Tôi ngồi ở sofa nhìn Greg làm việc trên bàn. Cả hai đồ đạc ấy đều giống hệt cái trong văn phong của tôi. Đó là lý do tôi chọn chúng. Ngày trước, tôi copy tất cả từ anh ta.
Greg vẫn dán chặt mắt vào màn hình, tay gõ lia lịa. “Cậu không có việc để làm à?”
“Có chứ.” Tôi trả lời, quan sát anh ta. “Nhưng…”
Anh ta dừng tay và ngước lên. “Cậu làm gì ở đây hả, Nick? Tôi đã để cậu yên rồi. Chẳng phải cậu muốn vậy sao?”
Tôi nhớ anh. “Biết đâu hôm nay chúng ta có thể ăn trưa cùng nhau.”
“Tại sao?”
Tôi nhăn mặt. “Tôi tưởng chúng ta là bạn.”
“Tôi đã làm tổn thương cậu.”
“Đúng thế.”
“Và cậu vẫn muốn làm bạn?”
“Anh không cố ý làm tôi tổn thương, và tôi không biết chuyện chúng ta hẹn hò. Cả hai đều chẳng ra gì. Có thể coi là tổn thất song phương rồi bỏ qua tất cả không?”
Miệng anh ta nhếch lên. “Nếu cậu không ngại ăn trưa muộn. Có lẽ tôi sẽ xếp được lịch.”
Thở phào, tôi đứng dậy. “Hai giờ nhé?”
Anh ta cầm bút lên và ghi lại. “Được rồi.”
Lông mày tôi nhướn lên. “Tôi chẳng bao giờ hiểu được mấy cái ghi chú trên giấy của anh cả. Chỉ tổ phí thời gian, vì anh có quên gì đâu.”
Greg quăng cho tôi một cái liếc mắt trêu chọc. “Vừa mới làm bạn lại được năm giây mà cậu đã cười nhạo tôi rồi à?”
“K-Không, không hề. Nhưng nếu anh phải viết xuống, thì dùng lịch trên máy tính có tiện hơn không?”
“Mực mang tính cá nhân hơn.” Anh ta nói khẽ, đặt bút sang bên cạnh. “Tôi dùng cho những việc đáng nhớ.”
Tôi đứng sững lại. Bữa trưa hôm nay. Anh ta đang thể hiện cho tôi thấy rằng nó quan trọng đối với mình. “À. Cám ơn.”
Anh ta chuyển hướng chú ý về công việc trên máy tính. “Gặp cậu lúc hai giờ nhé, Nick.”
Bị xua đi, hệt như trước. Tôi nhăn mặt rồi rời khỏi đó, vừa bước qua cửa vừa vẫy tay với anh ta.
Khi về văn phòng, điều đầu tiên tôi nhận thấy là một quả táo đỏ au, bóng lưỡng đang chễm chệ trên mặt bàn. Cầm nó lên, tôi xoay qua xoay lại, tự hỏi ai để nó ở đây.
“Đoán là anh có thể lót dạ, vì sáng nay anh không kịp ăn mà.”
Tôi quay người, mắt mở to khi thấy Riley đang tựa vào tường cạnh cửa, tay khoanh trước ***g ngực rộng, cặp chân dài vắt vào nhau. “Cậu ở đó từ bao giờ?”
“Khoảng mười lăm phút.” Cậu ta nhìn tôi từ trên xuống dưới. “Từ lúc anh vào văn phòng của Morris.”
Riley theo dõi từng cử động của tôi. Lẽ ra tôi phải biết là cậu ta trông thấy.
Cậu ta nhìn chằm chằm xuống chân. “Định để nó ở đấy rồi về bàn, nhưng em cứ thấy băn khoăn—”
“Bọn tôi chỉ nói chuyện thôi.”
“Anh ta không—”
“Không. Hai bên đã hiểu rõ đối phương rồi, và hôm nay bọn tôi cùng ăn trưa để giải tỏa bớt căng thẳng.”
Cậu ta ngước lên, cười toe toét. “Nghĩa là em vẫn có hai tuần?”
Tôi ra vẻ xem đồng hồ. “Theo lịch của tôi thì cậu còn được sáu ngày.”
