Người ta vẫn thường hay nói, sau khi về già sẽ rất dễ nhớ lại chuyện trước kia, những việc bé tí tẹo sớm đã tan thành mây khói cũng có thể làm dậy lên cảm giác hoài niệm vô biên vô hạn. Người thư sinh trước mặt cao cao gầy gầy, có một gương mặt non nớt chưa từng trải gió sương.
Một chút cũng không giống với cố nhân trong ký ức, càng cách biệt rất xa so với y hay hắn năm đó. Nếu cứng rắn thì phải theo đuổi sự buồn tẻ cô đơn, chỉ có một tia chất phác ngây ngô nơi chân mày thái dương là giống nhau, còn có phần khí thế tự tin bừng bừng và vẻ kỳ vọng đối với tương lai toát ra trong từng điệu bộ cử chỉ, muốn giấu cũng giấu không được.
“Năm đó, bọn ta cùng học ở thư viện.” Trong tiếng mưa rơi rả rích, huyện thừa vẫn luôn trầm tĩnh kiệm lời từ từ mở miệng kể lại một đoạn quá vãng, “Bọn ta. Ta và Cố thị lang.”
Thiếu niên ngoài cửa cúi mặt lắng nghe, màn mưa bụi tinh mịn đằng sau lưng hắn đan dệt vào nhau tạo thành một tấm lưới trong suốt: “Chính là thư viện Nam An hiện giờ sao?”
Nghiêm Phượng Lâu gật đầu: “Phải. Ta là người huyện Chương Mậu của Lâm Châu, hắn xuất thân từ Thương Ngô của Lâm Châu, tính ra, chúng ta là nửa đồng hương.”
Phía tây Nam An chính là địa giới Lâm Châu. Thư viện Nam An đã trải qua mấy trăm năm, do vài vị nhà nho thông thái lưu danh bách thế sáng lập nên, xưa nay lớp lớp anh tài nối tiếp nhau theo từng thế hệ, trọng thần nổi tiếng của các triều đại và lãnh tụ của các đảng học đều không thiếu những thư sinh xuất thân từ thư viện Nam An, có thể nói đây là một học phủ nổi danh trong thiên hạ, có uy tín rất lớn ở hai châu Lâm, Thanh và một vài châu xung quanh khác. Ở các châu xung quanh, phàm là thư sinh kỳ vọng có thể trúng cử ra làm quan để đại triển quyền cước, thì đều mong muốn được tới thư viện Nam An học tập.
Mỗi khi đến mùa nhập học mới, người và xe trong thành Nam An lại thi nhau qua lại, dòng người trước cửa thư viện càng cuồn cuộn như nước chảy, tất cả thư sinh gầy gò đều mặc trường bào, đầu đội khăn chít, hoặc cầm quạt trúc hoặc cầm sách tre, đàm thi luận đạo, ngâm vịnh xướng tùy, không biết dẫn tới bao nhiêu ánh mắt liếc trộm của các tiểu thư dưỡng trong khuê phòng. Những nhà có cha mẹ hận không thể gả con gái đi lại càng lớn mật, ngăn đón từng người hỏi thăm gia thế, tỉ mỉ đánh giá tướng mạo, hi vọng có vị trạng nguyên tương lai nào đó trong một phút không lưu thần liền bị lừa thành con rể nhà mình. Có người ngượng ngùng hướng mặt vào bên trong, bị hỏi đến khi hai gò má đỏ bừng liên tục tránh né. Tiếng người ồn ào, náo nhiệt hệt như ngày lễ Tết.
Năm ấy, hắn và y chính là gặp nhau trước cửa thư viện, khoanh tay bó gối ngồi trò chuyện, nói dăm ba câu khách sáo, đều một thân một mình cô đơn bên ngoài, là lần đầu tiên rời khỏi quê hương, vì một tiếng Lâm Châu nói ra giống nhau mà cùng nhìn nhau cười, đáy lòng vô cớ sinh ra đôi phần hoan hỉ.
“Khi ấy hắn cao hơn ta, luôn ngồi phía cuối học đường. Ta ngồi phía trước hắn, không biết đã bị hắn phá hư mất bao nhiêu chiếc áo, ai mà biết được hắn cố tình hay vô ý.” Trong mắt Nghiêm Phượng Lâu tẫn hiển vẻ hồi ức, cách ngăn sắc trời ảm đạm nhìn Đỗ Viễn Sơn trước mặt, tựa như cách ngăn quãng thời gian xa xa nhìn thấy được Cố Minh Cử thời xưa ấy.
