng nảy, nhãn thần có chút hung ác cường ngạnh.

Tuy rằng Hạ Mẫn Chi đã ăn Bồ đề sinh diệt hoàn, nhưng Niếp Thập Tam biết, trong lòng hắn, thủy chung vẫn cực kỳ để tâm chuyện bị đại ca thân sinh hạ độc, cho nên muốn hỏi ra chân tướng, bất luận độc dược là thật là giả, ít nhất cũng gỡ được khúc mắc trong lòng.

Nhan Mục thở dài, kéo Hạ Mẫn Chi ngồi xuống bên cạnh mình, chăm chú nhìn vào mắt hắn: “Chi Mẫn, ngươi có hận ta không?”

Hạ Mẫn Chi nhãn thần lộ vẻ đau xót, gật đầu.

Nhan Mục cười hỏi: “Vậy lời ta nói, ngươi có tin không?”

Hạ Mẫn Chi không chút do dự, nói: “Ta tin.”

Nhan Mục nói: “Ngươi trúng là Hoàng tuyền, còn thứ ta hạ ngươi, là Dương xuân.”

Mộ Dung Chi Khác mười bốn tuổi đứng trước hai chiếc bình gỗ, một đen thuần, một nâu nhạt. Một tử, một sinh.

Cuối cùng cầm lấy chiếc bình nhỏ màu nâu.

Mấy năm sau mất nước, đại phi Thác Bạt Nhan tuẫn tiết, trước khi chết cười đến thống khoái thê lương: “Mộ Dung Chi Khác, cả hai bình đều là Hoàng tuyền tam trọng tuyết! Trong cung căn bản không có Dương xuân, hôm nay ta chết, tên tạp chủng Trữ quốc kia cũng không sống được bao lâu!”

Hạ Mẫn Chi im lặng, nhưng nhãn thần ngời sáng.

Niếp Thập Tam an tĩnh nhìn họ, my mục anh tuấn phi dương, như trút được gánh nặng.

Mấy ngày sau, Nhan Mục tiễn thương khỏi hẳn, đang luyện đao.

Mà nói như Niếp Thập Tam, chính là hắn có “sức khôi phục của dã thú”.

Hạ Mẫn Chi thấp giọng hỏi: “Thập Tam, ngươi có thể giúp hắn khôi phục nội lực không?”

Niếp Thập Tam lắc đầu: “Lúc đó ta tưởng mình chắc chắn sẽ chết, sợ sau này hắn lại đả thương ngươi, nên xuống tay không chừa đường thoát.”

Nhìn đao pháp của Nhan Mục, chỉ cảm thấy có loại lực sát thương trực tiếp nhất cùng sự sắc bén hung hãn nguyên thủy nhất, không khỏi khen: “Đại ca ngươi tuy mất hết nội lực, còn có thể giao chiến nơi sa trường đem đao pháp triệt để khai phá cô đọng, không trọng chiêu thức, chỉ trọng sát ý. Quả thật là nhân tài hiếm thấy.”

Nhan Mục lên ngựa chuẩn bị quay về Lãng Yết, Hạ Mẫn Chi nhịn không được nói: “Đại ca, chúng ta cùng đến Giang Nam đi. Lẽ nào ngươi vẫn chưa nhìn ra được, trải qua trận chiến này, trong năm mươi năm nữa thảo nguyên tuyệt không còn binh lực để nam hạ?”

Nhan Mục cười to nói: “Năm mươi năm thôi. Chỉ cần Mộ Dung thị còn sót một người, cũng nhất định nam hạ phục thù, thôn tính Trữ quốc, hoàn thành đại nghiệp tộc ta.”

Dứt lời không quay đầu lại, thúc ngựa như bay mà đi.

Đàn Khinh Trần nhất chiến công thành, nhất cử bình định thế lực thảo nguyên Yên Diệc, các châu phương bắc được hưởng thái bình.

Tước binh quyền của Cửu vương Phó Lạc Phong, để Tạ Trọng Hành thay thế, lại lệnh trở về Tĩnh Phong, ban thưởng phủ đệ, phong làm Uy Bình vương.

Nhất thời Nhiếp chính vương bước lên đỉnh cao danh vọng.

Trên dưới triều đình thanh âm mời Nhiếp chính vương đăng cơ không dứt bên tai.

