Chinh Chiến

Chương 2: Thành gia trang




Đi ra cửa chính phủ tướng biên quân, Trương Thế Nhân giẫm lên tuyết đọng dày đặc đi về hướng Phường Nguyên Bảo. Bởi vì tuyết đọng quá dày, cho nên thanh âm giẫm lên kêu rất rõ ràng.

- Thế Nhân, nghe nói hôm nay ngươi đi ra ngoài giết tặc phải không?

Dì Hà giặt quần áo ở cách đó không xa cười ha hả hỏi.

Đó là một người đàn bà đã có chồng khăng khăng nói rằng mười năm trước mình là một mỹ nữ kiều nộn như hoa. Có lẽ cuộc sống là một tảng mỡ béo ngậy, mới nuôi được một đóa hoa trở thành một người vợ có eo như thùng nước, mặt đầy tàn nhan trong mười năm. Nhưng không thể nghi ngờ chính là, điều này không ngăn cản sự kiêu ngạo tới tận bây giờ của dì Hà.

- Vâng, gần đây dì Hà lại đẹp ra rồi. Con gái của lão Trần mới xuất giá vài ngày trước nhìn cũng không thuận mắt bằng dì Hà.

- Ai nha… Hiện tại tiểu tử ngươi mới phát hiện lão nương đẹp hơn người khác sao? Năm đó lúc dì hành tẩu giang hồ, người theo đuổi dì đây có thể xếp hàng từ cổng thành Gia Trang đến tận đây.

- Lời này của dì Hà đã nói tới ý nghĩ trong lòng của con rồi. Mỗi lần nhìn thấy ngài, con đều có cảm giác cảnh đẹp ý vui. Thật giống như vào mùa xuân ấm áp, ngồi trên cỏ xanh mơn mởn, thưởng thức đóa hoa tươi nở rộ vậy. Cực kỳ, cực kỳ hưởng thụ.

Khuôn mặt tròn của dì Hà rõ ràng đỏ lên, nhịn không được nhăn nhó nói:

- Vậy ngươi nói xem, dì Hà giống như hoa gì?

Trương Thế Nhân cẩn thận suy nghĩ một phen, sau đó chân thành nói:

- Hoa loa kèn.

- Tại sao?

Dì Hà khẽ giật mình, không hiểu hỏi.

Trương Thế Nhân nhìn bộ ngực lớn và khuôn mặt tròn của dì Hà, rất chân thành ca ngợi:

- Càng nở càng lớn.

- Trương Thế Nhân!

Một tiếng tức giân vang lên trong hẻm nhỏ. Sau đó người nào đó hoảng sợ chạy ra khỏi hẻm như chó nhà có tang. Tốc độ cực nhanh khiến cho người ta phải líu lưỡi. Theo sát đó, một cái chậu gỗ cực lớn từ hẻm nhỏ bay ra. “Pằng” một tiếng rơi xuống mặt đất, vỡ tan tành.

Trương Thế Nhân chỉ cảm thấy gió thổi lồng lộng bên tai, trong lòng đắc ý nghĩ tới khinh công của mình lại tiến bộ hơn không ít.

Còn chưa chạy được ba mươi bước, chợt nghe thấy thanh âm có thể chấn động cả tòa thành Gia Trang của Hà thẩm:

- Trương Thế Nhân, lão nương đã làm mối cho ngươi với khuê nữ của lão Ngô ở thành đông rồi đấy. Nếu ngày mai ngươi dám tới muộn, lão nương liền đập bể chiêu bài Phường Nguyên Bảo của ngươi!

Trương Thế Nhân lập tức dừng chân, quay đầu nhìn dì Hà, hỏi:

- Đập bể Phường Nguyên Bảo? Ngài không cần chia hoa hồng à?

Dì Hà chống eo, quát như hổ hống:

- Ngươi chỉ cần trả lời lão nương có đi hay không!

Trương Thế Nhân còn chưa trả lời, tất cả cửa sổ trên đường cái lần lượt mở ra, có thiếu nữ đứng ở cửa sổ vội vàng hô:

- Trương Thế Nhân, nếu ngươi dám đi, ta liền từ đây nhảy xuống.

- Trương Thế Nhân, nếu ngươi dám đi tìm nữ tử khác, ta liền xuất gia làm ni cô!

- Trương Thế Nhân, ngươi là kẻ phụ tình!

Một người đàn bà có chồng nổi giận nói:

- Trương Thế Nhân, nếu ngươi dám bội bạc khuê nữ nhà ta, ta liền chặt cơ thể của ngươi cho chó ăn!

