Công Chúa Chăn Ngỗng - Câu Chuyện Về Vùng Đất Bayern

Chương 17




Ani đi bộ ba ngày. Ánh nắng làm lộ ra một vệt nâu đậm của máu khô nơi lưng cô, và khi cô dùng ngón chạm vào vết cắt, chúng lại ứa máu. Cô vẫn tiếp tục đi.

Những ý nghĩ mạch lạc có vẻ đã rời bỏ cô ở cánh cổng dẫn ra đồng cỏ, nơi Falada gọi cô là công chúa lần cuối và khi lưỡi dao của Ungolad đâm vào cô. Mái tóc không thắt của cô buông dài. Tình cảnh và cảm giác lúc này làm cô thấy bứt rứt, cô tìm cách tránh những người đến gần đường mòn. Cô nhớ có một chỗ an toàn và nỗ lực đến đó, lắng nghe trong gió để tìm tiếng róc rách của dòng nước và kiếm một con đường tránh xa mọi người.

Ani trải qua bốn đêm trên nền đất. Trừ đêm đầu tiên, khi việc mất máu và kiệt sức làm cô thiếp đi không cưỡng lại được, Ani vẫn còn đủ tỉnh táo để cảm nhận được cái rét của những đêm đầu xuân. Ngay cả trong cơn ngủ say nhất, cảm giác về cái lạnh vẫn theo cô, làm méo mó những giấc mơ và thường xuyên đánh thức cô với những chỏm băng đọng lại trên da. Ban ngày là sự kéo dài những cơn ác mộng. Cô bước đi, té ngã, lại bước đi. Những thứ cỏ và nấm ăn được lướt qua tầm mắt, cô buông tay trái xuống, hái chúng khi đi ngang qua. Nhưng cô chẳng nghĩ nhiều đến thức án, điều duy nhất cô tìm kiếm lúc này là những từ về nguồn nước trong tiếng rì rào của gió khi cơn khát đang siết lấy cuống họng. Có lần cô tỉnh dậy với khuôn mặt ở dưới nước, khi đang dừng lại uống nước nơi con suối và rồi ngất đi.

Có những người xuất hiện trong khu rừng. Cô không biết liệu họ là người tốt hay xấu. Cô chưa bao giờ đi xa khỏi con đường lớn dẫn vào thành và vẫn giữ nó trong tầm mắt. Dù sao những cơn gió đã mang đến hình ảnh của con người, cô buộc phải đi sâu hơn vào rừng.

Mặt trời lên cao sau đêm thứ tư. Ani tìm thấy một con đường mòn quen thuộc dẫn ra khỏi những lối đi ngoằn ngoèo trong rừng. Cô thấy lòng nhẹ nhõm khi đến gần và hạnh phúc như muốn ngất đi khi thấy trước mắt là những nơi cô từng lang thang tìm củi, tìm trái mọng nhiều tháng trước. Cô thầm cảm ơn tạo hóa đã ban cho cô trí nhớ, sự may mắn và những dấu chỉ dẫn trong cơn gió.

Ani ngạc nhiên khi lần đầu gặp lại căn nhà tranh, lo rằng mình đã nhầm, vì vẻ ngoài khác lạ của nó. Nhưng sau đó, chú dê Poppo be be gọi cô, và bà Gilsa ngẩng đầu lên từ trong vườn.

Ani định cất tiếng chào nhưng cô chợt nhận ra giọng của mình cũng trở nên đáng ngờ như diện mạo lúc này. Ý nghĩ được nghỉ ngơi bất chợt làm cô mệt mỏi và choáng váng. Cô ráng bước về phía trước đến khi người phụ nữ đỡ cô trong cánh tay và giữ lấy cô.

“Ôi, gì vậy cháu?”, bà Gilsa hỏi. Có vẻ như những từ ngữ ngắn gọn không phải vì thiếu kiên nhẫn mà vì lo lắng.

“Bác Gilsa, cháu sắp ngất nữa rồi!”.

Và cô ngất đi.

***

Ani tỉnh dậy trong tư thế nằm sấp trên chiếc giường thấp của bà Gilsa cạnh lò sưởi. Ngọn lửa đang bập bùng đầy phấn khích, những tiếng tí tách của nhựa cây hòa theo âm thanh lách tách dễ chịu phát ra từ đôi kim đan của bà Gilsa. Ánh sáng hững hờ của buổi xế chiều luồn qua khe hở trên cánh cửa lá sách.

