Chết Trước Hoàng Hôn

Chương 7




TỐI HÔM SAU TÔI VÀ BILL CÓ MỘT CUỘC NÓI chuyện khá đáng lo. Cả hai đang nằm trên giường anh, chiếc giường khổng lồ có đốc chạm khắc tinh xảo và tấm nệm Restonic mới tinh. Khăn trải giường cũng in hoa như giấy dán tường, và tôi băn khoăn tự hỏi phải chăng anh thích in hình hoa lên đồ dùng của mình bởi anh không thể thấy được những bông hoa thật, ít nhất cũng là không nhìn thấy... dưới ánh sáng ban ngày.

Bill đang nằm ở bên kia giường, cúi xuống nhìn tôi. Chúng tôi vừa đi xem phim về; Bill say sưa với tất cả những bộ phim dính dáng đến người ngoài hành tinh, có lẽ anh cảm thấy gần gũi với những sinh vật ngoài vũ trụ đó. Đó là một bộ phim súng ống điển hình, trong đó hầu hết mọi sinh vật ngoài hành tinh đều xấu xí, đáng kinh sợ và khoái giết chóc. Anh cáu kỉnh mãi về chuyện đó khi đưa tôi ra ngoài ăn rồi sau đó trở về nhà anh.

Tôi rất vui khi anh rủ tôi thử chiếc giường mới.

Tôi là người đầu tiên nằm lên nó cùng anh.

Anh nhìn tôi, một hành động mà tôi đã nhận ra là anh rất thích. Có lẽ anh đang nghe tiếng tim tôi đập, vì anh có thể nghe thấy những âm thanh mà tôi không thể nghe thấy, hay cũng có thể anh đang quan sát mạch tôi đập, vì anh có khả năng nhìn thấy những thứ tôi chẳng nhìn thấy được. Cuộc nói chuyện của chúng tôi đã chuyển từ bộ phim vừa xem sang cuộc bầu cử sắp tới của địa phương (Bill đang cố đăng ký bầu cử, theo dạng bỏ phiếu khuyết diện) rồi đến thời thơ ấu của cả hai. Tôi nhận ra Bill đang cố gắng hết sức để nhớ lại cảm giác là một con người bình thường.

“Em có bao giờ chơi trò ‘chúng mình xem của nhau nào’ với ông anh trai không?” anh hỏi. “Bây giờ thì như thế được cho là bình thường, nhưng anh chẳng bao giờ quên được cảnh mẹ đánh Robert một trận thừa sống thiếu chết khi tìm thấy anh ấy đang ở trong bụi cây với Sarah.”

“Không,” tôi đáp, cố giữ giọng bình thường, nhưng mặt tôi co rúm lại, và tôi có thể cảm thấy nỗi sợ hãi thắt lại trong bụng mình.

“Em không nói thật rồi.”

“Thật mà.” Tôi nhìn chằm chằm vào cằm anh, cố gắng tìm cách đổi chủ đề. Nhưng Bill không có vẻ gì là sẽ bỏ qua.

“Vậy là không phải anh trai em. Ai vậy?”

“Em không muốn nói về chuyện này.” Bàn tay tôi co lại thành nắm đấm, và tôi có thể thấy mình đang thu lại đề phòng.

Nhưng Bill ghét bị lảng tránh như thế. Anh quá quen với việc người ta nói cho anh biết tất cả những gì anh muốn biết, bởi anh vẫn thường quyến rũ để họ nói ra.

“Nói anh biết đi, Sookie.” Giọng anh trở nên ngon ngọt, mắt anh tràn đầy sự tò mò. Anh lướt ngón cái dọc bụng tôi, và tôi rùng mình.

“Em có một... Ông cậu kỳ cục,” tôi nói, cảm thấy nụ cười mím môi quen thuộc đang kéo căng đôi môi mình.

Đôi mày đen cong cong của anh nhướn lên. Anh chưa nghe rõ.

Tôi nói với vẻ hờ hững hết mức. “Đó là một người họ hàng lớn tuổi thường gạ gẫm... những đứa trẻ trong gia đình.”