Người bạn đồng môn ngồi phía sau thường hay dùng bút chọc chọc vào lưng y lúc thầy giáo đang giảng bài. Y còn chưa quay đầu lại đã đỏ bừng cả mặt vì sợ sệt, trong lòng bất an hệt như tên trộm đang hành nghề, căng cứng sống lưng gắng sức nhỏ giọng trách hắn một câu: “Làm gì vậy? Cẩn thận bị thầy giáo thấy được.” Trong lòng bàn tay đã rịn ra mồ hôi lạnh.
Người phía sau im lặng ngoan ngoãn nghe lời, chưa được bao lâu đã lại làm phiền, cán bút đâm đâm vào sống lưng y gây nên một hồi khó chịu. Liền nén cáu kỉnh quay mặt lại nhìn, ánh mắt thoáng lướt qua cây ngô đồng bên ngoài cửa sổ, đập vào mắt y là một vẻ mặt biểu tình kỳ quái, nháy nháy mắt, tựa như chú hề trên sân khấu kịch. Hắn thần thần bí bí mở cuốn sách của mình cho y xem, bên cạnh những lời hay ý đẹp của thánh nhân, vài nét bút ít ỏi phác ra bức họa một lão nhân trông thật buồn cười, nét mặt và thần tình cực giống với vị đang giảng bài phía trước kia. Nhịn không được liền phì cười. Thầy giáo bên kia ho mạnh một tiếng: “Nghiêm Phượng Lâu, Cố Minh Cử, các ngươi cười cái gì?”
Tới buổi chiều chạng vạng, cả hai cùng bị phạt ở lại học đường.
Đám bạn cùng học trước khi rời đi còn không quên trêu chọc hả hê: “Chao ôi, cùng tiến cùng lùi thì thôi chưa nói, ngay cả chịu phạt cũng cùng nhau nữa.”
Trên mặt y vẫn đeo vẻ nề nếp như cũ, tức giận oán trách: “Đều là bị ngươi làm liên lụy.”
Hắn cong cong khóe môi, cư nhiên còn có mặt mũi làm ra vẻ oan ức: “Ta đâu biết ngươi sẽ bật cười.”
Tới khi quay trở về phòng, thay áo ra liền nhìn thấy sau lưng loang lổ lốm đốm những vết mực đầm đìa, tỉ mỉ nhìn thật kỹ, còn thấy xếp được thành chữ. Không cần nghĩ cũng có thể biết là tác phẩm của kẻ nào. Ai kia sau khi tan học còn kiên quyết kéo mình ra ngoài đi dạo hơn nửa huyện thành! Hận đến không thở nổi, liền lập tức túm lấy kẻ đang nằm trên giường lôi dậy, liền tay kéo cổ áo hắn lôi luôn xuống giường: “Cố Minh Cử! Ngươi muốn chết!”
Hắn cười hì hì mở mắt ra, làm vẻ tội nghiệp đáng thương ngồi dưới mặt đất, ôm bắp chân y giảo hoạt xin thứ tha: “Phượng khanh tha mạng, ta giúp ngươi giặt là được rồi mà?” Nếu còn không tha thứ, hắn sẽ đem mặt cọ cọ lên đùi y.
Y thực sự cực chẳng đã, mặt đỏ bừng rút chân khỏi tay hắn, mím chặt môi quay lưng đi không thèm đáp lại hắn, khóe mắt phiêu phiêu một hồi, vẫn là phiêu thấy hắn. Người nọ từ dưới mặt đất đứng lên điềm nhiên như không, đang cầm chiếc áo của y chậc chậc tự khen: “Chẳng phải viết rất đẹp sao? Giặt đi thật là phí.”
Hận không thể đoạt lấy chiếc áo rồi xiết chết hắn.
“Ai mà ngờ được, Cố thị lang thanh danh hiển hách hồi niên thiếu lại có một mặt như vậy nữa.” Đỗ Viễn Sơn nheo mắt, sâu kín thở dài. Sắc trời càng lúc càng âm trầm, giá sách chất đầy thư quyển chiếu xuống mặt đất một âm ảnh thật lớn, che phủ toàn bộ Nghiêm Phượng Lâu bên trong. Thiếu niên đứng cạnh cửa ngẩng mặt lên nhìn, ngờ ngợ trông thấy một nụ cười mỉm trên mặt y.
“A, không thể ngờ được, thực sự không thể ngờ được…” Tựa như bởi vậy mà nhớ tới điều gì, Nghiêm Phượng Lâu liên tiếp than thở mấy tiếng không ngờ được.