“Cháu ngủ cả ngày”, Ani nói.

Tiếng lách tách dừng lại. Với một giọng nhỏ nhẹ, bà Gilsa kéo chiếc ghế lại gần hơn.

“Cháu ngủ cả ngày, đêm, và lại cả ngày. Nhưng con sốt qua rồi và cháu đã qua cơn nguy kịch!”.

Ani nhăn mặt, chắc chắn rằng mọi thứ không hoàn toàn chính xác. Gilsa nhìn cô rồi lắc đầu như thể đang xua đi những ý nghĩ.

“Trời ạ!”, bà càm ràm, “Ta cảm kích rằng cháu đã biết cảnh báo ta việc ngất xỉu lần này, nhưng lẽ ra cháu phải cho biết cháu bị thương và bị thương chỗ nào trước khi té nhào xuống đất chứ. Phải mất một lúc lâu ta mới cắt được mấy mảnh vải ra khỏi người cháu và thêm chừng ấy thời gian nữa để rửa sạch cho cháu rồi mới tìm thấy vết thương. Đúng là một cách ích kỷ để cầu xin lòng hiếu khách đấy cô bé!”.

“Ôi”, Ani tiếc rẻ, “Đó là cái váy xanh bác đã tặng cho cháu, và cháu làm hỏng nó rồi!”.

Bà Gilsa cau có. “Khóc vì vết dao đâm sau lung cháu ấy, chứ đùng khóc vì cái váy xanh cũ, ngỗng con ạ! Cháu thậm chí không tỉnh nổi khi ta rửa sạch vết dao và may nó lại. Finn nghĩ rằng cháu chết mất rồi!”.

Ani thấy Finn bên kia căn phòng, ngồi trên giường và vòng hai tay qua gối. Anh gật đầu chào cô rồi đứng dậy mang cho cô một tô lớn đậu và hành hầm. Cô ăn ngấu nghiến. Mẹ con Finn nhìn cô trong im lặng.

“Cảm ơn bác”, cô cười.

“Tôi nói với mẹ...”, Finn đáp, “Rằng ai đó...”.

“Kẻ nào đó”, bà Gilsa chen vào, chỉnh con trai.

“Vâng, kẻ nào đó cố giết cô có thể đang đến đây. Bà không tin chuyện ấy...”.

“Ừm, giờ mẹ tin rồi, nhưng mẹ không muốn nghe về điều đó!”. Gilsa dừng lại và mải miết đan một lúc. Đoạn, bà bỏ nó sang một bên, thở hắt. “Mặc dù thế, nghĩ lại, có lẽ ta cũng nên nghe...”.

Ani kể cho họ nghe mọi thứ, cả về cái đầu của Falada, về việc cô học được ngôn ngữ của ngỗng, của gió, những câu chuyện tự làm sáng tỏ và liên kết trong đầu cô khi cô để chúng tuôn ra. Khi Ani kết thúc, cô nhìn từ lò sưởi sang bà Gilsa đang sửng sốt đầy kinh hãi. Còn Finn, lúc đầu bần thần nhưng rồi anh gật đầu lia lịa khi thấy cô nhìn chăm chú.

“Chà”, Gilsa nói, “Cháu có khiếu kể chuyện đấy, có cả khiếu bắt chước một thứ giọng không pha tạp như thể cháu lớn lên ở đây”.

“Cháu thường kể chuyện cho những người làm công khác nghe trong những ngày mưa, có lúc là những đêm giá lạnh, khi thứ âm thanh duy nhất có được trong phòng là tiếng lò sưởi kêu tí tách và những con gió bên ngoài. Những câu chuyện dì đã kể cho cháu nghe, những câu chuyện cháu từng đọc trong sách. Mấy tháng gần đây, cháu kể những chuyện tự mình nghĩ ra. Thật sự thì cháu đã kể cả những câu chuyện bịa đặt nhằm che giấu thân phận của mình. Có lẽ bác sẽ nghĩ chuyện cháu kể cũng chỉ giống những câu chuyện thần thoại khác mà thôi”.

