Dương Châu thời Đường triều cũng không giống như thời Tam Quốc bao hàm
Hoài Nam, Giang Đông, mà chỉ là một quận Giang Đô, còn được xưng là
Quảng Lăng.
Từ xưa đến nay Giang Đô đều là một đại trọng trấn
phía đông nam. Tuy còn kém Trường An cùng Lạc Dương, cũng không sánh
bằng Thành Đô, Giang Lăng, Lương Châu nhưng lại may mắn chiếm được ưu
thế địa lợi.
Ưu thế này cũng có liên hệ mật thiết với Dương Quảng.
Năm xưa Dương Quảng vì muốn liên kết Giang Nam cùng Lạc Dương, liên tục
khai thông Thông Tế cừ, khơi thông Hàn Câu, đả thông Vĩnh Tế cừ, lại đào thông Giang Nam hà, cuối cùng đem bốn đầu kênh đào nối tiếp nhau, trở
thành một hệ thống thông cả nam bắc, chính là Đại Vận Hà dài bốn ngàn
dặm. Đại Vận Hà là một trong những công trình lịch sử vĩ đại của quốc
gia, nó nổi lên tác dụng tích cực đối với việc phát triển kinh tế cùng
văn hóa trong nước.
Đương nhiên có lẽ mục đích xuất phát cho việc này của Dương Quảng là điều tốt, nhưng hắn vẫn là một nhân vật rất giỏi về tưởng tượng, rất có chí lớn nhưng tài năng lại nhỏ hẹp vô cùng. Hắn
nhìn ra được Đại Vận Hà cống hiến thế nào cho quốc gia, nhưng lại không
nhìn ra việc tạo ra Đại Vận Hà sẽ tạo ra tổn thương trí mạng ra sao cho
đất nước, trước sau hắn đã lấy đi mấy trăm vạn tính mạng dân phu để hoàn thành công trình, nhưng cũng kéo sụp đổ cả một giang sơn, mang đến tai
nạn có tính hủy diệt đối với dân chúng.
Kết quả công trình vĩ đại này hoàn toàn tiện nghi cho Lý Đường vương triều, cũng nhờ vào phúc của vị bạo quân kia, hôm nay việc vận tải đường thủy tiện lợi đã giúp Giang Đô trở thành đặc biệt phồn hoa.
Đỗ Hà đi trên đường lớn, nhận thức phong tục dân tình bất đồng hẳn với thành Trường An.
Trường An bởi vì là đại đô thành mang theo phong cách quốc tế, trên đường tùy ý có thể thấy được dị tộc nhân trang phục quái dị, hơn nữa dân phong Quan Trung từ xưa tới nay đều thật bưu hãn, đi trên đường người người mang
theo đao kiếm không biết nhiều bao nhiêu. Mà Giang Đô lại có chút khác
hẳn, đi khắp đường cũng không nhìn thấy được một dị tộc nhân, trên đường ngay cả người đeo binh khí ít càng thêm ít, ngoại trừ dân chúng là
nhiều nhất, nếu chứng kiến chỉ thấy phần lớn đều là thư sinh văn sĩ tay
cầm quạt xếp, bất chợt còn phe phẩy vài lần, cũng không biết trong mùa
đông bọn hắn cảm giác mình vẫn còn quá nóng hay vì nguyên nhân nào khác.
Vừa đi tới Quảng Lăng độ khẩu, Lý Dật Phong liền cáo từ rời đi. Đường biển
cố định từ Giang Đô tới Hàng Châu trong lòng hắn nôn nóng trở về vô
cùng, vì vậy cũng không hề dừng lại, chỉ liên tục thỉnh mời Đỗ Hà tranh
thủ thời gian đến Hàng Châu gặp mặt, hơn nữa còn lưu lại địa chỉ.
Hàng Châu nổi danh ngang hàng Tô Châu, là một tòa thành nổi danh Giang Nam, Đỗ Hà biết mình nhất định sẽ đến, nên liền đáp ứng.
Đi trên đường lớn, nghe được người qua đường đang thảo luận chuyện Từ gia
thương thuyền bị cướp, lại chết gần trăm người. Chỉ mới hai canh giờ đã
diễn ra hơn mười phiên bản, cơ hồ từng phiên bản đều thổi phồng hắn cùng Lý Dật Phong vô cùng kỳ diệu, còn nói bọn họ một đao một kiếm chỉ trong thời gian uống cạn chén trà đã giết chết toàn bộ đạo tặc.