Có thiếu phụ thì thảm thiết rơi lệ, hối hận vì sao mình lại gả cho người khác sớm thế.

Chỉ có quả phụ họ Tôn mới hai mươi sáu tuổi đã thủ tiết năm năm, tựa ở cửa trước, cắn hạt bí, kiều mị nói:

- Tiểu Thế Nhân, sau này nếu lấy vợ thì cũng thường xuyên tới đây nhé.

Trương Thế Nhân nào dám dừng lại, dưới chân giống như đốt pháo vậy, chạy vội ra ngoài. Lúc chạy ngang qua quả phụ họ Tôn, hắn bỗng nhiên mạnh mẽ dừng chân, sau đó nhanh chóng ngắt lên bộ ngực no đủ của quả phụ Tôn một cái:

- Lần nào cũng chỉ biết gây thêm loạn. Khiến cho ta chịu tiếng xấu thay cho người khác. Nếu ta thực sự đã ăn người thì không nói làm gì, nhưng chỉ nhìn lén ngươi tắm rửa một lần, lẽ nào ngươi còn muốn trả thù cả đời…

Véo một cái, cảm xúc thật tốt, Trương Thế Nhân nhịn không được lại véo. Thậm chí có thể chuẩn xác tìm được cái hạt nhô lên sau lớp áo bông dày đặc:

- Cái này coi như là lợi tức!

Sau khi đắc thủ, Trương Thế Nhân lại bắt đầu chạy vội, để lại quả phụ họ Tôn đỏ bừng mặt, thất kinh làm rơi đầy hạt bí ra đường.

Nghĩ tới lần này thực sự là bị tiểu gia hỏa kia đắc thủ, quả phụ Tôn không nhịn được tức giận:

- Trương Thế Nhân, có bản lĩnh thì lần sau ngươi lại sờ thử xem!

Trương Thế Nhân vừa chạy, vừa quay đầu nói:

- Ta sẽ không bị lừa lần thứ hai đâu! Rốt cuộc chỗ đó ngươi lót mấy tầng bông vậy?

Quả phụ họ Tôn lúng túng, che mặt quay vào nhà, không dám quay đầu lại.

Quay vào nhà, Tôn quả phụ cởi áo, móc ra một tấm lót bông từ trong áo ngực, tiện tay vứt xuống mặt đất, giận dữ tự nhủ:

- Nếu lão nương không lót một chút, ngươi làm sao bắt trúng?

Nhưng vừa nghĩ tới cách dày như vậy, Trương Thế Nhân rõ ràng có thể chạm vào được chỗ đó của nàng, khuôn mặt không khỏi đỏ lên.

- Khốn nạn…lão nương lại bị một tiểu tử choai choai đùa giỡn.

Nghĩ tới đây, Tôn quả phụ đứng phắt dậy, sắc mặt quyết tuyệt.

Ăn đậu hũ của ta không phải dễ dàng như vậy. Nếu lão nương có cơ hội, một hơi liền ép khô đậu hũ của ngươi. Quả phụ họ Tôn đứng ở trong phòng, thật giống như một đấu sĩ vậy, sĩ khí ngẩng cao. Mà lúc này, đám vợ bé và thiếu nữ nhìn Trương Thế Nhân chạy như điên, ánh mắt có chút mê ly. Có người nhịn không được háo sắc, nhìn tấm lưng kia nói:

- Chạy trốn mà cũng đẹp trai như vậy…

Ai nha!

Đầu phố, người nào đó trượt chân một cái, nằm sấp xuống, đẹp trai tới rối tinh rối mù.





Gia Trang là một tòa thành ở vùng biên giới, nằm ở cuối Tây Bắc của Đại Nam. Tòa thành này chỉ rộng chừng ba dặm rưỡi, cùng là tòa thành nhỏ nhất của Tây Bắc. Đi ra cửa thành hướng về phía tây chừng sáu mươi dặm, có một dãy núi không cao, nhưng trải dài dằng dặc về phía nam bắc. Dùng lời của các biên quân trong thành Gia Trang để miêu tả, thì dãy núi kia giống như vô số bộ ngực của nữ nhân.

Trên thực tế, dãy núi này được gọi là dãy núi Sơn Khê. Nghe nói ở đại thảo nguyên rộng bao nga bát ngát, tổ tiên của Hoàng Tộc đế quốc Thiên Thuận chính là loài sói. Tổ tiên của bọn họ được sinh ra ở dãy núi này.