“Con thích câu chuyện đó”, Finn lên tiếng.

“Suỵt”, bà Gilsa nhăn mặt, “Đó không phải là câu chuyện kể ra để người ta bảo là rất thích đâu!”.

“Cháu cũng không chắc là cháu thích nó”, Ani nói, “Có lẽ câu chuyện nghe hơi lạ lùng. Cháu chưa từng kể hết mọi thứ với bất cứ ai, ngay cả Enna, người cũng biết đôi chút về nó. Kể chuyện này ra, không hiểu sao cháu cứ muốn thay đổi nó, làm cho nó trở nên đáng yêu, có hậu như khi cháu kể chuyện cho những người làm công nghe. Cháu muốn nó có mở đầu thật đẹp như một đêm vũ hội và một cái kết nhẹ nhàng như người mẹ ôm con vào lòng ru ngủ”.

Bà Gilsa thở hắt ra.

“Cháu muốn nó kết thúc bằng việc cháu cưỡi một con tuấn mã cao lớn về nhà trong tiếng reo hò của mọi người, như giấc mơ ban trưa của đám trẻ”.

Ani nhìn ánh lửa đang biến những viên đá lát lò sưởi trở nên vàng rực. “Có lẽ cháu muốn thế. Có lẽ cháu hi vọng cháu có thể trở về nhà và mọi người sẽ nói Chúng ta đã đánh giá sai cô ấy. Mọi người sẽ thấy rằng cháu thật đặc biệt, xinh đẹp, đầy tài năng, những thứ đại loại như thế…”.

“Ôi, mấy đứa trẻ toàn ao ước những thứ như thế cả. Cháu, Finn và những đứa trẻ giống như cháu. Ngay giờ đây, Finn hẳn đang mơ mộng về việc cầm giáo, cầm khiên, như thể những thứ vớ vẩn ấy sẽ làm cho gà đẻ trứng to hơn vậy”.

Finn nhìn xuống đôi ủng, khuôn mặt bị che khuất nhờ mái tóc.

“Chúng ta đều biết tất cả chỉ là mơ mộng mà thôi. Rất có khả năng, không ai trong khu rừng này phải cầm giáo cầm khiên. Và cháu có thể sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy vương quốc của mẹ một lần nữa, huống chi là được tung hô bởi đám đông như viên ngọc quý Kildenree. Mơ mộng như thế thật hão huyền. Nhưng đôi lúc, được cầm nắm thứ gì có thực trong tay, cảm giác như nó là thước đo giá trị của mình thì thích thật. Phải không Finn?”.

Finn ngước lên, hất nhẹ mái tóc, và cô thấy anh mỉm cười.

***

Ani bị bắt phải ở lại điều trị cho lành vết thương tại nhà bà Gilsa. Cô lo lắng từng giây phút trôi qua và quan sát thời tiết, tự hỏi liệu tuyết nơi khe núi có đang tan không, liệu quân đội đã hành quân chưa, liệu hoàng tử đã kết hôn với cô dâu giả chưa. Cô nói với bà Gilsa: “Cháu phải sớm quay về, kể cho những người làm công khác nghe chuyện và nhờ họ giúp đỡ để đi đến cung điện, yết kiến và thuyết phục đức vua...”.

“Bình tĩnh”, bà Gilsa nói ngắn gọn và đưa cô từ khung cửa sổ về lại giường ngủ của mình.

Vết cắt khá sâu. Ani mất gần hết máu khi vượt qua cánh rừng nên giờ, cô phải nằm sấp trên giường cả ngày lẫn đêm, bứt rứt mỗi khi không ngủ được. Sau hai ngày, Gilsa cho phép cô dậy một lúc và theo bà đi quanh sân, mặc dù vậy, cô cũng không được phép nhấc cái gì nặng hơn một quả trứng gà. Khi Ani đứng che bóng bà Gilsa ở chuồng gà, bà phủi tay hỏi cô xem lũ gà đang nói gì.

“Chúng bảo: Người ta tới đây để lấy trứng, đại loại vậy. Gà không phải là loài giỏi nói chuyện”.

“Ta mừng vì điều đó”, Gilsa nói, “Nó làm ta cảm thấy thoải mái hơn khi ăn trứng của chúng”.