“Chuyện gì?” Lo sợ y bị nhiễu loạn mà chìm vào hồi ức, Đỗ Viễn Sơn thấp giọng thăm dò.
Y chầm chậm xoay chuyển tầm nhìn, chỉ lướt qua mặt Đỗ Viễn Sơn một chút, rồi lại rơi xuống màn mưa bên ngoài khung cửa: “Không thể ngờ được, hắn lại trở thành như ngày hôm nay. Nhưng nếu bình tĩnh suy ngẫm, lại cảm thấy đó là lẽ đương nhiên.”
Người đời đều biết, Cố thị lang phú quý thông thiên như hiện giờ lại có một xuất thân cùng khổ. Nhưng không có mấy người biết được, Cố Minh Cử trước đây rốt cuộc quẫn bách đến nông nỗi nào.
“Phụ thân của hắn là một người thợ mộc, dựa vào nghề chế tác gia cụ để mưu sinh. Còn mẫu thân, từ sau khi hạ sinh hắn đã qua đời rồi.” Trên chốn quan trường vẫn thường hay nói, biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Cả triều văn võ, không tới một nghìn thì có lẽ cũng phải vài trăm người, lại không một ai biết rõ gia thế của Cố Minh Cử. Mà có thể tường tận mọi điều về Cố Minh Cử, trên khắp thiên hạ chắc chỉ có một mình Nghiêm Phượng Lâu y.
Y đưa tay vẫy vẫy Đỗ Viễn Sơn: “Lại đây ngồi đi. Ta không muốn đem chuyện của hắn lớn tiếng kể cho mọi người cùng nghe.”
Bước chân của Đỗ Viễn Sơn vẫn hư nhược, từng bước từng bước đi tới, mơ mơ màng màng, cảm giác như đang ở trong mộng.
Nghiêm Phượng Lâu lặng yên nhìn hắn, lại không nói gì cả, chỉ mời hắn ngồi xuống một chiếc ghế bên cửa sổ, cách một chiếc bàn sách: “Đừng sợ, cũng không phải chuyện gì dọa người đâu. Hắn có nhỏ mọn hơn nữa cũng sẽ không vì vậy mà giết ngươi diệt khẩu.”
Đỗ Viễn Sơn biết là y đang cố ý nói đùa, miễn cưỡng kéo kéo da mặt, khó khăn lắm mới lộ ra được một nụ cười xấu xí.
Nụ cười của Nghiêm Phượng Lâu lại chân thực hơn rất nhiều, ánh mặt trời mờ nhạt xuyên qua ô cửa sổ chiếu lên mặt y, một đôi mắt vô ba vô lự thăm thẳm như hồ sâu, mơ hồ ánh lên mấy phần quang thải: “Gia cảnh nhà hắn không tốt, cuộc sống luôn rất khó khăn.”
Thương Ngô là một địa phương nghèo, nếu đem so sánh với Thương Ngô, Nam An còn có thể được coi là sung túc. Nơi thâm sơn cùng cốc, rất ít khi có người đặt làm gia cụ, cái gọi là thợ mộc cũng bất quá chỉ là giúp tu sửa chân bàn chân ghế, một năm khó có được mấy phần thu nhập. Phụ thân của Cố Minh Cử không tái giá, cũng chẳng gom góp đủ tiền để lấy thêm vợ khác, vì thế hai cha con thủy chung nương tựa vào nhau mà sống.
Những chuyện hồi còn thơ ấu, Cố Minh Cử luôn nhắc đến rất ít, chỉ nói may mà trường tư thục trong thôn trang không lấy tiền, có điều học vấn của thầy giáo cũng không tốt lắm, bất quá cũng xem như học biết được cái chữ.
Tiền để đến thư viện học là do Cố Minh Cử tự kiếm được. Đầu năm ấy, trong khi Nghiêm Phượng Lâu còn dựa vào tiền do nhà gửi tới để mua sách và trang trải chi tiêu, Cố Minh Cử đã chạy khắp ngõ lớn ngõ nhỏ của Nam An, giúp người ta viết thư vẽ tranh, dạy tiểu thiếu gia nhà viên ngoại nhận biết mặt chữ mặt số. Thi thoảng, còn có thể ở trong quán rượu quán cơm làm chân bưng bê tạm thời, hoặc giúp cửa hàng nhà ai đó ghi sổ sách và rao hàng. Chỉ cần có thể kiếm được tiền, không việc gì là Cố Minh Cử chưa từng làm qua, hắn thậm chí còn giấu thư viện đi làm một chân chạy việc trong sòng bạc hay kỹ viện.