Mắt anh bắt đầu quắc lên. Anh nuốt khan; tôi có thể nhìn thấy yết hầu anh chuyển động. Tôi toét miệng cười với anh. Tôi vén tóc ra khỏi mặt mình.

Tôi không thể dừng động tác đó lại được.

“Và có kẻ đã làm chuyện này với em à? Em lúc đó bao nhiêu tuổi?”

“Ôi, chuyện bắt đầu khi em còn nhỏ lắm.” Và tôi có thể cảm nhận được hơi thở của mình bắt đầu nhanh dần lên, tim cũng đập mạnh hơn, những dấu hiệu hoảng sợ quen thuộc mỗi khi tôi nhớ lại mọi chuyện. Đầu gối tôi co lên và khép chặt vào nhau. “Em nghĩ lúc đó em khoảng năm tuổi,” tôi lắp bắp, nói càng lúc càng nhanh. “Tất nhiên anh đã biết là thực ra ông ta chưa bao giờ, ờ, xâm phạm em, nhưng ông ta làm những thứ khác.” Và đôi bàn tay tôi đang dùng để che chắn đôi mắt mình trước ánh nhìn chằm chằm của Bill bắt đầu run lên bần bật. “Và điều tồi tệ nhất, Bill à, điều tồi tệ nhất,” tôi tiếp tục, chỉ đơn giản là không thể dừng lại được, “đó là mỗi lần ông ta đến thăm, em luôn biết ông ta định làm gì bởi em có thể đọc tâm trí ông ta! Ấy vậy mà em chẳng thể làm gì để ngăn cản được điều đó!” Tôi phải đưa tay để bịt miệng mình lại. Tôi đâu có định nói về chuyện này. Tôi cuộn tròn người lại để giấu mình, và giữ cơ thể hoàn toàn bất động.

Sau một lúc lâu, tôi cảm thấy bàn tay mát lạnh của Bill đặt lên vai mình. Nó nằm yên đó, vỗ về.

“Chuyện này xảy ra trước khi ba mẹ em mất à?” anh hỏi bằng giọng bình tĩnh quen thuộc. Tôi vẫn không sao nhìn anh được.

“Vâng.”

“Em có nói với mẹ không? Mẹ không làm gì sao?”

“Không. Mẹ nghĩ em suy nghĩ bậy bạ, hoặc em đã tìm thấy vài cuốn sách ở thư viện nói về những thứ mà mẹ cho là em chưa đủ tuổi để biết.” Tôi có thể nhớ lại khuôn mặt của mẹ tôi, nằm gọn trong mái tóc tối hơn màu vàng đồng của tôi một chút. Mặt mẹ méo xệch lại với vẻ ghê tởm. Mẹ xuất thân từ một gia đình bảo thủ, và bất cứ sự thể hiện cảm xúc công khai nào hay bất cứ sự đả động nào dính đến những vấn đề mẹ cho là không đứng đắn sẽ đều bị mẹ gạt bỏ thẳng thừng.

“Em lấy làm lạ là ba mẹ có vẻ hạnh phúc,” tôi nói với chàng ma cà rồng của mình. “Họ quá khác biệt.” Rồi tôi nhận ra câu nói của mình buồn cười đến thế nào. Tôi cuộn tròn người lại. “Cứ như thể chúng ta thì không vậy,” tôi nói với Bill, và cố mỉm cười.

Khuôn mặt Bill không thay đổi, nhưng tôi có thể thấy cơ bắp ở cổ anh căng cứng lại.

“Em có kể với ba không?”

“Có, ngay trước khi ông mất. Em quá xấu hổ nên hồi còn bé không dám nói với ông về chuyện đó; mà mẹ lại không tin em. Nhưng em không thể chịu đựng thêm được nữa khi biết mình sẽ phải tiếp tục gặp ông cậu Bartlett ít nhất hai tuần một lần khi ông ta đến thăm.”

“Ông ta vẫn còn sống à?”