Chiều hôm ấy, người hàng xóm gần nhất của bà Gilsa đến thăm - một phụ nữ tròn trịa tên là Frigart, người thường xuyên lui tới ngôi nhà tranh mỗi khi trời đẹp. Bà ngồi cạnh lò sưởi, cằn nhằn về chồng con trong khi bà Gilsa vừa nghe vừa đan nón. Ani, mệt mỏi vì phải nằm suốt ngày, ngồi ở chiếc bàn chồm người về phía trước để vết thương khỏi chạm vào lưng ghế. Anh sáng xuyên qua ô cửa sổ vào phòng, và khi Frigart vung tay qua ánh sáng, nó lóe lên.

“Chiếc nhẫn đó”, Ani lắp bắp. Cô đứng dậy nắm tay bà. Nó là một chiếc nhẫn vàng khảm hồng ngọc, quen thuộc với cô như chủ nhân của nó. Mặt cô nóng ran.

“Bà lấy chiếc nhẫn này ở đâu?”.

Frigart giật tay ra, bực dọc. “Đó không phải việc của cô”.

“Nó nằm trên thi thể một người đàn ông bị giết trong rừng”, Ani nói muốn hụt hoi, “Bà lấy nó khỏi xác ông ấy sao? Bà có chôn cất ông ấy không?”.

“Làm gì có!”, Frigrat la lên bối rối, “Đúng là vu khống! Đây là món quà trả công ta nhận được mà!”.

“Cái nhẫn gì thế, Ani?”, bà Gilsa tò mò.

“Đây là chiếc nhẫn của cháu!”, cô nhớ lại Talone vào đêm cuối trong rừng, nắm chặt tay đặt lên tim và thề trung thành. “Cháu tặng nó cho một người bạn đã bị sát hại”.

“Hừm, thế sao? Nhưng cho dù nó từng là của cô đi nữa, cô cũng không thể lấy lại nó”, Frigrat lẩm bẩm, “Ta không hiểu làm thế nào cái người xin ở nhờ nhà ta lại có nó, nhưng ta đã nuôi hắn hai tháng ròng cho đến khi hắn có thể ra khỏi giường, nhấc tay tự đút cho mình ăn. Vì thế, chiếc nhẫn này thuộc về ta một cách chính đáng. Và ta vẫn đang giúp đỡ hắn. Ta sẽ cho cô biết, ta đang cho hắn ở lại làm việc với chồng ta. Hắn bảo hắn cần tiền cho một chuyến đi xa...”. Bà ta chau mày, hai gò má nhô lên như trẻ con. “Ngoài ra thì, ta chưa từng có thứ gì xinh đẹp trong đời...”.

Gilsa phản đối nhiều đến mức bất cứ người mẹ nào cũng phải ủng hộ bà, nhưng Ani cố nài rằng mình đã khỏe, và khi Frigart về, Ani cũng đi theo. Finn hộ tống Ani. Tay anh đỡ lấy người cô. Họ đi bộ gần một tiếng đồng hồ, bước từng bước chậm rãi để vết thương không bị nứt toát ra và đủ thong thả để Frigart hay Ani không hụt hơi. Nàng công chúa nhỏ có thể cảm nhận nhịp tim mình thình thịch rộn lên đầy kích động khi họ đi vòng qua khúc quanh và thấy ngôi nhà. Một người đàn ông đang đốn củi trong sân. Mái tóc ông ta mang màu đặc trưng của người xứ Kildenree, mặc dù giờ đây nó đã nhuốm bạc hơn những gì cô nhớ và dài quá vai.

“Talone!”, cô hét lên.

Talone ngẩng lên và buông rơi chiếc rìu. Ông sững sờ một tích tắc rồi chạy tới. Trong giây phút đó, Ani thầm lo rằng có lẽ ông sẽ ôm siết lấy mình, siết cả vết thương sau lưng trước khi cô kịp nói gì. Nhưng không! Ông dừng lại trước mặt cô, nắm lấy tay cô và quỳ một chân xuống.

“Công chúa...”, ông ôm mặt khóc, lưng ông rung lên nghẹn ngào.