Những điềm lành như kỳ lân hiện thế, phượng hoàng lai nghi, mùa màng bội thu, cam lộ giáng trần xuất hiện khắp nơi.

Các châu phủ đều có quan dân hoặc ở nhà hoặc dã ngoại thu được đủ loại kỳ trân dị bảo, tranh vẽ điềm lành, lần lượt báo lên triều đình, đều nói là trời cao thị ý, muốn Kiến Bình đế nhường ngôi cho Nhiếp chính vương.

Mà nói như Hạ Mẫn Chi chính là: “Thập Tam, trưa nay ngươi lên Bạch Lộc thiên trì(hồ trên miệng núi) mò một con giao long vàng cho ta xem xem.”

Hoặc là: “Thập Tam, hôm nay chúng ta lên Bình Tử Phong bắt một con phượng hoàng ngũ sắc nướng ăn.”

Đàn Khinh Trần không hề nóng vội, đầu tiên khôi phục họ Phó, bất luận Cung Hà Như năm lần bảy lượt trình tấu chương thế nào cũng chỉ khước từ, cuối cùng Kiến Bình đế đích thân mang chiếu thư nhường ngôi cùng ngọc tỷ, dẫn bá quan và Vũ lâm quân tới Nhiếp chính vương phủ hai tay dâng hiến.

Thời cơ chín muồi, Phó Khinh Trần thản nhiên nhận lễ, đăng đế vị, đổi Kiến Bình năm thứ tư thành Sơ Võ năm thứ nhất.

Phương Dụ Chính bạch y chân trần vào triều, chỉ ra mười tội lớn của Phó Khinh Trần.

Phó Khinh Trần tru di cửu tộc Phương Dụ Chính, nhưng lại xá miễn kỳ nữ Phương Khai Tạ, trọng dụng những học trò của ông ta như đám người Tống Quân Bác.

Phong thứ nữ của Cung Hà Như làm phi, nhưng dời lão khỏi Lại bộ, chuyển thành Lễ bộ Thượng thư.

Giết Ngụy Lan Đình, cho Triệu Thừa làm Binh bộ Thượng thư.

Phó Lâm Ý tự động xin rời Tĩnh Phong, đến đất phong Ngọc Châu.

Đêm nọ dưới ánh trăng, bên ngọn đèn, Phương Khai Tạ nắm tay Phó Lâm Ý, rưng rưng cười nói: “Lúc thiếp chưa gả đi, cũng từng như bao nữ tử khác ở Tĩnh Phong, thầm thương trộm nhớ Phó Khinh Trần, giờ mới biết, tài hoa chí hướng vĩnh viễn không thể sánh bằng tâm tính nhân phẩm, Khai Tạ may mắn nhường nào, mới lấy được đệ nhất vĩ trượng phu của thế gian.”

Hôm sau, Phó Khinh Trần đích thân tiễn Phó Lâm Ý rời đô, Phương Khai Tạ nói: “Hoàng thượng tha cho thiếp, nhưng sử bút như đao, sẽ không tha cho Hoàng thượng. Thiếp sẽ thay phụ thân sống thật tốt, ghi lại tất cả những gì Hoàng thượng đã làm vì Đại Trữ.”

Phó Khinh Trần cười to, tặng Phương Khai Tạ giấy bút nghiên mực, nói: “Công tội thiên thu, tùy ý Phương nữ sử viết vậy.”

Phó Khinh Trần trị quốc nghiêm khoan đúng mực, Đại Trữ quốc thái dân an.

Mơ hồ còn mang điềm thịnh thế xưa nay chưa từng có.

Hậu cung thịnh hành xích ngân trang. Tần phi mỹ nhân lấy chu sa điểm một nốt ruồi tương tư nơi khóe mắt, sẽ dễ dàng chiếm được thánh sủng.

Mùa xuân Sơ Võ năm thứ ba, Phó Khinh Trần vi phục đi Ngọc Châu Giang Nam.

Cũng không báo trước với Phó Lâm Ý, một ngày sau khi đến Ngọc Châu, thuê một con thuyền nhỏ, tố y khoan bào, dạo quanh Ngọc hồ, tự mình hưởng thú.

Lại thấy xa xa trên mặt nước, có một chiếc thuyền hoa tráng lệ tinh nhã, mơ hồ có tiếng nhạc truyền đến, bèn hỏi Tô Giác đứng cạnh Đàn Bình: “Trên thuyền hoa là ai?”