Thánh nhân nói, tất cả đều là thứ phẩm, duy chỉ có người đọc sách là cao quý. Người đọc sách căn bản không nên lẫn lộn cùng đám hạ lưu, nhưng đều là tuổi trẻ huyết khí phương cương, mỗi khi nghe Cố Minh Cử kể sinh động những chuyện mắt thấy tai nghe trong sòng bạc hay câu lan viện, luôn dẫn tới một đống học trò giả thanh cao mặt đỏ tai hồng yên lặng lắng nghe. Có người yêu thích ngưỡng mộ, có kẻ cười nhạt khinh thường, nói hắn văn hóa bại hoại.
Lúc nào hắn cũng không cho là đúng, nghênh ngang phủi phủi vạt áo, nhướn mày tặc lưỡi hừ lạnh một tiếng: “Thanh cao cũng không thể đem làm cơm ăn.”
Rước lấy chính là Nghiêm Phượng Lâu liều mạng kéo ống tay áo của hắn lôi đi: “Đừng nói nữa, còn tiếp tục lớn tiếng thầy giáo sẽ tới quát đó.”
Lúc đêm khuya thanh tĩnh, người khác đều đã ngủ. Hắn lại rón rén tiến vào ổ chăn của y, bả vai sát bả vai, ghé lên bên tai y, thủ thỉ kể cho y nghe những chuyện không thể để người ta nhìn thấy, mái tóc của Hoa Nương đen nhánh như màu mực, vòng eo trắng mịn như tuyết, còn có… tiếng thở dốc uyển chuyển trầm bổng phía sau bức bình phong…
Trong bóng đêm đen kịt, một đôi mắt rạng rỡ lấp lánh quang mang như bảo thạch.
Nghiêm Phượng Lâu xấu hổ đến phát nhiệt cả người, xoay người đi, lấy tay bịt lỗ tai không chịu nghe nữa.
Hắn cào cào lên lưng y, cố ý ghé vào lỗ tai y cười giễu y không có kiến thức: “Ngươi xấu hổ cái gì? Những việc ấy sau này chung quy cũng phải gặp, ngươi tránh được sao? Khổng Tử cũng đã nói, ‘thực sắc tính dã’ (1) mà. Ài, Phượng khanh, ngươi đừng trốn, đừng trốn… Hi hi, chẳng lẽ ngươi… Ôi chao, Phượng khanh của ta, lẽ nào ngươi mới nghe một chút liền không ổn rồi? Ha ha, chẳng lẽ là thật sao? Nào, để ta sờ thử xem… Ta lại kể cho ngươi thêm một chuyện a, ngày đó lúc ta tiến vào phòng của Lục Khởi cô nương để thu dọn vật dụng, vừa vặn nhìn thấy…”
Hận không thể chém đứt cái tay của hắn, xé rách cái miệng của hắn.
Từng tia tiếu ý hiện lên trên khóe miệng y, y trầm mê không thể tỉnh lại trong những năm tháng ít ỏi đã mất đi, mưa vẫn rơi rả rích, thần sắc mê ly mơ màng nhìn người thư sinh đã có chút ngây ngốc bên ô cửa sổ. Một lúc lâu sau, lại thấy y quyến luyến thu hồi tầm mắt, ngữ khí bỗng chuyển thành trầm khàn: “Đều đã là chuyện của quá khứ, hiện tại không cần thiết phải nhắc tới nữa.”
Đỗ Viễn Sơn truy theo đường nhìn của y rơi xuống tờ giấy trắng viết dở dang trên mặt bàn. Nghiêm Phượng Lâu dùng ngón tay vuốt nhẹ lên khoảng trống còn chưa viết xong ấy, chữ mới viết được hai nét kia vẫn còn khuyết thiếu, tựa như kết cục của quá trình đã mở ra giữa hai người.
Có năm đó như vậy, tại sao lại có hiện tại như ngày hôm nay? Y nhìn thấy nghi vấn tương tự hiện lên trong mắt Đỗ Viễn Sơn. Nghiêm Phượng Lâu nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu: “Con đường mà ta và hắn đi chung quy không cùng một lối. Sau khi trúng cử, ta nhìn không quen những xu nịnh của hắn, hắn nói ta quá cổ hủ. Sau này, liền cứ như vậy trở nên xa cách.”