Bao nhiêu đều lo lắng biến mất khi cậu ta đẩy mình khỏi tường. “Anh thích quà của em không?”
“Tặng táo cho giáo viên à?” Tôi hỏi, giơ quả táo lên.
Cậu ta nhíu mày. “Thật ra em cố để anh liên tưởng tới trái cấm. Khiêu gợi. Kiểu đó cơ.”
Khiêu gợi thì cậu ta có thừa, và vì là cấp dưới nên về cơ bản mà nói, cậu ta cũng là trái cấm với tôi. Nhưng tôi giả vờ không hề cảm động và bước tới cửa sổ. “Thế thì đáng ra cậu phải gắn thêm giải thích chi tiết vào.” Tôi cắn một miếng táo. “Có thể là một mẩu giấy nhắn viết tay. Biết đâu nó sẽ… dễ nhớ hơn.”
Cánh tay dài choàng lấy tôi từ phía sau. “Anh biết điều gì khiến em buồn cười không? Là anh có thể nói như thế trong khi tai đỏ rực hết cả rồi.”
“Đừng có lôi tai tôi vào vụ này.” Tôi lẩm bẩm, thả mắt ra cửa sổ và tựa vào cậu ta. “Chúng hoàn toàn không thể coi là một phương pháp đo lường xác đáng với tình trạng cảm xúc của tôi.”
Riley bật cười. “Anh có nhận ra là mình chỉ hơn em bốn tuổi không thế? Đôi lúc anh nói chuyện như ông cụ non, ngay cả khi chẳng dính tới công việc.” Cậu ta vuốt ve má tôi, nhìn vào ánh mắt tôi phản chiếu qua cửa sổ. “Tại sao?”
Tôi định quay đi, nhưng tay cậu ta giữ chặt má tôi. “Chẳng biết nữa.” Mãi mới mở miệng, tôi cố thành thật. Sau một thời gian dài dối trá, tôi thấy phải thẳng thắn với tình cảm quả là một việc khó khăn.
Cậu ta nhe răng, cọ thân thể vào tôi. “Em làm anh thấy trẻ ra à?”
Tôi bật cười vang rồi gật đầu.
Riley dừng lại, cúi xuống nhìn tôi không chớp mắt.
“Gì thế?” Tôi hỏi, tiếng cười tan biến.
“Giờ anh cười nhiều hơn. Nghe tuyệt lắm.”
Riley chẳng gặp vấn đề gì khi muốn bài tỏ bản thân. Tôi thấy ghen tị. “Cậu đừng ôm tôi như thế này ở văn phòng. Lỡ có người bước vào.”
“Phải rồi.” Cậu ta thả tay xuống. “Chính sách mở-cửa mà đầu bò suốt ngày ca thán.”
“Đừng gọi như thế.” Tôi quay lại. “Anh ta là bạn tôi.”
Miệng cậu ta nhếch lên. “Tốt thôi. Hôm nay anh làm muộn à?”
“Ừ, nhưng mai tôi sẽ về đúng giờ, chúng ta có thể—”
“Em ở lại.”
“Riley, tối nào cậu cũng ở đây với tôi rồi. Việc của cậu toàn loại đang tiến hành, vậy nên hãy về nhà đi.”
“Em ở lại.” Cậu ta nhắc lại như đinh đóng cột. “Trông chừng anh.”
Trông chừng cái gì? Sợ bị dê à? “Tôi tự lo thân được.”
Cậu ta cúi xuống và hạ giọng. “Hầu hết đàn ông ở đây đều to lớn hơn anh.” Rồi lắc đầu. “Chẳng ai to hơn em.”
Thế đấy. Cả tuần vừa rồi, Riley dịu dàng, quan tâm tới tôi hơn mức cần thiết. Thậm chí còn bảo vệ quá đáng, lúc nào cũng muốn đảm bảo an toàn cho tôi.
Trông mình mong manh vậy sao?
“Bàn vấn đề này sau.” Tôi nói cụt lủn, tiến lại bàn làm việc của mình. Lần đầu tiên, tôi nhận ra đèn báo tin nhắn trên điện thoại đang nhấp nháy, nhưng chuyện đó cũng chẳng có gì là lạ.
