Đúng thật là như vậy, loại giấy này cơ hồ chỉ dùng những vật
liệu đã thành rác mà chế thành, tùy ý đều có thể thấy được khắp nơi, căn bản không cần tốn tiền mua nguyên liệu, tạo ra mấy trăm trang giấy luận giá trị chế tạo chỉ cần tính phí tổn của công tượng mà thôi, không còn
phương pháp tạo giấy nào rẻ hơn như thế.
Hơn nữa loại giấy mới cơ hồ có được toàn bộ đặc điểm của giấy Tuyên Thành, mềm dai ôn nhuận,
sáng mà không trơn, trắng nõn, hoa văn lại thuần tịnh, xếp lại không bị
tổn hao gì, khả năng thấm mực lại thật tốt.
Tuy còn kém hơn giấy Tuyên Thành chút ít, nhưng giá trị chế tạo lại thấp hơn giấy Tuyên Thành mấy trăm lần.
Ngoài ra giấy Tuyên Thành phải trải qua vô số trình tự phức tạp sản xuất, lại tốn tới một năm thời gian hoàn thành, mà loại giấy này chỉ cần có tài
liệu, chỉ cần một ngày liền có thể chế thành, song phương căn bản không
thể so sánh.
Nếu đem giấy này đưa ra thị trường, nhất định có thể thịnh hành toàn bộ Đại Đường, có thể trong thời gian ngắn thay thế giấy vàng, có thể kiếm được tiền tài khổng lồ không kể xiết.
- Diệc
Lương, cảm ơn! Nếu loại giấy này đưa ra thị trường, nhất định có thể làm cho Đại Đường chúng ta thêm huy hoàng, ta tin tưởng tên của ngươi sẽ
như Thái Luân, lưu danh hậu thế!
Đỗ Hà nhìn trang giấy trong tay, nhớ tới dân chúng Đại Đường bởi vì có sự góp sức của mình mà mỗi người
đều có cơ hội đọc sách biết chữ, trong đáy lòng hắn thật thoải mái, tràn đầy cảm xúc tự hào.
Bồng Diệc Lương giật mình nói:
- Lời
này của công tử thật quá chiết sát ta rồi, kỹ thuật cải tiến giấy tuy do ta mở đầu, nhưng tiến trình cùng mấu chốt trọng yếu nhất lại do công tử nghĩ ra, huống chi nếu không có công tử ủng hộ, Bồng Diệc Lương chỉ một người quả quyết không thể nào thành công. Công lao này ngàn vạn không
dám nhận cho mình!
Hắn nói vô cùng nghiêm trọng, cũng không phải
hắn không biết ảnh hưởng của thuật tạo giấy cải tiến đối với Đại Đường
hậu thế, chỉ là hắn làm người trung thực, từng lời từng chữ đều xuất
phát tận đáy lòng.
Đỗ Hà cười khen ngợi:
- Khó được ngươi
có thể chịu được sự hấp dẫn danh vọng, ta đã sớm nói, kỹ thuật này phải
nên mưu phúc cho quốc gia, ngươi chờ tin tức tốt của ta đi!
Hắn cầm lấy một xấp giấy bỏ vào trong túi, giục ngựa giơ roi phóng thẳng tới hoàng cung.
Tiến vào hoàng cung, Lý Thế Dân đang ở trong Lập Chính Điện chơi đùa cùng
tiểu đâu tử, biết Đỗ Hà cầu kiến, trực tiếp đi thẳng tới đại sảnh Lập
Chính Điện tiếp kiến hắn.
- Hắc hắc!
Lý Thế Dân nhìn thấy
trên mặt Đỗ Hà hiện rõ dáng tươi cười hưng phấn, từ sau khi Đỗ Hà bị
bệnh thất hồn chứng, mỗi lần Đỗ Hà tự mình đến tìm hắn cơ hồ mỗi lần đều làm cho hắn vô cùng vui vẻ cùng kinh động.
Dần dần, mỗi lần nghe được Đỗ Hà cầu kiến, tâm tình của hắn sẽ không duyên cớ cảm thấy vô
cùng thoải mái, trong lòng luôn suy đoán lại có chuyện tốt gì phát
sinh.
- Bái kiến Lý thúc thúc!
Đỗ Hà vẫn chào hỏi như dĩ vãng.
Nụ cười của Lý Thế Dân đọng lại trên mặt, biến thành cứng ngắc, ánh mắt có chút hung ác, khóe môi co rút, tựa hồ có dấu hiệu muốn nổi giận.