Frigart, với một cử chỉ kính trọng lúng túng, mời “công chúa” vào nhà, nơi bà để họ ngồi trên những chiếc ghế quanh lò sưởi. Với ánh nhìn nuối tiếc, bà rời căn phòng. Còn Finn thì ở lại, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế đẩu cạnh cửa sổ.

Ani nài nỉ Talone kể câu chuyện của ông trước. Câu chuyện ngắn ngủi và cô ngờ rằng ông đã cố bỏ qua hết những chi tiết về sự gian khổ mà ông phải trải qua. Mọi người đều bị giết hại, cả ông cũng gần chết. Tay ông chạm vào cạnh sườn. Ani nghĩ đó hẳn là một vết đâm sâu làm ông gục xuống. Talone ngất đi vì mất máu và tỉnh dậy trong tiếng đào mộ lúc nửa đêm. Ông lết đi mà không để bị chú ý, sau đó lang thang trong rừng, cuối cùng tìm thấy nhà bà Frigart, nơi mà vì hoàn cảnh bắt buộc, ông đã lưu lại đến tận bây giờ.

“Tôi biết Ungolad và đồng bọn của hắn sẽ ở Bayern, vì thế kế hoạch của tôi là trở về gặp hoàng hậu. Tôi... mất... một thời gian để lành vết thương, rồi mùa đông khắc nghiệt đã làm tôi kẹt lại. Rồi việc không có tiền hay ngựa gây cản trở...”. Ông lắc đầu, mắt ngấn lên tức giận. “Tôi đã nghĩ cả công chúa cũng bị ám sát. Tôi nghĩ cơ hội duy nhất để cứu vãn mọi chuyện là cố sống sót và tìm đường về với hoàng hậu, nếu không họ sẽ chẳng bao giờ biết sự phản bội đáng ghê sợ kia. Nếu tôi biết cô còn sống, thưa công chúa, tôi đã tìm kiếm cô, trong rừng, trong thành. Cô đã chẳng được ai bảo vệ suốt thời gian qua. Tôi đã thất bại không thể tha thứ được!”.

“Đừng nghĩ vậy, Talone! Chúng ta đã bị phản bội và chúng đông hơn ta. Tôi cũng giống như ông, chẳng thể làm gì khác ngoài bền gan vững chí tìm cơ hội. Và cả hai ta đều đã sống sót!”.

Talone mỉm cười.

“Hoàng hậu hẳn sẽ tự hào nếu Người được thấy công chúa lúc này. Mặc dù Người có thể không nhận ra công chúa với mái tóc giấu đi và cách nói chuyện lanh lợi rặt âm sắc Bayern như thế!”.

Ani lấy tay che miệng, bối rối vì giờ cô đã nói theo giọng Bayern mà không hay biết. Chuyển động cánh tay làm mảng da bên hông cô bị kéo lên đau đón. Cô vội hạ cánh tay xuống với một cái rùng mình.

Talone nhận ra điều ấy. Ông ra dấu chỉ về phía thắt lưng cô, ngầm hỏi.

“Ungload”, Ani đáp khẽ.

Ông nhăn mặt đầy thảm thiết và đau đớn, một biểu lộ mà cô đoán rằng đã dày vò ông suốt nhiều tháng nay.

“Tôi rất lấy làm tiếc...”, ông nói.

“Không sao đâu mà!”, Ani dịu dàng, “Hắn quá tham lam, quá tự tin. Nếu hắn tóm lấy tôi thay vì vung dao, có lẽ tôi khó mà sống sót!”.

Ani kể câu chuyện của mình với Talone, lần này cô cảm giác nó gần gũi và thật với cô hơn chứ không giống như đang kể chuyện thần thoại cho người khác nghe. Thật đến mức khi nhắc về cái đầu của Falada trên tường thành, cô phải dừng lại, đặt tay lên miệng để ngăn tiếng nấc. Mắt Talone không rời khỏi cô, vẻ mặt để lộ ra sự ngạc nhiên thú vị. Finn chồm tới trước, chống cằm. Khi cô quên chi tiết Conrad đuổi theo cái nón trong con gió, Finn nhắc cô và cười thầm thích thú về những lời tường thuật đó.

“Có lẽ khi Conrad được mời diện kiến đức vua để kể cho Ngài nghe câu chuyện về những kẻ trộm ngỗng, cậu ta đã nhắc gì đó về tôi hoặc đã kể cho đám lính canh. Đêm đó, chúng tìm tôi. Hắn đã tìm thấy. Ungolad. Và tôi bỏ chạy...”.