“Nick.”
Tôi ngẩng lên. “Không phải bây giờ.”
Riley vẫn tỏ ra bướng bỉnh một lúc, rồi ra khỏi văn phòng.
Tôi giật cái ống nghe lên và kiểm tra tin. Cập nhật hàng ngày, yêu cầu giúp đỡ, lo sợ rằng trời sắp sập. Tất cả đều có vẻ quen quá rồi, và tôi đang tính chuyện nghỉ ngơi thì nghe thấy tin nhắn cuối cùng.
“Mr. Carlyle, tôi là Sandy Clifford, trợ lý cao cấp của Donald Grayson. Xin gọi lại cho tôi ở số máy lẻ một-một-hai ngay khi có thể.”
Donald Grayson là giám đốc tài chính. Muốn gặp tôi làm cái quái gì?
Nuốt khan, tôi bấm số máy lẻ. Sandy Clifford—bằng giọng nói bình tĩnh, rành mạch—giải thích cho tôi rằng Mr. Grayson muốn gặp tôi, và có thời gian trống lúc mười rưỡi sáng nay, nếu tôi thấy tiện.
“Mười rưỡi?” Tôi liếc đồng hồ. Mười lăm phút? “Được rồi. Tôi có thể gặp ông ấy ở đâu?”
“Tại văn phòng 1201 trên tầng mười hai. Ms. Warren cũng sẽ có mặt.”
Toàn thân tôi lạnh toát. “Giám đốc điều hành ấy à?”
“Vâng.”
“C… Có chuyện gì thế?”
“Tôi không thể trả lời, thưa ngài.”
Cô ta không thể trả lời? Quá đột ngột. Tôi biết chuẩn bị kiểu gì?! “Cám ơn cô.”
“Chúc một ngày tốt lành, Mr. Carlyle.” Cô dập máy.
Tôi thả rơi ống nghe và hít một hơi thật sâu.
Để xem. Phòng tôi của tôi làm vô cùng hiệu quả; việc của cá nhân tôi thì không có tì vết. Biết đâu họ chỉ muốn vỗ lưng khen ngợi tôi thì sao?
Tôi đi qua đi lại. Tôi thừa biết là không một ai trong đám quản lý hàng đầu ấy lại muốn gặp trực tiếp khi có tin tốt để thông báo.
Việc của mình không có tì vết. Việc của mình…
Lỡ tôi đã bỏ sót cái gì đó? Cái gì đó nhỏ nhặt chẳng hạn? Cái gì đó tại các chi nhánh mà không lường trước?
Công ty lớn như thế này thì dễ có sai phạm kiểu ấy. Nhầm dấu thập phân hay thừa một số không có thể phá banh số liệu trong quý tài chính. Hoặc lâu hơn.
Bụng tôi quặn lại.
“Bình tĩnh đi, Carlyle.” Tôi thì thầm. “Clifford không hề gợi ý rằng có vấn đề nghiêm trọng, phải không?”
Không, dĩ nhiên là không. Cô là trợ lý cao cấp mà. Ở trình độ đó, cô còn phải đối mặt với nhiều áp lực hơn cả tôi, và cô được đào tạo để giải quyết mọi thứ một cách bình tĩnh.
Tôi đứng thẳng người, chỉnh lại nút thắt cà vạt, vuốt phẳng áo vét. Trong nghề này, tôi là người làm việc tuyệt vời. Không có lý do gì để nhận tin xấu. Tin tốt cũng thế. Tất cả những gì cần làm là lên tầng trên cùng rồi—
Bụng tôi lại quặn. Cổ họng tắc nghẹn.
Tôi chạy thục mạng, mở tung cửa.
Melanie đang ôm một tập tài liệu trước ngực, trợn tròn mắt lên nhìn. “Sếp, tôi vừa mới định tới gặp—”
Nghiến răng, tôi giơ một ngón tay lên rồi rảo bước qua cô. Tôi xoay sở giữ tốc độ trang nghiêm khi tới toa-lét, nhưng ngay khi vào trong, tôi chạy thục mạng và khuỵu gối trước bệ xí gần nhất. Tôi tóm lấy thành bệ, cơ bắp toàn thân cứng đơ trong khi tôi không ngừng phun những thứ trong dạ dày ra ngoài.