- Ách…
Đỗ Hà có chút khó hiểu, không biết Lý Thế Dân lại bị chuyện gì, gương mặt nói biến liền biến, thật sự kỳ quái.
- Ngươi đã gọi hoàng hậu là nhạc mẫu, ngay vị nhạc phụ như trẫm lại không gọi được hay sao?
Ánh mắt Lý Thế Dân sắc bén, nhưng ẩn ẩn mang theo dáng vui vẻ.
Đỗ Hà có chút choáng váng, trong bụng phỉ báng một câu:
- Không phải chỉ là một tiếng xưng hô thôi sao, còn làm dữ như vậy!
Nghĩ thì nghĩ thế nhưng hắn cũng ngoan ngoãn bái xuống, kêu một tiếng:
- Nhạc phụ đại nhân!
Lý Thế Dân lộ ra thái độ như “ta chờ một tiếng gọi này đã lâu”, cười vang rung trời:
- Hiền tế a, hôm nay đến tìm trẫm có việc gì vui đây?
Đỗ Hà nghiêm nghị nói:
- Đâu chỉ là việc vui, là việc vui lớn trẫm quan tới Đại Đường thiên thu muôn đời của chúng ta!
Một câu “thiên thu muôn đời” làm đôi mắt Lý Thế Dân trợn tròn, thái độ làm
người của Đỗ Hà hắn cũng hiểu rõ, biết Đỗ Hà xử sự mọi việc đều thật
tiêu sái không bị trói buộc, nhưng trong việc công sẽ không bao giờ qua
loa, nếu hắn nói là chuyện vui lớn trẫm quan tới thiên thu muôn đời của
Đại Đường, sẽ không có bất luận lời hư giả.
- Mau nói đi!
Lý Thế Dân có chút không chờ đợi được, mặc dù trước đó phát hiện ra số
vàng bạc lớn kia Đỗ Hà cũng không nói chuyện thận trọng đến như thế.
Đỗ Hà thấy không có thái giám hầu hạ bên cạnh, chỉ đành tiến lên vài bước đem xấp giấy đặt tới trước mặt Lý Thế Dân, cười nói:
- Lý thúc thúc xem thử đi rồi cho kết luận!
- Giấy Tuyên Thành?
Lý Thế Dân liếc nhìn, chỉ cảm thấy loại giấy vương giả kia quen mắt, nhưng khi cầm trên tay lập tức cảm nhận được có chút dị thường, liền nói một
câu:
- Không đúng…
Hắn thoáng nhíu mày, vốn đam mê thi
họa, đối với giấy hắn rất quen thuộc, bất luận là loại giấy Ích Châu hay trúc tiên Thiều Châu, loại giấy mỏng trơn, giấy Quân Châu, giấy Bồ
Châu…Bởi vì hắn là hoàng đế nên đều thử qua từng loại, trong đó giấy
Tuyên Thành Tuyên Châu là xuất sắc nhất. Đỗ Hà đưa loại giấy cho hắn xem hắn lại chưa từng thấy qua, nhìn như giấy Tuyên Thành nhưng còn kém sắc hơn giấy sản xuất tại Tuyên Châu một chút, tựa hồ không có địa phương
nào đáng giá lưu ý, không khỏi liếc mắt nhìn Đỗ Hà, thấy hắn đầy vẻ tự
tin, không khỏi cười mắng:
- Xú tiểu tử, còn bán cái hũ nút gì, mau nói đi!
Thấy Lý Thế Dân có chút không kiên nhẫn, Đỗ Hà cười nói:
- Loại giấy này là do Trường An giấy tượng Bồng Diệc Lương sơ bộ làm ra,
sau đó tiểu tế cùng hắn hợp lực nghiên cứu chế tạo ra loại giấy này. Giá trị một trang giấy chỉ có một thông bảo, chỉ cần tài liệu sung túc,
nhân thủ đầy đủ muốn mỗi ngày sản xuất hơn ngàn trang cũng không phải là việc gì khó!
Lời vừa nói ra, Lý Thế Dân lập tức động dung, kích
động bật dậy, động tác quá lớn nên đụng phải chiếc bàn trước mặt, đem
bàn lật tung, toàn bộ đồ vật trên mặt loảng xoảng rơi đầy xuống đất.
Hộ vệ bên ngoài phòng còn tưởng bên trong xảy ra chuyện gì vội vã lao vào.