Nghe
loại tin tức này, Đỗ Hà chỉ dở khóc dở cười, có lẽ do phương tiện giải
trí quá ít, cần phải tìm chút sự tình bàn tán sau những cuộc trà dư tửu
hậu, vì vậy trình độ nói chuyện bát quái so với đời sau chỉ có mạnh hơn
chứ không yếu chút nào.
Chuyện xôn xao huyên náo thế này cũng đã nằm trong dự liệu của hắn.
Bởi vì lần này chết nhiều người, gian thương Từ Thạch cũng không dám giấu
diếm, sau khi thuyền cập bờ liền lập tức báo quan, đem tình huống thực
tế báo lại cho huyện nha Dương Châu.
Trong thời loạn thế chết cả
trăm người cũng không đáng là gì, nhưng hiện tại lại là thái bình thịnh
thế, tại Đại Đường vương triều tội phạm tử hình trong một năm chẳng qua
chỉ có hai mươi mấy người, đừng nói chi một lần lại chết gần trăm người
như vậy.
Việc này một khi truyền ra, ngay lập tức đưa tới oanh động tại Giang Đô.
Đỗ Hà cũng không muốn giấu diếm, bởi vì có tới một trăm năm mươi vị chứng
nhân, dù hắn không xuất hiện thì kết quả cũng giống nhau. Nhưng hắn chỉ
lo lắng đồng lõa của đạo tặc sẽ ra tay trên đường áp giải Ngụy Tượng tới phủ nha, vì vậy âm thầm hộ tống dọc đường, cho đến khi nhìn thấy nha
dịch áp giải Ngụy Tượng vào phủ nha mới yên lòng.
Hệ thống chức quan Đường triều cực kỳ khổng lồ, nhất là hệ thống quan lại địa phương.
Thứ sử tuy là trưởng quan một châu, tổng lĩnh giải quyết sự vụ quân cơ,
nhưng dưới trướng cũng được chia thành nhiều bộ môn, có phụ tá thượng
tá, có phán ti thượng thư tỉnh lục bộ, còn có quan lại phụ trách giám
sát hành động hoặc bổn châu lục tào, tương đương với chức quan lục sự
tham quân ngự sử thai hoặc tả hữu thừa thượng thư trong triều đình.
Ở trong đó phán ti chia làm ti công, ti thương, ti hộ, ti binh, ti pháp,
ti sĩ là sáu tham quân, cụ thể phân công quản lý quan lại khảo thi khóa
trong châu, lễ nghi, thuế má, thương khố, hộ khẩu, dịch trạm, hình ngục, cùng công trình thủy lợi…bao gồm sự vụ về các phương diện.
Ở trong đó ti pháp tham quân chính là thẩm phán quan chủ hình pháp.
Dương Châu ti pháp tham quân nghe được sự kiện lớn như thế, ngay lập tức
thông tri Dương Châu thứ sử. Dương Châu thứ sử nghe thông báo cũng không dám lãnh đạm, chỉ trong thời gian uống cạn chén trà đã chạy tới phủ
nha, tự mình hỏi thăm việc này, hạ lệnh khai đường thẩm vấn tại chỗ, hơn nữa còn ở một bên chờ nghe xử.
Địa phương dưới Đường triều thẩm vấn phạm nhân đều luôn đưa ra công khai, có thể cho người tùy ý quan sát.
Đỗ Hà thật tán thưởng hiệu suất làm việc của quan viên Đường triều, ở một bên lắng nghe quá trình thẩm án.
Vụ án này có tới một trăm năm mươi chứng nhân, cả nhân chứng tang vật đều
có, thẩm vấn cũng chỉ là hình thức, nếu không có yêu cầu của thứ sử cùng ti pháp tham quân, tuyệt đối không có khả năng làm ra phán quyết gì
khác thường.
Đúng như suy nghĩ của Đỗ Hà, Dương Châu thứ sử cùng
ti pháp tham quân vẫn chấp pháp theo lẽ công bằng, sau khi kỹ càng hỏi
thăm toàn bộ tình tiết vụ án đã trải qua, căn cứ theo luật pháp Đại
Đường, đem Ngụy Tượng phán quyết tử hình, áp giải về Trường An, tiếp
nhận quy định ngũ phục tấu của Trường An, mùa thua năm sau sẽ xử trảm.