Kể liền một mạch tựa như đem đủ các chuyện trước kia lướt qua trong đầu một lần, hậu quả của cả đêm không ngủ cuối cùng cũng hùng hổ ập tới, mệt mỏi ùn ùn phô thiên cái địa. Y đã không còn sức để suy nghĩ tới khúc phức tạp và rối rắm phía sau, những thứ đó mới chân chính gọi là nói không nên lời, không phải không thể nói, mà quả thực không cách nào nói ra.
Cũng như năm đó gặp gỡ nhau, mấy câu ít ỏi liền kết thành tri kỷ. Tới khi phân ly, cũng chỉ vài câu ít ỏi, bọn họ liền cứ như vậy trở thành người xa lạ.
“Hắn từng nói, kiếp này sẽ không đặt chân vào Nam An thêm nửa bước, hiện tại lại… À, dù sao thì từ trước tới nay hắn cũng không phải chính nhân quân tử gì.” Nghiêm Phượng Lâu thì thầm tự nói, trong giọng điệu mang theo chút trào lộng, lại lộ ra mấy phần chán nản.
Huyện thừa trước mặt là dáng vẻ mà người ngoài chưa từng nhìn thấy, ngay cả Đỗ Viễn Sơn từ trước đến nay vẫn luôn tự xưng là thân cận cũng chưa từng nhìn thấy thần thái mệt mỏi như vậy của y. Đỗ Viễn Sơn nhớ tới thần sắc của Nghiêm Phượng Lâu khi nghe tin Cố thị lang hồi hương, ánh mắt kiên định chưa từng dao động trong khoảnh khắc lại tràn ra vết nứt, sau đó là vẻ thất thần và vô thố không cách nào che giấu.
“Đại nhân…” Hắn muốn thử nói điều gì đó, lời tới bên miệng lại đột ngột tiêu tan.
Nghiêm Phượng Lâu khoát khoát tay: “Không có gì. Ta chỉ là muốn nghỉ ngơi một chút.”
Lại chuyển tầm mắt nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ, mưa đã ngừng rơi, bên đầu tường loáng thoáng lộ ra mấy tia nắng mặt trời. Chỉ chốc lát sau mây đã tản, lại là một vầng thái dương xán lạn treo giữa không trung.
Thế gian kỳ thực cũng chính là như vậy, âm tình bất định, khó bề nhận biết.
***
Ôn Nhã Thần gửi thư tới, từ lúc xuất kinh đến giờ, đây đã là phong thư thứ sáu, nét bút vẫn tháu láu, câu chữ vẫn cẩu thả, tám phần mười là hắn nhờ đút lót ngân phiếu cho quan khảo thí mới có thể qua được kỳ thi.
Cố Minh Cử rút lá thư xem lướt qua, lại đút vào trong tay áo: “Tên tiểu tử Ôn Nhã Thần này, mệt hắn còn có người cha làm tướng quân, lá gan lại so với con chuột còn nhỏ hơn.”
Gã tiểu tư bên cạnh nheo mắt phỏng đoán: “Ôn thiếu gia lại gây ra chuyện gì ở kinh thành rồi?”
“Hừ, dựa vào hắn?” Cố Minh Cử im lặng không nhắc tới nữa, vò nát lá thư trong tay áo kia, cất bước đi ra ngoài, “Bệnh tình của Nghiêm huyện thừa có khá hơn chút nào chưa? Đi xem thử những dược liệu mang từ kinh thành tới, cái nào có thể sử dụng thì đều đem tặng cả đi.”
Gã tiểu tư lanh lợi vội vàng dạ vâng không ngừng, cùng Cố Minh Cử đi về phía trước, dọc đường không nhanh không chậm nói cho hắn nghe về chẩn đoán của thầy lang: “Sáng nay Hoàng đại phu của Hồ Xuân đường lại tới bắt mạch cho Nghiêm đại nhân, nói là không còn gì đáng ngại nữa, nằm ở trên giường tĩnh dưỡng mấy ngày là có thể khỏe lại. Dược liệu tiểu nhân đưa sang cũng đã được đại phu xem qua, có mấy vị vô cùng tốt, có lẽ đang được dùng để Nghiêm đại nhân bồi bổ thân thể rồi. Còn những sinh hoạt nghỉ ngơi thường ngày, Phiêu Tuyết cô nương trong phủ Nghiêm đại nhân đều ghi nhớ toàn bộ, để tiểu nhân đi hỏi nàng rồi chép ra một bản khác đem tới cho đại nhân xem.”
“Nguyên nhân phát bệnh là gì?”