Hôm nay tôi mới ăn vài miếng táo. Vậy chứ cái đống này ở đâu ra?
Một bàn tay ấm áp đặt lên trán tôi, vuốt lại tóc. Tôi giật phắt khỏi sự đụng chạm, nhưng cánh tay mạnh mẽ đã ôm vòng quanh ngực.
“Suỵt.” Riley nói. “Em đỡ được rồi.”
Tôi rùng mình trong vòng tay cậu ta, và bàn tay đặt trên tóc đã luồn xuống xoa lưng cho tôi. Cơ bắp cứng đơ bắt đầu lỏng ra. Cảm giác buồn nôn cũng hết. Tôi vừa cúi ra đằng trước thì Riley kéo tôi áp vào người cậu ta, giữ tôi khỏi đập đầu vào bệ.
“Em đưa anh táo hỏng à?” Cậu ta vừa hỏi vừa vươn tay giật nước.
Tạ ơn Chúa—tôi không nghĩ mình có thể chịu nổi mùi đó mà không thấy phát bệnh. Lắc đầu, tôi kiềm chế không cuộn mình vào cậu ta. “Có tin x-xấu.”
Cậu ta kéo tôi vào sát hơn, ôm tôi trong tay như trẻ con. “Ồ?”
Tôi không thể làm chuyện này! Không phải bây giờ. “Năm phút nữa họp.” Tôi lẩm bẩm, cố tách ra.
Riley đứng dậy, nhấc tôi lên rồi giữ cho tôi đứng. “Họp kiểu gì?”
Tôi bật vòi nước súc miệng. Đến lúc sạch sẽ hết mức có thể, tôi đứng thẳng để nhìn mình trong gương.
Tuyệt. Tôi luồn tay vào tóc rồi vuốt quần áo. Nhìn như đang đi dự đám tang. “Kiểu mà tôi dễ bị sa thải ấy.”
“Cái gì?” Cậu ta tiến tới. “Tại sao?”
Mệt mỏi, tôi tắt vòi rồi quay sang cậu ta. “Chịu. Cấp trên tự nhiên đòi gặp.”
Cậu ta nhíu mày. “Nhưng anh lại không biết lý do?”
“Sắp rồi.”
Riley cười toe. “Muốn một nụ hôn chúc may mắn không?”
Cậu ta mất trí rồi à? “Riley, tôi vừa nôn đấy.”
“Thì sao?” Cậu ta cúi đầu đặt môi lên trán tôi, rồi đẩy tôi ra cửa. “Đi đi. Anh sẽ ổn thôi.”
Cảm giác như vừa được bố đưa đến trường, tôi quay lại, á khẩu khi nhìn vào mắt Riley.
Cậu ta nhếch mép. “Gì thế?”
Việc này… sẽ không đi đến đâu. “Riley, chúng ta cần nói chuyện.
“Chuyện anh bảo trong văn phòng chứ gì? Em biết rồi.” Cậu ta thò tay vào túi, lôi ra một viên kẹo bạc hà cay và dúi vào tay tôi. “Nhưng bây giờ anh còn buổi họp, phải không?”
Chết tiệt. “Phải rồi.” Tôi lao ra cửa, dừng lại, và ngoái qua vai. “Cám ơn.” Tôi vừa nói vừa bỏ viên kẹo vào miệng.
Cậu ta nháy mắt, còn tôi thì ba chân bốn cằng chạy mất.
Theo đồng hồ của tôi thì tôi đến trước cửa văn phòng Greyson sớm hẳn một phút. Tôi dành ba mươi giây đẻ nhai nốt viên kẹo, giữ đầu óc tỉnh táo và tập nụ cười giả tạo để nó khỏi xịu đi dù nghe tin xấu hay tốt. Khi tôi nghĩ mình đã sẵn sàng, tôi liếc mắt đến cái bàn lớn cách mình không xa.
Một người phụ nữ mà tôi đoán là Sandy Clifford vẫy tôi vào, nói gì với ai đó qua điện thoại. Có thể đang báo với người bên trong là tôi đã đến.
Không thể quay đầu nữa rồi.