Ngụy Tượng bị phán quyết tử hình là chuyện nằm trong dự liệu, Đỗ Hà mỉm
cười, hắn cũng có suy nghĩ đám dư nghiệt kia còn chưa có khả năng thần
thông quảng đại đem ma trảo thò vào trên bảo tọa Dương Châu thứ sử. Hôm
nay cũng chỉ còn nhờ vào nha dịch địa phương đem Ngụy Tượng áp giải về
Trường An là xong.
Trong lúc nhất thời hắn cũng biến thành rảnh
rỗi, Đỗ Hà liền đi du lãm khắp Giang Đô, thể nghiệm phong thổ Giang Đô,
cũng muốn thử xem có gây ra được hí kịch gì như trong nhân vật tiểu
thuyết hay không, tìm một ít đầu mối để thuận lợi điều tra xuống dưới.
Chỉ là đây không phải là trò chơi, đầu mối cũng sẽ không tự động dâng lên
tới cửa, ngoại trừ cảm thụ được một ít phong tình Giang Nam, ăn một ít
trái cây đặc sản, cũng không có chuyện gì đặc biệt đột phát.
Điền đầy bao tử trong một tiểu tửu quán vô danh, Đỗ Hà chợt nhớ tới hai vị
phu nhân ở nhà cùng hai lão nhân gia, trong nội tâm đột nhiên phiền
muộn, không khỏi thở dài, cảm giác bản thân giống như anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường, thầm nghĩ:
Ta rời khỏi đã hai ba tháng rồi,
không biết mọi người trong nhà có mạnh khỏe…nếu không thể viết thư vì sợ lộ tẩy, vậy có thể tặng về một ít đồ vật nhỏ xem như báo bình an được
không?
Ý nghĩ vừa hiện liền làm ngay, Đỗ Hà lập tức khởi hành chạy tới phiên chợ Giang Đô.
Phiên chợ Giang Đô tự nhiên không cách nào so sánh cùng Trường An, nhưng bởi
vì đường thủy vận chuyển thuận tiện, ở phía nam tuyệt đại bộ phận thương phẩm hi hữu đều có thể mua được ở nơi này, so sánh mà nói vẫn khá phồn
hoa.
Đi dạo khắp phiên chợ, Đỗ Hà quan sát những nhóm thương phẩm tinh mỹ đến từ khắp nơi, suy nghĩ mình nên mua lễ vật gì mới tốt.
Đồ vật đưa tặng cho người nhà, hắn cũng không muốn tùy tiện qua loa cho
xong, kiên nhẫn chọn lựa từng cửa hàng một, tận lực tuyển chọn tốt nhất
lẫn thích hợp nhất.
Trường Nhạc ưa thích viết chữ vẽ tranh, Đỗ Hà mua cho nàng một nghiên mực Đoan Nghiễn màu xanh biếc, loại nghiên mực
này đứng đầu tại Trung Quốc, trong đó nghiên mực màu xanh biếc là đặc
thù nhất, thập phần quý giá, Trường Nhạc nhất định sẽ ưa thích. Lý Tuyết Nhạc lại thích âm luật, còn đàn thật hay, hắn đã tìm được một quyển đàn cổ phổ không được trọn vẹn mua xuống, Chương thị tin Phật, Đỗ Hà mua
cho mẫu thân một phỉ thúy ngọc phật.
Dùng suốt một canh giờ hắn
mua hơn mười dạng đồ vật lớn nhỏ, đại ca Đỗ Cấu một cây quạt xếp, Đỗ gia trưởng phòng trưởng tôn một pho tượng đất màu, ngay cả La Thông, Phòng
Di Ái cùng Lý gia huynh đệ cũng có phần.
Cơ hồ đồ vật nên mua đã mua xong, chỉ còn lễ vật cho phụ thân Đỗ Như Hối vẫn thật khó tìm thấy.
Đỗ Như Hối là đương triều tể tướng, nên có cũng đã có, hắn lại không phải
người tham lam, chỉ xem trọng thực dụng, mua đắt tiền còn bị hắn lên án, Đỗ Hà nghĩ nát óc vẫn không biết tặng quà cho phụ thân có phải là
chuyện nên làm hay không đây!
Bất tri bất giác Đỗ Hà đi tới bên ngoài một hiệu cầm đồ, trong nội tâm khẽ động liền bước đi vào.