“Cũng giống như Lý đại phu đã nói lúc trước, là bị thụ hàn, mấy ngày liên tiếp lại làm việc vất vả, mệt mỏi bất kham, thêm áp lực bị tích tụ trong lòng không phát ra được, lâu dần thành bệnh.”
Bảo hắn đừng thức suốt đêm đọc sách mà hắn không chịu nghe. Đuôi lông mày Cố Minh Cử thoáng run run, lại hỏi: “Đại phu đã kê đơn thuốc gì rồi?”
“Hoàng đại phu nói, cứ chiếu theo đơn thuốc của Lý đại phu lúc trước mà dùng tiếp là được, Nghiêm đại nhân lần này cũng không phải bị bệnh gì nghiêm trọng, không cần quá mức lo lắng. Ha ha, thầy lang nơi thôn dã dẫu sao cũng khó có thể khiến người ta an tâm, bằng không để tiểu nhân đem tờ chẩn đoán bệnh của hai vị đại phu chép ra một bản gửi về kinh thành, bảo mấy vị lão thái y trong thái y viện xem thử?”
“Ngươi nha, a…” Thật là một tên thủ hạ mẫn cán đến khiến người ta nhịn không được phải bật cười, bộ dạng chân chó này kỳ thực có vài phần giống với mình hồi mới bước vào quan trường. Cố Minh Cử gập ngón trỏ gõ một cái lên trán gã, “Lo việc của mình cho tốt đi là được rồi, đừng suốt ngày chỉ toàn lo những chuyện tâm địa gian xảo này. Còn đưa về kinh thành nữa, nếu thực sự là bệnh gì liên quan đến tính mạng, vậy trong lúc ngươi đem đi thì Nghiêm Phượng Lâu cũng đã lạnh rồi.”
“Chẳng phải tiểu nhân thấy ngài không an tâm sao…” Tên tiểu tư che che cái trán, ủy khuất lầm bầm.
Cố Minh Cử nhướn mày làm ra vẻ lại muốn gõ thêm một cái nữa, nhưng đã đến huyện thừa phủ rồi.
Vị thị lang đại nhân này thường xuyên tới, từ sau khi Nghiêm huyện thừa ngã bệnh, lại càng tích cực giá lâm thăm bệnh mỗi ngày, cả phủ trên dưới không ai là không biết đến hắn. Tên gác cổng gầy như con khỉ vừa nhìn thấy Cố Minh Cử liền vội vàng chạy vào trong phủ thông báo: “Cố đại nhân đến rồi, Cố đại nhân đến rồi!”
Lập tức, số người vốn đã ít ỏi trong huyện thừa phủ dường như đều xé họng thông báo lẫn nhau: “Cố đại nhân, vị Cố thị lang kia lại tới rồi!”
E là ngoài ba dặm cũng có thể nghe thấy được, thật không hiểu bọn họ là đang hoan nghênh hay đang đuổi sói nữa.
Cố Minh Cử lắc lắc đầu đi thẳng vào trong, dọc đường lại có những kẻ chẳng biết nhảy ra từ góc khuất nào, cười tươi như hoa vọt tới trước mặt hắn: “Tiểu nhân thỉnh an Cố đại nhân!”
“Đi đi, đi đi, đều đi tìm quản gia lĩnh thưởng cả đi.” Đứng ở trước phòng ngủ của Nghiêm Phượng Lâu, Cố Minh Cử hào sảng khua khua tay, thế là trong mắt mọi người lập tức sáng lên từng đốm sao nhỏ, ầm một tiếng tản đi hết, một câu “Tạ ơn Cố đại nhân” lại hét đến vang dội.
“Thật là…” Hắn đứng trong khoảnh sân trống không mà dở khóc dở cười.
Đột nhiên nghe thấy một hồi tiếng cười lanh lảnh như chuông bạc từ sau lưng: “Thật không hổ là Cố thị lang tiếng tăm lẫy lừng, mấy xâu tiền thưởng đã mua đứt hết nhân tâm của mọi người trong huyện thừa phủ ta.”
Cố Minh Cử xoay người lại nhìn, Phiêu Tuyết một thân hồng y đang ngồi trong phòng, nhìn sang bên này cười khúc khích không ngừng. Nàng bưng chén thuốc ngồi ở bên giường, ghé lên tai Nghiêm Phượng Lâu nói nhỏ một câu, sau đó ngay cả Nghiêm Phượng Lâu sắc mặt suy yếu cũng treo một tia cười bên miệng.