Nhưng điều khiến cho người của đế quốc Thiên Thuận giận dữ và bất đắc dĩ, chính là đế quốc Đại Nam ở Đông Nam kia từ sau khi quật khởi, dãy núi này rốt cuộc đã không hoàn toàn thuộc về bọn họ. Đương nhiên, cũng không hoàn toàn thuộc về Đại Nam.

Một trăm hai mươi năm trước, sau khi lập quốc, Cao Tổ Hoàng Đế của Đại Nam là Dương Kiên không ngừng dẫn theo quân đội mở rộng địa bàn. Trải qua ba mươi năm, hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, chưa từng thua một trận nào.

Mãi cho đến khi quân đội của Đại Nam đi về phía tây đánh tới dãy núi Sơn Khê, đế quốc Thiên Thuận cường đại nhất của phía tây rốt cuộc không chịu được sự gây sự của quốc gia mới thành lập là Đại Nam. Thế là bốn mươi vạn thiết kỵ đi ra thảo nguyên, vượt qua dãy núi Sơn Khê tấn công quân Đại Nam. Nhưng điều khiến cho người ta không nói được gì, chính là được xưng thảo nguyên tinh kỵ, vô địch thiên hạ đấu với mười hai vạn Phủ Vệ tinh binh của Đại Nam, lại không chiếm được một chút tiện nghi nào.

Dù quân đội của Đại Nam thiếu thốn chiến mã, nhưng bộ binh tinh nhuệ bách chiến của bọn họ lại tạo thành một đội hình vững chắc giống như là dãy núi Yên Sơn ở phía nam vậy, không thể nào rung chuyển. Bốn mươi vạn kỵ binh Thiên Thuận chết trận mười một vạn. Binh lính tinh nhuệ của Đại Nam cũng tổn thất bốn vạn. Đế quốc Thiên Thuận không cam lòng chịu nhục, đã triệu tập trọng binh, do đích thân Thiên Ân, người được xưng là Thiên Nam Tướng thống suất hai mươi vạn kỵ binh trợ giúp. Đúng lúc gặp phải Hoàng Đế khai quốc của Đại Nam là Dương Kiên cũng suất quân chạy tới.

Mười vạn tinh binh Tả Vũ Vệ, Hữu Vũ Vệ, Tả Kiêu Vệ, Tả Ngự Vệ của Đại Nam bất ngờ chạm trán với hai mươi vạn kỵ binh của đế quốc Thiên Thuận. Dựa vào trường mâu, cự thuẫn tạo thành chiến trận, Dương Kiên đấu ba trận đều thắng. Bức lui Thiên Ân phải rút về dãy núi Sơn Khê. Trận chiến này bị Hoàng Tộc Thiên Thuận coi là trận chiến nhục nhã nhất.

Từ sau đó, song phương kịch chiến sáu năm. Đế quốc Thiên Thuận không thể tìm về được mặt mũi. Mà Đại Nam chỉ mới thành lập, cũng vô lực sát nhập thảo nguyên. Cuối cùng song phương ký kết hiệp nghị ở dưới núi Sơn Khê. Dùng dãy núi Sơn Khê làm giới hạn. Phía tây của dãy núi là lãnh thổ của đế quốc Thiên Thuận. Mà phía đông là lãnh thổ của Đại Nam.

Bởi vậy liền có thành biên giới Gia Trang, liền có thành Phượng Hoàng ở bên kia dãy núi Sơn Khê.

Tới hiện tại, hiệp nghị kia đã trải qua gần trăm năm. Song phương vẫn bảo trì hòa bình. Nhưng bất kể là Đại Nam hay là Thiên Thuận, các đời Hoàng Đế kế nhiệm đều muốn đánh bại đối phương để lưu danh sử sách.

Đại Nam nằm ở Trung Nguyên, coi nghề nông là chính, thiếu thốn các loại da, ngọc thạch, dê bò, nhất là chiến mã, nên không thể xâm nhập vào thảo nguyên để tác chiến. Mà đế quốc Thiên Thuận lại thiếu sắt, muối ăn, gấm vóc, trà và rượu ngon. Bộ binh của bọn họ lại quá yếu, đối mặt với rất nhiều thành trì của Trung Nguyên liền không có biện pháp nào.

Bên này của dãy núi Sơn Khê có biên quân Gia Trang, bên kia thì có lang kỵ của thành Phượng Hoàng, hai bên đều muốn chiếm được thành của đối phương, sau đó đứng ở trên thành của đối phương đái một bãi. Nhưng ba năm trước đây, vị Hoàng Đế thứ sáu của Đại Nam là Dương Định Thiên, sau khi gặp gỡ vị Thiên Vương thứ ba mươi của đế quốc Thiên Thuận là Thiên An Hảo, thành Gia Trang liền có một thân phận khác.