Ani nhắm mắt nhớ lại, nhưng nỗi khiếp sợ còn trở nên hãi hùng hơn trong bóng tối. Cô nhìn Talone mỉm cười. “Talone ạ, ông có biết tìm thấy ông là niềm an ủi ra sao với tôi không?”.

Talone hít sâu, chuyển ánh mắt từ phía nàng công chúa nhỏ sang ô cửa sổ. Cánh cửa đang đóng và chẳng có tia sáng nào lọt qua khe. Một con gió khẽ chạm cành cây trong rừng bằng một tiếng gõ e dè. Ông xem xét cẩn thận tiếng động và bóng đêm như một vị tướng khảo sát chiến trường vậy.

“Vậy rồi sẽ có một cuộc chiến”, ông nói, “Ungolad là một kẻ khôn ngoan!”.

“Cả Selia nữa...”, Ani đáp, “Tôi nhớ nhiều năm trước, dì tôi từng nói rằng Selia có tài năng sử dụng ngôn ngữ thuyết phục mọi người. Cô nàng dùng nó tốt đấy!”.

Talone gật đầu. Ông có vẻ không quan tâm về sự nguy hiểm từ Selia hay những khả năng ngôn ngữ, thứ duy nhất ông lo lắng lúc này là chiến sự.

“Bao lâu nữa công chúa có thể bình phục hoàn toàn để trở về thành Bayern?”, Talone hỏi.

“Bây giờ!”, Ani đáp gọn.

Talone nhìn sang Finn.

“Mẹ tôi bảo phải một tuần nữa cơ!”.

“Mẹ anh quá lo thôi...”, Ani lúng búng trong miệng, vẻ không được bằng lòng.

Họ quyết định sẽ trở về kinh thành sau bốn ngày. Và nếu lúc ấy cô không thể đi được thì...

“Tôi sẽ cõng công chúa!”, Talone nói, “Mặc dù bây giờ cô đã lớn hơn nhiều so với cô bé mà tôi tìm thấy, ngủ quên bên hồ Thiên Nga rồi!”.

Ani cùng Finn ngủ lại nhà bà Frigart đêm ấy và trở về ngày hôm sau. Ani dựa người vào cả Finn và Talone khi cô bước đi. Sau chuyến đi, cô ngủ li bì một ngày một đêm. Bà Gilsa càm ràm, quả quyết đã dặn cô đề phòng vết thương tái phát rồi.

Talone đến nhà bà Gilsa mỗi ngày. Ông kéo theo những khúc củi tìm được trong rừng về, chẻ ra từng bó nhỏ để bỏ vừa lò sưởi. Sau khi lần lượt làm hết các việc trong nhà, ông ngồi với Ani cạnh lò sưởi hoặc trên ghế trong vườn, họ bàn tính kế hoạch, hoặc nếu không thì sẽ nói đi nói lại về tất cả những gì đã xảy ra trong rừng và tất cả những gì họ biết về kẻ thù. Cả hai đều đồng ý rằng trở về Kildenree bây giờ là vô vọng. Đi con đường xuyên rừng phải mất hàng tháng.

“Có con đường ở hẻm núi...”, Talone nói, “Khi các toán quân tập họp, sẽ rất khó để thoát khỏi nơi ấy mà không bị phát hiện, nhưng có lẽ nó là lựa chọn tốt nhất của chúng ta”.

Ani lắc đầu. “Ngay cả khi chúng ta thành công, tất cả những gì ta có thể làm là cảnh báo để hoàng hậu chuẩn bị sẵn sàng quân đội. Nếu thế thì vẫn sẽ có chiến tranh xảy ra! Không, tôi nghĩ tốt hơn cả là quay trở lại trong thành. Tôi có những người bạn có thể hộ tống chúng ta và làm chứng việc có kẻ giết hại chúng ta. Với việc ông giúp tôi chứng thực bản thân, chúng ta sẽ có cơ hội thuyết phục đức vua”.