“Nào có, tại hạ bất quá chỉ để đạt được một nụ cười của Phiêu Tuyết cô nương mà thôi.” Soải chân từng bước về phía trước, giả bộ hệt như tiểu thư sinh lần đầu tiên gặp được giai nhân trên sân khấu kịch, Cố Minh Cử khom người hành lễ, “Không biết tiểu cô nương đã có ý trung nhân hay chưa?”
Hắn tận lực bắt chước cả lời nói và giọng điệu, dẫn tới một trận cười nữa của Phiêu Tuyết, trên gò má trắng như tuyết nổi lên hai đóa hồng vân.
Cố Minh Cử nói: “Không nói thì chính là có rồi. Liệu có khi nào là kẻ hèn này không?”
Nữ tử hồng y trang nhã cười khúc khích, xoay người lại đút Nghiêm Phượng Lâu uống thuốc: “Ngài nói thử xem?”
“Ái chà, vậy quá nửa chính là tại hạ rồi, thật là biết lấy đức đâu tài đâu nha.” Hắn khoa trương cảm thán, rồi lại tỏ vẻ tiếc hận như thật: “Đáng tiếc, tim của tại hạ đã có người sở hữu rồi. Việc này phải làm sao mới tốt đây?” Tựa như thực sự tiến thoái lưỡng nan.
“Nếu không, ủy khuất cô nương làm thiếp của ta? Ài, ta cũng biết nàng muốn được ngang hàng phải vế với người trong lòng ta kia, nhưng chung quy thân sơ vẫn có cách biệt, tại hạ chỉ có thể xin nàng thứ lỗi.”
“Phi!” Nữ tử nhanh nhẹn cuối cùng cũng chịu không nổi, khuôn mặt nín cười đến đỏ bừng, hung hăng mắng hắn một câu: “Cố đại nhân, ngài tới rốt cuộc để thăm bệnh đại nhân nhà thiếp, hay tới để lấy thiếp làm thú tiêu khiển!”
Nàng quay đầu lại mách với Nghiêm Phượng Lâu: “Đại nhân ngài nghe xem, Cố thị lang đây chính là nhìn thiếp chướng mắt mà!”
Nghiêm Phượng Lâu nghiêng mặt qua liếc nhìn Cố Minh Cử, Cố Minh Cử liền không đùa giỡn nữa, tựa vào khung cửa lẳng lặng nhìn Phiêu Tuyết chăm sóc Nghiêm Phượng Lâu uống thuốc.
Nghiêm Phượng Lâu bị bệnh đã là chuyện từ ba ngày trước. Huyện thừa cần mẫn với chính vụ đang ngồi trong huyện nha xem tài liệu, đang yên đang lành bỗng nhiên ngã xuống, mặc cho mọi người hô gọi thế nào cũng không tỉnh lại. Tới khi Cố Minh Cử vội vàng chạy đến, người đã được đưa về huyện thừa phủ, trên trán nóng đến phỏng tay, khắp người đều toát mồ hôi.
Lúc ấy, mọi người đều bận rộn trong trong ngoài ngoài, Cố Minh Cử lại chỉ ngồi bên giường Nghiêm Phượng Lâu không nhúc nhích, tròn một đêm, hệt như một tên người gỗ. Tới ngày hôm sau Nghiêm Phượng Lâu mở mắt ra, Cố Minh Cử mới thở phào nhẹ nhõm một hơi, phát hiện trái tim vẫn treo ở cổ họng cuối cùng cũng rơi trở về, cả người dường như đến giờ mới sống lại.
Ôn Nhã Thần có một câu nói về nữ nhân, Cố Minh Cử không nhớ rõ, chỉ nhớ đại ý nói rằng, nữ nhân là thứ khó gọt giũa nhất trên thế gian. May mà thiên hạ này là do nam nhân làm hoàng đế, giả sử nữ chủ xưng đế, tên chó săn Cố Minh Cử chỉ dựa vào hiểu biết thánh ý mà sống này e rằng sẽ phát điên mất. Bởi các nàng quá hay thay đổi cũng quá giỏi che giấu, buổi sáng còn nói thích mặt trời, chưa tới buổi trưa đã sửa giọng thành say mê ánh trăng, tới khi đêm xuống đột nhiên lại hoài niệm tầng mây trắng noãn. Nếu có một điều bất biến thì đó chính là, vô luận che giấu tốt bao nhiêu, ở trước mặt người mình yêu, các nàng vẫn sẽ bất cẩn mà để lộ ra dấu vết. Bởi vì yêu mến chính là lưu tâm, càng lưu tâm thì nhất cử nhất động lại càng tận lực.