Thị trường.

Thương nhân của Đại Nam có thể vận chuyển hàng hóa cần thiết tới thành Gia Trang, trao đổi dê bò, da, ngọc thạch với dân chăn nuôi. Sáu ngày, ngày mùng một, ngày mùng tám, ngày mười một, mười tám, hai mươi mốt, hai mươi tám của tháng cho phép mở chợ. Để đổi được muối ăn, lá trà và gấm vóc, những mục dân kia đều tới cửa thành xếp hàng từ sớm. Dù cho tiết trời rất giá lạnh.

Trong mắt những dân chăn nuôi kia, biên quân Đại Nam trong thành Gia Trang thật khiến cho người ta chán ghét. Nhưng không ai trong bọn họ dám gây sự. Bởi vì tướng quân Nguyễn Văn Dũng của biên quân là một người cực kỳ công chính và nghiêm khắc. Nếu có dân chăn nuôi nào gây sự, nhẹ thì quất ba mươi roi, nặng thì chặt đầu thị chúng. Cho nên những mục dân kia vừa hận vừa e ngại hắn.

Không chỉ là như vậy, nếu có thương nhân của Trung Nguyên nào gian trá lừa gạt dân chăn nuôi, hoặc là có hành động ép mua ép bán bị Nguyễn Văn Dũng biết, cũng y nguyên bị phạt nặng. Quy củ vẫn đơn giản, dựa theo tình tiết, nghẹ thì quất ba mươi roi, nặng thì chặt đầu thị chúng. Cho nên mục dân kia cũng vừa kính vừa thích hắn.

Cần phải nói rõ là, những người bị phạt ba mươi roi, không có một người nào gắng gượng được năm ngày.

Cũng phải nó rõ rằng, lúc hành hình là dùng roi buộc đầy đồng tiền. Một khi quật xuống, máu thịt liền mơ hồ. Cho nên quất ba mươi roi và chém đầu khác nhau duy nhất, chính là chém đầu có thể miễn cưỡng giữ lại toàn thây.

Nhưng Tiểu Tướng biên quân Nguyễn Văn Dũng từng nói qua: “Ức hiếp người trong thảo nguyên không coi vào đâu, nhưng nếu ảnh hưởng tới quy củ của thành Gia Trang, khiến cho những người trong thảo nguyên kia không dám tới, khiến cho hàng năm mất đi hơn mười vạn lượng bạc trắng bóng, thì là một việc tuyệt đối không thể tha thứ”.

….



Mùng tám tháng hai, là ngày mở chợ. Những mục dân kia thành thật giao thuế ở cửa thành, sau đó đi tới chợ trao đổi hàng hóa mà mình muốn. Mà tới trưa, thành Gia Trang càng trở nên náo nhiệt. Mục dân có thừa tiền trong người hoặc là thương nhân kiếm được tiền sẽ tràn vào quán ăn, thanh lâu, còn có sòng bạc để tiêu xài. Cho nên mỗi khi tới phiên chợ, nữ tử của thanh lâu hận nhất chính là vào lúc đó thân thể không khỏe mà thiếu đi tiền thưởng của những vị khách hào phóng kia.

Những mục dân kia rất tôn sùng gấm vóc và lá trà của Trung Nguyên, càng tôn sùng nữ tử xinh đẹp da trắng của Trung Nguyên. Dù thảo nguyên không thiếu mỹ nữ, nhưng phần lớn có làn da đen do phơi nắng khi chăn thả, hơn nữa eo lại to như thùng nước. So với những nữ tử trang điểm của thanh lâu kia, thực giống như trời và đất vậy.

Mục dân đều là những người hào sảng, trên cơ bản sẽ không mang theo tiền dư rời khỏi thành Gia Trang. Bọn họ chỉ cần mang theo hàng hóa đi là đủ. Tiền của Đại Nam đối với bọn họ mà nói, thật không có ý nghĩa. Cho nên các cô nương của thanh lâu lại yêu thích mục dân của thảo nguyên hơn những thương nhân keo kiệt của Trung Nguyên.

Thực ra rất nhiều mục dân tới thành Gia Trang với mục đích chủ yếu không phải vì trao đổi hàng hóa, mà là vì tới ba tòa nhà giải trí của thành Gia Trang để tìm sự kích thích.

Ba tòa nhà đó, chính là Thượng Khách Lâu, Hải Dương Quán và Phường Nguyên Bảo.

Một quán ăn, một thanh lâu, một sòng bạc.