Tô Giác đáp: “Thập nhất vương gia.”

Phó Khinh Trần cười nói: “Thập nhất ca luôn thích náo nhiệt. Chúng ta đến gần một chút xem sao.”

Gió xuân chợt thổi, nhu hòa dấy lên từng làn sóng gợn khắp mặt hồ xanh biếc, thuyền nhẹ nhàng rẽ nước mà đi, nhanh như cánh chim tung hoành giữa trời.

Đã nghe thấy Phó Lâm Ý lớn tiếng cười nói: “Sao hôm nay lại nhàn rỗi đến tìm ta? Rương bảo vật ta đã đổi hết thành ngân lượng trả cho ngươi, còn thêm hai phần lời, chẳng lẽ ngươi vẫn chưa thấy đủ, lại đến tống tiền ta?”

Một thanh âm lười biếng vang lên: “Cữu phụ nói như vậy, thật khiến lòng ta chua xót…”

Phó Khinh Trần trong đầu ầm ầm choáng váng, chỉ cảm thấy cả hồ như dậy sóng, chậm rãi ngồi xuống, trong lòng ngổn ngang, dường như đã cách một kiếp người, cũng không biết nơi này là nhân gian, hay là thiên thượng?

Từ biệt nhiều năm, nghe lại thanh âm này mới biết được, thì ra tương tư đã ngấm vào xương tủy.

Mấy năm qua càn khôn độc đoán, ngày đêm chính sự miệt mài, cố ý không dò hỏi tung tích của hắn, cũng không nghĩ tới hắn nữa, nhưng từ lâu đã đem hình bóng người này từng đao từng đao một khắc vào tim, dung hòa vào hồn phách, cùng bầu bạn ngày qua ngày tháng qua tháng, không thể quên.

Nhung nhớ thâm tình kiềm nén suốt năm năm toàn bộ trỗi dậy, thân tâm đắm chìm trong bao nhiêu ký ức giữa hai người, nhất ngôn nhất hành, nhất cử nhất động, mỗi một ánh mắt, mỗi một nụ cười, làn da mái tóc, thậm chí cả hoàn cảnh lẫn không khí lúc đó, đều lũ lượt ùa về, không thể áp chế, vô pháp kiểm soát.

Ngẩn ngơ nửa ngày, vội ngưng thần tĩnh khí, giữa tiếng nhạc rộn ràng tìm kiếm thanh âm Hạ Mẫn Chi.

Thanh âm Niếp Thập Tam, tựa hồ bộc lộ vài phần mất hứng, lạnh lùng nói: “Hôm nay chúng ta ra ngoài, kỳ thực là để tạm lánh mặt.”

Phó Lâm Ý ngạc nhiên nói: “Trong thiên hạ, còn có người mà Niếp đại hiệp đây phải trốn tránh sao?”

Hạ Mẫn Chi cười lạnh: “Đương nhiên là có. Bạch Lộc Sơn chủ võ lâm đệ nhất nhân Niếp đại hiệp năm nay đã hai mươi ba tuổi, các đại thế gia đều giống như ăn phải củ cải muối mà lo lắng sốt ruột thay hắn, cả tháng nay chúng ta xuống núi đến Ngọc Châu, gần như ngày nào cũng có người dẫn nữ nhi muội tử tới nhà thăm hỏi. Hôm qua có Thiên Ưng bảo, Chung Nam kiếm phái, Hải Sa bang, ngay cả sính lễ cũng mang theo luôn một lượt!”

Phó Lâm Ý vạn phần ngưỡng mộ: “Không ra khỏi nhà cũng có thể chứng kiến nhiều hiệp nữ giang hồ tranh tài đua sắc, Mẫn Chi đúng là phúc mắt không nhỏ.”

Hạ Mẫn Chi hừ một tiếng, oán hận nói: “Chỉ tranh tài thôi, làm gì có đua sắc mà ngắm?”

Phó Khinh Trần nhịn không được bật cười.

Lại nghe Hạ Mẫn Chi tổng kết: “Niếp đại hiệp không phải trốn người, mà là trốn nợ đào hoa.”

Thở phào nhẹ nhõm: “Cũng may ngày mai chúng ta về Bạch Lộc Sơn rồi, Bình Tử Phong vừa cao vừa hiểm, có lẽ người tới gõ cửa cầu thân sẽ bớt đi không ít.”