Ngày trôi qua thật chậm với Ani. Mọi thứ quanh cô đều cho thấy chúng đang hoạt động - những nụ hoa nhạt trên cây táo đang sắp hé nở, những ngọn cỏ xanh rì đang nhô lên trong vườn nhà bà Gilsa, mau chóng dựng thẳng để lộ ra thành lá cỏ sum suê, đàn chim sà xuống tìm hạt và lích rích hát. Mỗi khi Gilsa phát hiện Ani bước đi hay chồm về phía hàng rào nhìn qua những hàng cây như thể đang nghĩ về tương lai, bà lại đưa cô về lại chiếc ghế dựa hay giường và đặt cô ngồi xuống.

“Hãy nghỉ ngơi khi còn có thể. Ngay cả dù cháu là một công chúa quả cảm đi nữa thì da cháu cũng phải cần có thời gian mới lành được chứ!”.

Gilsa gần như không ấn tượng gì với việc nhận ra rằng người đang tị nạn nơi nhà bà là một công chúa thuộc dòng dõi hoàng gia. Bà nói về các tước vị với thái độ khôi hài, không bao giờ thực sự tin vào chúng. Bà đưa cho Ani một chiếc váy đơn giản và một chiếc áo nhuộm màu lá sồi. Lần đầu Ani mặc nó, cô nhận ra bốn đồng vàng mà cô đã tiết kiệm dành cho chuyến về nhà đã được lấy ra khỏi túi của chiếc váy xanh bị rách và nhét vào cái váy mới.

“Cái này dành cho bác”, Ani nói. Những đồng xu trên bàn tay cô nhẹ như lá cây bu lô.

“Ta không nhận đâu”, bà Gilsa trả lời, rồi hài hước bảo thêm, “Cháu có thể trả lại ta khi nào cháu trở thành một nữ hoàng”.

Đêm trước chuyến đi, Talone ở lại nhà bà Gilsa. Họ tranh luận xem ai sẽ ngủ ở nhà kho. Gilsa nghĩ rằng những lữ khách cần giường để nghỉ ngơi hơn bà, Ani nài nỉ rằng cả bà Gilsa và Finn nên ngủ lại giường của họ. Talone nghĩ ông và Finn ở trong nhà kho là tốt nhất, và Finn thì gật đầu đồng ý với bất cứ điều gì ông nói.

“Trở lại giường đi, cô bé!”, bà Gilsa nói, “Cháu đang ốm mà!”.

“Không, cháu có còn ốm nữa đâu!”, Ani đáp.

“Ồ, không ốm thật sao? Có lẽ cứng đầu cứng cổ cũng là một căn bệnh đấy bé ạ! Cháu có từng nghĩ thế không?”.

Cuối cùng, họ dọn một cái túi ngủ tạm ra sàn, trước lò sưởi và ngủ cạnh nhau như đám trẻ con ngủ chung giường.

Họ thức dậy sớm, ăn sáng chậm rãi, nắm chặt lấy những ly trà nóng để làm ấm tay và nhìn chăm chú vào ánh lửa ban mai. Finn chuẩn bị đi với họ, như anh cố nài. Gilsa nghĩ đến những lời dặn dò cuối cùng cho cậu con trai, nhắc anh phải nhắn tin về nhà. Ani ngắm nhìn gương mặt họ, trông như những trái cam còn tươi non dưới ánh sáng từ lò sưởi.

Ani lặng đi, nhớ đến lần đầu cô rời khỏi đây mấy tháng trước và hình ảnh cô lúc ấy. Cô mỉm cười, nghĩ về sai lầm ngớ ngẩn của mình khi tự ý nằm trên giường của bà Gilsa như thể cô vẫn còn là một công chúa trong cung điện và hài lòng khi được hầu hạ. Chuyến lang thang đến kinh thành một vương quốc xa lạ với thứ giọng giả mạo và ý niệm ngờ nghệch về việc đơn giản chỉ phải tìm đến được đức vua và kể cho ngài nghe những gì xảy ra, một kế hoạch đã dễ dàng bị hình ảnh Selia làm cho khiếp sợ. Từ đó, Ani đã chạy trốn những ba lần. Nhưng cô sẽ không lẩn trốn nữa. Mọi thứ sẽ được điều chỉnh lại cho đúng, hoặc không thì hãy để lưỡi dao của Ungolad hoàn thành mục tiêu của nó.