Lý Thế Dân vung tay lên ra lệnh cho hộ vệ lui xuống, không nhìn đống bừa bãi trên mặt đất, hỏi:
- Hiền tế, chuyện này là thật?
Hắn không phải không biết Đỗ Hà không khả năng lừa gạt hắn, nhưng tận đáy lòng vẫn không dám tin tưởng nên hỏi lại lần nữa.
- Tiểu tế có thể dùng tính mạng đảm bảo!
Đỗ Hà như chém đinh chặt sắt đáp lời Lý Thế Dân, ngay lập tức đem chuyện
gặp mặt Bồng Diệc Lương cùng quá trình tạo giấy kể lại cho Lý Thế Dân
thật chi tiết.
Lý Thế Dân ngơ ngác nhìn xấp giấy trắng có thể so sánh được với loại giấy Tuyên Thành, không cách nào tin nổi:
- Mã Trẫm Thảo cùng bã mía!
Hắn lẩm bẩm lặp đi lặp lại mấy lần, lại kinh ngạc nói:
- Chỉ là những thứ đồ tầm thường không chút giá trị lại có thể tạo ra được loại giấy tốt như vậy hay sao?
Hắn thật sự không dám tin tưởng.
Đỗ Hà cười khổ:
- Nhạc phụ đại nhân, ngài nói tiểu tế phải làm sao ngài mới tin tưởng được đây?
Trên mặt Lý Thế Dân cũng cảm thấy có chút ửng đỏ, trong lòng biết đối với
chuyện vui quan hệ tới thiên thu vạn thế này của quốc gia bản thân hắn
thực sự có chút thất thố, ho khan vài tiếng, làm ra bộ dạng thật nghiêm
túc:
- Không phải trẫm không tin ngươi, chỉ là việc này xác thực
trẫm quan tới Đại Đường thiên thu vạn thế, vì vậy trẫm có chút cao hứng
quá mức mà thôi. Ngươi nói không sai, nếu như loại giấy này được phát
minh ra, toàn bộ dân chúng của Đại Đường đều có giấy để dùng, các loại
sách vở học thức đều có thể dùng giấy này truyền tải vào từng nhà vạn hộ trong cả nước, giúp hàn môn sĩ tử đạt được cơ hội xoay người…
Lý Thế Dân nói tới đây, trong mắt lóe ra hào quang kỳ dị.
Trong nội tâm Đỗ Hà chợt sáng, mừng thầm, tâm tư của Lý Thế Dân cũng như hắn, vị thiên cổ minh quân này đã nghĩ ra sự nguy hại của thế gia sĩ tộc,
nhưng bởi vì cả triều văn võ cơ hồ đều do sĩ tộc sinh ra, Lý Thế Dân
cũng không thể vọng động, hôm nay có loại giấy mới giá rẻ này xuất hiện, chẳng khác gì một lưỡi dao sắc bén không hề có chút ánh sáng, một lưỡi
dao sắc bén đâm thẳng trái tim của thế gia sĩ tộc.
Sở dĩ sĩ tộc cường đại là do họ có học thức cùng sự phân phó chức vụ của Lý Thế Dân ảnh hưởng.
Tỷ dụ cơ bản nhất, trong sĩ tộc cường đại nhất chính là năm tộc Thôi Lô Lý Trịnh Vương, năm gia tộc này có lịch sử thật dài, đứng hàng đệ nhất
chính là Thanh Hà Thôi thị, cho dù là hiện tại bọn họ vẫn dám khinh
thường không thèm kết thân với Lý thị hoàng tộc, như vậy đủ thấy được sự ngạo cuồng của bọn họ.
Nhưng bọn họ ngông cuồng như thế cũng
không phải không có lý do gì, Thôi gia đệ tử cho dù chỉ là một người có
tài trí bình thường nhưng bọn họ đều có được hàng vạn sách vở do gia tộc lưu truyền suốt bao nhiêu năm tháng lịch sử cung cấp cho bọn họ học
tập, không cần lo lắng chuyện cơm áo sinh tồn, dùng tri thức trong sách
để tăng trưởng tài học của chính mình, mà hàn môn đệ tử lại không mua
nổi sách vở học hành, còn không mua nổi giấy viết, đồng thời còn phải vì cuộc sống mà bôn ba, thử hỏi cho dù là một vị thiên tài vạn người không một, nhưng học thức của họ làm sao siêu vượt qua sĩ tộc?