Năm Thiên Hữu thứ hai mươi hai, trên đường từ Tân Hoài điều tới Thái Châu, Nghiêm Phượng Lâu đã cứu Phiêu Tuyết lúc ấy đang trốn ra khỏi kỹ viện, dốc hết gia sản chuộc thân cho nàng. Nghe nói đây là một nữ tử có đường đời gập ghềnh, mẫu thân mất sớm, phụ thân nghiện cờ bạc. Thời gian nàng ở kỹ viện cũng trải qua không mấy tốt đẹp, bởi không muốn tiếp khách, lại lúc nào cũng có suy nghĩ muốn đào tẩu, nàng luôn phải chịu đòn roi và sự ngược đãi của tú bà. Điều may mắn duy nhất chính là, lúc đang bị đám hộ vệ của kỹ viện đuổi đến cùng đường mạt lộ, nàng đã gặp được Nghiêm Phượng Lâu, một trong những vị thanh quan ít ỏi của thiên hạ. Nếu gặp phải loại người như Trương tri phủ, phỏng chừng nàng sẽ phải khóc lóc hối hận vì sao mình lại muốn bỏ trốn.
Nữ tử như vậy tính tình luôn rất cương liệt, cho dù nụ cười quyến rũ dáng người thướt tha, đáy mắt lại luôn mang theo một phần quyết tuyệt. Nếu không biết tốt xấu mà tiếp cận, chưa biết chừng có thể bị nàng lôi từ đâu đó ra một cây chủy thủ sáng lạnh như tuyết, liều mạng đến đồng quy vu tận. Huống chi, nàng không chỉ cương liệt, còn rất khôn khéo, một nữ tử yếu nhược lại theo Nghiêm Phượng Lâu đi đây đi đó, xử lý một cái huyện thừa phủ mộc mạc nghèo túng đến ngăn nắp gọn gàng.
Hiện tại nàng ngồi bên giường Nghiêm Phượng Lâu, toàn thân chỉ đều là ôn nhu săn sóc, bất luận là móng tay sơn bóng nước, hay cây trâm ngọc rung rinh cài trên đầu, đều mang theo mấy phần ý vị muốn nói lại thôi, tựa như một búp sen mùa hạ sớm đã hé nở trong hồ nước, mới chỉ lộ ra một góc nhỏ, đã đủ để nói hết phần tình cảm ấp ôm.
Vị thuốc chung quy vẫn rất khó uống, từ khóe miệng và hàng lông mày nhíu chặt của Nghiêm Phượng Lâu liền có thể nhìn ra được. Nữ tử quan sát tỉ mỉ, cười nói: “Đã lớn như vậy rồi, còn sợ uống thuốc?”
Nghiêm Phượng Lâu có chút bất đắc dĩ cúi đầu xuống. Nàng cười, cúi mặt xuống nói thầm một câu gì đó. Cố Minh Cử đứng ngoài cửa xa xa không nghe được, chỉ nhìn thấy khóe miệng Nghiêm Phượng Lâu vểnh vểnh lên, khuôn mặt bởi vì sinh bệnh mà càng tái nhợt liền hiện thêm mấy phần sinh khí.
Nàng đút từng muỗng thuốc, y uống xuống từng muỗng. Cho dù lời nói rất ít, sự ăn ý hiểu ngầm giữa đôi bên lại vẫn hiển lộ ra rõ rệt, một người nâng mắt lên, một người nhìn vào đó, đã đủ để nói rõ hết những đồng cam cộng khổ mấy năm gần đây.
Ánh mắt của nữ tử bên kia hữu ý vô ý đảo qua bên này, Cố Minh Cử tỉnh bơ cười lại với nàng một cái, bỗng nhiên có vài phần thấu hiểu tâm trạng của Đỗ Viễn Sơn đứng ngoài thư phòng ngày hôm đó.
__Hết chương 5__
*Chú thích:
(1) thực sắc tính dã: Khổng Tử trong 《 Lễ Ký 》đã giảng về “ẩm thực nam nữ, dục vọng to lớn của con người”. Phàm là sinh mệnh của con người, không thể rời khỏi hai đại sự kiện: ẩm thực, nam nữ. Một vấn đề của cuộc sống, một vấn đề của tính dục. Cái gọi là ẩm thực, tương đương với vấn đề dân sinh, nam nữ thuộc về vấn đề hạnh phúc, nhân sinh không thoát khỏi hai sự kiện này.