Tôi mở cửa.
Donald Grayson và Emily Warren đứng trước cái bàn gỗ sồi khổng lồ, cả hai đều mặc những bộ vét đắt hơn tất cả vét của tôi cộng vào. Từ giây đầu tiên, tôi đã biết là mình không cùng đẳng cấp, nhưng vẫn kiên nhẫn đứng đợi họ mở lời.
“A, Carlyle.” Warren nói, ngước lên khỏi cái điện thoại đa chức năng trong tay. Tôi lơ đãng nhận ra rằng nó trông rất giống cái mà Riley dùng. “Chúng tôi vừa nhắc đến cậu.”
Suy nghĩ về Riley đứt đoạn, tim tôi lỡ một nhịp, nhưng tôi gật đầu. “Ms. Warren.” Tôi đảo sang người đàn ông đứng cạnh. “Mr. Grayson.”
Ông ta thờ ơ gạt lời tôi. “Gọi Donald là được rồi.”
Gọi tên? Thế thì chắc không phải tin xấu, nhỉ? “Cám ơn, Donald.”
“Đã vậy thì cậu cũng nên gọi tôi là Emily.” Warren thì thầm, đặt điện thoại sang bên.
Tôi gật. Giọng bà ta nghe có vẻ hài hước, nhưng tôi thấy lúc này cần thật thận trọng. “Tôi có thể hỏi lý do mình được triệu đến đây không?”
“Chúng tôi đã nghiên cứu thành tích suốt năm năm cậu làm việc trong công ty.” Donald cất tiếng.
“Ồ?” Tôi hỏi lại, ra vẻ bình thường và có chút tò mò.
Ông ta cười. “Cậu đã làm được nhiều việc thật sự ấn tượng.”
Đầu gối tôi suýt nữa thì sụp xuống vì nhẹ nhõm, nhưng tôi vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên. “Cám ơn ngài.”
Emily gật. “Thật đấy, Nick. Cậu đã tăng gấp đôi hiệu quả hoạt động của mọi phòng mà cậu từng làm việc. Hiện tại phòng hợp tác quốc tế là nơi có năng suất cao nhất công ty đấy.”
“Thậm chí rất nhiều văn phòng ở nước ngoài cũng hoạt động trơn tru hơn.” Donald khoanh tay trước ngực. “Đó là điều đã gây sự chú ý với chúng tôi trước tiên. Chúng tôi đã thử tìm hiểu nguyên nhân tiến bộ, và mọi đầu mối đều chỉ đến cậu.”
Tôi chớp mắt. “Tôi ư, thưa ngài?”
“Tây Ban Nha, Trung Quốc, Úc. Cậu đã giúp đỡ đồng nghiệp tại những văn phòng này rất nhiều, cùng lúc hướng dẫn để họ hoạt động hiệu quả hơn với phòng của chính cậu.” Ông ta liếc sang người phụ nữ bên cạnh. “Mình có quên gì không hả, Emily?”
“Cậu ta nổi tiếng là bình tĩnh trước áp lực.” Bà ta đáp, ánh mắt chưa từng rời tôi.
Bình tĩnh trước áp lực? May mà họ không bắt gặp cảnh tôi nôn thốc nôn tháo trong toa-lét mười phút trước.
“Danh sách tài năng được lắm.” Donald bảo. “Tuy nhiên…”
Tôi đợi, rồi chợt nhận ra ông ta muốn tôi hỏi. “Tuy nhiên?”
“Cậu không có bằng thạc sĩ kinh doanh.”
Câu nói làm tôi bất ngờ, và phải mất hít thở vài hơi trước khi trả lời. “Công ty nhận tôi vào làm sau khi tôi tốt nghiệp đại học một tháng. Tôi được bảo rằng không cần thêm bằng để làm những việc được giao.”
“Đúng thế.” Emily nói. “Với công việc cậu đang có.”
Khóe miệng Donald khẽ nhếch lên. “Nhưng chính sách của công ty đòi hỏi những người ở vị trí quản lý cấp cao phải có bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh.”
Tôi quay phắt sang ông ta. “Vị trí quản lý cấp cao?”