Hiệu cầm đồ là một trong những cửa hiệu cực kỳ có tính tiêu chí thời cổ đại, xem như là nơi cấp cứu cho người mang đồ đi cầm vì quá cần tiền. Khi
đem vật phẩm đi cầm, sẽ lập chứng từ, thương lượng ước định thời gian
đến chuộc, nếu trong thời gian quy định lại không có năng lực chuộc đồ
ra, vật phẩm kia sẽ bị quy về quyền sở hữu của hiệu cầm đồ. Họ sẽ đem
những vật phẩm này qua tay buôn bán, theo giá chênh lệch kiếm lợi nhuận.
Xem trên ti vi thường nhìn thấy những chưởng quỹ hiệu cầm đồ keo kiệt bóc
lột thế nào, kỳ thật đây cũng là một loại giao dịch người tình ta
nguyện, cũng không thể trách móc bất cứ ai.
Đỗ Hà cất bước đi vào hiệu cầm đồ, muốn tìm xem có đồ vật gì thích hợp làm quà tặng cho Đỗ Như Hối hay không.
Hiệu cầm đồ rất lớn, có tới ba quầy hàng, hai bên là nơi chuộc đồ, một chỗ
là cầm đồ, nơi lớn nhất lại treo tấm chiêu bài có chữ “Mãi” thật lớn,
người dám đến hiệu cầm đồ mua sắm đồ qua tay bình thường đều là người có tiền lại biết nhìn hàng, vì vậy được chiêu đãi cũng là tốt nhất.
Đỗ Hà tỏ vẻ có bảo bối gì tốt mang ra cho hắn xem.
Lão giả nhỏ gầy ngồi trên quầy lập tức đứng thẳng người giới thiệu những bảo bối sau lưng hắn.
Đồ vật trên quầy thật đúng là không ít, thiên kỳ bách quái, làm người hoa
mắt, Đỗ Hà kiên nhẫn tìm tòi, đột nhiên đôi mắt sáng ngời, hắn phát hiện được một lưu ly bôi tinh oánh sáng chói, thần sắc vui mừng hồi ức lại
một ít tri thức về nghệ thuật thưởng thức trà.
Nhớ rõ kiếp trước
khi hắn đi du lịch tại Tây Hồ, ở trong quán trà gần hồ uống trà Long
Tỉnh, nghe người phục vụ giới thiệu cách uống trà Long Tỉnh. Khi pha trà không giảng cứu dùng loại ấm nào, chú ý chính là chén trà. Khi thưởng
thức cực phẩm trà Long Tỉnh, dùng chén pha lê để thưởng thức, sẽ có thể
nếm được toàn bộ hương vị tốt nhất trong trà. Trà cụ bằng pha lê trong
suốt, lá trà được ngâm sẽ dễ dàng quan sát được trà từ từ tan ra trong
nước, quá trình du động cùng biến ảo, mọi người còn gọi đây là – trà vũ.
Hắn thầm nói trong lòng:
Phụ thân ưa thích uống trà Long Tỉnh, mà trà Long Tỉnh lại là lục trà.
Thích hợp nhất là dùng chén pha lê. Chén pha lê ở thời đại này không có
nhiều, nhưng lưu ly lại là một trong những loại pha lê cao cấp nhất,
dùng nó uống trà hẳn chẳng khác gì dùng chén pha lê đi!
Ta muốn mua lưu ly bôi kia, bao nhiêu tiền?
Đỗ Hà vô cùng mừng rỡ.
Chưởng quỹ trầm ngâm chốc lát nói:
Bảy ngân lượng!
Đỗ Hà lấy ra sáu ngân lượng, nói:
Sáu ngân lượng, không mặc cả nữa, nếu như bán thì gói lại cho ta!
Dù sao hiện tại Đỗ Hà cũng có kinh nghiệm phong phú của thời đại này, đồ
vật giá trị bao nhiêu trong nội tâm hắn cũng đã hiểu rõ. Hắn cũng không
phản đối chuyện chưởng quỹ muốn lợi nhuận chút ít tiền, là buôn bán
thôi, cũng nên cho người ta kiếm lời, nhưng không thể chém giết hắn, hắn không cam lòng làm một kẻ mà người khác cho rằng ngu ngốc.
Chưởng quỹ nghe xong cũng hiểu mình gặp được người biết hàng, không tiếp tục mặc cả, cho người gói lại.
Đúng ngay lúc này có một người mập mạp bụng phệ đi vào hiệu cầm đồ!