Gặp
phải loại tình huống này, Lý Thế Dân phải làm sao lựa chọn? Tuy hắn muốn đề bạt hàn môn đệ tử, nhưng chỉ đành phải lựa chọn sĩ tộc đệ tử. Đương
nhiên cũng có người nói chỉ đọc sách cũng không nhất định thành tài, đây không phải không có ví dụ, thế nhưng ngay cả sách cũng không đọc được
vài quyển, cả nhận thức cũng không được bao nhiêu, như vậy tỷ lệ thành
tài lại có bao nhiêu? Trừ phi là loại thiên tài cấp bậc yêu nghiệt, loại người này thật có thể làm được những sự tình mà người khác không thể
làm được, thành tựu sự nghiệp to lớn thiên cổ, nhưng loại cấp bậc thiên
tài yêu nghiệt như vậy khắp thiên hạ lại có được mấy người?
Mấu
chốt cấu tạo một vương triều không phải ở bên trong có được bao nhiêu
nhân tài cấp bậc yêu nghiệt, mà là ở chỗ những nhân tài nhị lưu căn cơ
vững chắc, loại nhân tài nhị lưu này mới là căn bản của một quốc gia.
Mà tất cả các đại sĩ tộc cũng giống như một trường học, là nơi sản sinh
nhị lưu nhân tài. Gặp phải loại nhân tài này, tuy Lý Thế Dân cũng không
muốn dùng họ, nhưng những người từ thế gia đại phiệt sinh ra, trong mười người ít nhất cũng có bốn năm người có thể trở thành quan lại, nhưng
lòng dạ trung thành của bọn họ lại xa xa thấp hơn lòng trung thành đối
với chính gia tộc của mình. Điểm này là điều mà Lý Thế Dân tuyệt đối
không thể chấp nhận được, nhưng hết lần này tới lần khác hắn vì Đại
Đường lại không thể không dùng tới họ.
Nhưng chỉ cần hàn môn đệ
tử mỗi người đều có thể học tập, có được điều kiện học tập ngang hàng
với thế gia đại tộc, bằng vào cả Đại Đường có tới ngàn vạn hàn môn đệ tử chẳng lẽ còn không đấu lại được thế gia đại phiệt?
Chỉ cần Đại
Đường thoát khỏi sự ỷ lại đối với thế gia đại phiệt, với thủ đoạn của Lý Thế Dân, những thế gia đại phiệt kia không phải hắn muốn tròn thì tròn, muốn họ dẹp thì họ phải dẹp hay sao?
Lý Thế Dân nghĩ tới điểm này, khó trách hắn sẽ hưng phấn đến như thế.
Đỗ Hà ra vẻ không biết, ở trước mặt một vị hoàng đế có chút thời điểm đừng nên biểu hiện mình quá thông minh, ngược lại sẽ không tạo được kết quả
tốt.
Hai mắt Lý Thế Dân cháy bỏng nhìn chằm chằm Đỗ Hà, hỏi:
- Vậy việc này ngươi có ý định xử lý như thế nào?
Đỗ Hà cười nói:
- Nếu tiểu tế đã tới đây, tự nhiên là muốn đem phát minh này hiến cho
nhạc phụ đại nhân. Tiểu tế đã thuyết phục Bồng Diệc Lương, chúng ta đều
cho rằng phát minh này là kỹ thuật tạo được ích lợi cho Đại Đường thiên
thu muôn đời, ưng thuận dùng tạo phúc lợi cho thiên hạ, mà không phải
công cụ kiếm tiền mưu lợi riêng tư cho chính mình!
Lý Thế Dân nhìn Đỗ Hà thật sâu, thở dài một hơi, nói:
- Hiền tế đối đãi với trẫm như thế, lại đối đãi với Đại Đường như thế,
trẫm thật không biết nên nói như thế nào. Bất quá tâm ý của ngươi trẫm
cảm kích, nhưng ngươi từng nghe qua có vị hoàng đế nào theo kinh thương
sao? Nếu loại giấy này được đưa ra thị trường, chỉ sợ sẽ tạo ra một hồi
oanh động! Một đồ vật giá rẻ lại tạo được lợi ích thực tế, lại lập tức
có thể đánh bại loại giấy vàng, giấy làm bằng tre trúc, làm cho họ xem
như bị đóng cửa. Nếu trẫm mà làm, còn không bị họ mắng chết? Cho nên
việc này ngươi hãy xem mà làm, trẫm không hỏi tới nữa!
Hắn nói xong híp mắt nở nụ cười.