“Vấn đề ở chỗ ấy.” Emily nhận xét. “Tài năng, kỹ năng, và nguyên tắc làm việc của cậu là những tài sản đáng quý của công ty.”
Lông mày tôi nhíu lại. Thế là tốt hay xấu?
Donald lắc đầu. “Chúng ta chẳng thể nào tiến cử khi cậu ta không có bằng. Bà nghĩ chúng ta phải làm gì hả, Emily?”
Giọng đùa cợt tôi nghĩ mình nghe thấy lúc trước chợt quay lại, dù vẻ mặt bà ta vẫn nghiêm túc hết sức. “Theo tôi thì chúng ta chẳng còn cách nào khác ngoài việc đề nghị tặng cậu ta học bổng toàn phần để lấy bằng thôi.”
Tôi nín thở thì thầm. “Học bổng?”
“Ở trường đại học tùy cậu chọn.” Donald giơ lên một tập hồ sơ. “Tôi gợi ý Harvard.”
Emily đảo mắt. “Yale tốt hơn nhiều, Nick.”
Donald vừa cười vừa xoa cằm. “Bằng thạc sĩ vũ công của Alex lấy ở đâu nhỉ?”
“Oxford.” Bà ta trả lời.
Họ ngừng nói, nhìn nhau, rồi quay sang tôi.
“Đừng học ở Oxford.” Cả hai đồng thanh.
Alex… chắc họ đang nói tới Alexander Benford, chủ tịch hội đồng quản trị của công ty. Ông ta là một người tài giỏi, nên tôi biết rằng họ đang đùa. “Khi nào…” Trời ơi, đúng là quá tốt để có thể trở thành sự thật. “Khi nào tôi phải chọn?”
“Trong năm sau là được.” Donald đưa tập hồ sơ trên tay cho tôi. “Dù chúng tôi có việc muốn nhờ cậu ngay lúc này.”
Tôi muốn xem thông tin học bổng chi tiết, nhưng đành phải kẹp hồ sơ vào dưới cánh tay. “Dĩ nhiên.”
Emily cười tán thành. “Văn phòng hợp tác ở Buenos Aires chậm chạp lắm. Chúng tôi muốn cậu bay đến đó và sắp xếp lại hệ thống của họ, có thể tổ chức một hai buổi hội thảo. Chưa đến ba tuần là cậu sẽ về nhà.”
Argentina? “Tôi…”
Donald tì ra đằng trước. “Nếu cậu đi ngay đêm nay, cậu có thể dùng máy bay của công ty.”
“Vâng.” Tôi đáp nhanh, cười đến tận mang tai. “Tôi có cuộc hẹn lúc hai giờ, nhưng ngay sau đó tôi có thể đóng hành lý và còn khối thời gian để chuẩn bị lên đường!”
Cả Donald và Emily đều ngừng lại, nhìn tôi lạ lẫm.
Ngượng quá, tôi trấn tĩnh bản thân. “Tôi xin lỗi vì đã nhiệt tình quá khích.”
“Không.” Emily nhẹ giọng. “Chỉ là, cậu thật… lôi cuốn.”
“Đúng thế.” Donald lẩm bẩm trước khi vỗ hai tay vào nhau rồi giơ một tay về phía tôi. “Chúng tôi thấy những điều rất tuyệt vời ở cậu, Nick.”
Lôi cuốn? Tự nhiên tôi thấy luống cuống vô cùng. “C-Cám ơn.” Tôi vừa lắp bắp vừa bắt tay ông ta.
Emily hướng ra cửa. “Sandy sẽ báo cho cậu giờ máy bay cất cánh. Cậu có hộ chiếu rồi chứ?”
Tôi gật.
“Thế thì ổn hết rồi.” Donald nói. “Chúc may mắn.”
Biết rằng không nên ở lại lâu hơn mức cần thiết, tôi cám ơn lần nữa rồi nhanh nhanh chóng chóng ra khỏi văn phòng.
Chỉ vài giờ nữa là tôi bay đến Argentina. Tâm trí nóng hừng hực của tôi đang quá tải vì tính toán những việc cần làm trước lúc đi. Lựa chọn trường đại học cho bằng thạc sĩ có thể đợi được.
Mọi thứ đều có thể đợi được.