Niếp Thập Tam không thể nhịn được nữa, nghiến răng: “Ta đã sớm nói rồi, tuyệt không thành thân, trên giang hồ ai ai cũng biết. Nếu không phải ngươi lén lút nhận sính lễ của bọn họ, thì chỉ có đào hoa không có nợ, chúng ta cũng không cần suốt đêm chạy trốn khỏi trấn Mặc Lương.”

Phó Khinh Trần cười to.

Cửa sổ chạm hoa ở mạn tây thuyền đột nhiên mở ra, Hạ Mẫn Chi xuất hiện trước mắt.

Bạch y như tuyết, quãng thời gian năm năm tựa hồ chưa từng tồn tại, rõ ràng vẫn là Thiếu khanh Đại Lý Tự một thân quan phục cuộn người ngủ trong kiệu ngày nào, nhưng đôi nhãn châu càng thêm trong trẻo phân minh, như hai dòng suối, tú sắc thanh dật chói mắt bức người, không có nửa phần khói lửa nhân gian, nhìn Phó Khinh Trần chỉ nhẹ nhàng mỉm cười, ngay cả nốt ruồi nho nhỏ kia cũng như muốn nói lên bao nhiêu hoan hỷ mãn nguyện.

Phó Khinh Trần tay áo đón gió phấp phới tung bay, như chỉ chực phiêu đi theo gió, khí chất đế vương cùng tư thái tiên nhân trên người hắn mang đến cảm giác hài hòa kỳ lạ, mục quang thâm trầm như biển, chăm chú nhìn Hạ Mẫn Chi.

Hai người chợt cảm thấy chưa bao giờ thân cận thế này, đều gạt bỏ lòng đề phòng lẫn nhau, lần này gặp lại, chỉ có vui mừng vô hạn.

Thật lâu sau, Niếp Thập Tam nói: “Đàn sư huynh, đa tạ ngươi.”

Phó Khinh Trần nói: “Tiểu sư đệ gần đây thế nào?”

Niếp Thập Tam gật đầu: “Ta rất khỏe.” Lại nói: “Thập Ngũ cũng rất khỏe.”

Phó Khinh Trần hỏi: “Ăn dược chưa?”

Hạ Mẫn Chi cười nói: “Ăn lâu rồi, tư vị không tệ.”

Chỉ vào bình bích ngọc dùng dây tơ buộc ngay hông, hàng my dài như vụt sáng, nói: “Thứ này ta vẫn luôn mang theo bên mình.”

Phó Khinh Trần cười đến sâu xa: “Sao không đem cầm?”

Bình ngọc này là từ nguyên khối bích ngọc điêu khắc thành, không chút tỳ vết, ít nhất đáng giá cả ngàn lượng bạc.

Hạ Mẫn Chi nghiêm mặt nói: “Đây là vật ngươi tặng ta, ta phải ghi nhớ lòng tốt của ngươi.”

Một câu giản giản đơn đơn, nhưng lại khiến Phó Khinh Trần nghe đến hai mắt cay cay, cổ họng nghẹn ngào.

Hồi lâu, Phó Lâm Ý ló đầu ra cửa sổ: “Thập tứ đệ, lên thuyền đi!”

Cười đến rạng rỡ, chỉ có tình huynh đệ, không có nửa phần tôn ti.

Phó Khinh Trần cười nói: “Không cần.”

Tuy đã từ bỏ, nhưng trơ mắt nhìn Niếp Thập Tam cùng Hạ Mẫn Chi mười ngón đan nhau, trong lòng vẫn như bị kim đâm, khẽ thở dài, nói: “Ta đi trước… Mẫn Chi, tiểu sư đệ, ngôi nhà ở ngõ Minh Kính ta vẫn giữ lại cho các ngươi, rảnh rỗi đến Tĩnh Phong thăm ta cũng được.”

Non xanh xa xa. Nước biếc tiễn người. Chớp mắt tám năm, thuyền đã qua bao dãy núi trùng điệp, thời gian đổi dời, trái tim đêm đêm chìm nổi giữa bích hải lam thiên nhưng cuối cùng vẫn không thay đổi.

Mười năm trước, giữa đêm đông đầy tuyết, Hạ Mẫn Chi một ngón tay nâng cằm Niếp Thập Tam, mỉm cười trong trẻo.

»»» CHÍNH VĂN HOÀN «««