“Ông cậu Bartlett ư? Chắc chắn rồi. Ông ta là em của bà, bà thì là mẹ của ba. Ông cậu em sống ở Shreveport. Nhưng khi Jason và em chuyển đến sống cùng bà sau khi ba mẹ mất, lần đầu tiên ông cậu Bartlett đến nhà bà, em đã trốn. Khi bà tìm thấy em và hỏi lý do, em đã nói với bà tất cả. Và bà tin em.” Tôi có thể cảm nhận lại được sự nhẹ nhõm của ngày hôm đó, giọng nói tuyệt vời của bà khi bà hứa rằng tôi sẽ không bao giờ phải gặp lại ông ta nữa, rằng ông ta sẽ mãi mãi không bao giờ đến nhà chúng tôi nữa.

Và quả thật vậy. Bà cắt đứt quan hệ với ông cậu để bảo vệ tôi. Hồi con của bà, cô Linda còn bé, ông ta cũng đã thử chuyện đó với cô, nhưng bà đã chôn sâu những ký ức đó rồi, coi nó như chuyện hiểu lầm. Bà kể cho tôi rằng từ sau lần đó, bà chẳng bao giờ để cô Linda ở một mình với ông cậu và gần như thôi hẳn chuyện mời ông ta đến nhà, mặc dù vẫn không cho phép mình tin rằng ông ta đã động chạm đến chỗ kín của cô con gái bé bỏng.

“Vậy lão ta cũng là người nhà Stackhouse à?”

“Ôi không. Thế này nhé, bà trở thành người nhà Stackhouse khi bà cưới ông em, nhưng trước đó, bà là người nhà họ Hale.” Tôi không biết có phải đánh vần cái tên đó cho Bill không. Nhưng có vẻ như cho dù là ma cà rồng thì anh vẫn đủ chất miền Nam để hiểu được các mối quan hệ huyết thống đơn giản như thế này.

Trông Bill có vẻ đang nghĩ ngợi xa xôi. Tôi đã làm anh mệt mỏi với mẩu chuyện ác nghiệt ghê tởm của mình, và chắc chắn bao nhiêu nồng nhiệt của tôi cũng nguội lạnh hết rồi.

“Em phải đi thôi,” tôi nói và trượt khỏi giường, cúi xuống thu lượm quần áo. Nhanh như chớp, anh đã ra khỏi giường và tước mớ quần áo khỏi tay tôi.

“Đừng bỏ anh đi bây giờ,” anh nói. “Em ở lại đi.”

“Em mít ướt cả tối nay rồi.” Hai giọt nước mắt nữa lăn dài trên má, và tôi mỉm cười với anh.

Anh lấy ngón tay lau chúng đi, và lưỡi anh cũng dò theo dấu những giọt lệ.

“Ở lại với anh đến lúc bình minh đi,” anh nói.

“Nhưng đến lúc đó anh phải trở về ổ trốn của mình rồi mà.”

“Cái gì của anh cơ?”

“Nơi anh nằm ban ngày ấy. Em không muốn biết nó ở đâu đâu!” Tôi giơ tay lên để nhấn mạnh điều đó. “Nhưng không phải anh cần vào đó trước khi trời sáng à?”

“Ồ,” anh nói. “Đến lúc thì anh sẽ biết thôi. Anh có thể cảm nhận được nó đang đến.”

“Vậy nghĩa là anh không thể ngủ nướng sao?”

“Không.”

“Được rồi. Vậy anh để em ngủ một chút chứ?”

“Chắc chắn rồi,” anh vừa nói vừa nghiêng mình lịch thiệp, chỉ có điều hơi gượng một chút vì anh đang chẳng mặc gì. “Chỉ một lúc thôi.” Rồi, khi tôi nằm xuống giường, tay vòng qua ôm anh, anh nói, “Rốt cuộc là vậy đấy.”

QUẢ THỰC, đến sáng, tôi chỉ còn trên giường một mình. Tôi nằm đó một lúc, nghĩ ngợi mông lung. Tôi đã nghĩ những chuyện tủn mủn thế này từ lâu lắm rồi, nhưng đây là lần đầu tiên, những lỗ hổng trong mối quan hệ của tôi với chàng ma cà rồng đã rời khỏi chỗ trú ẩn của chúng để xâm chiếm tâm trí tôi.

Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể gặp Bill dưới ánh sáng mặt trời. Tôi cũng chẳng thể nào nấu bữa sáng cho anh, hay gặp anh để ăn trưa. (Anh có thể chịu được cảnh phải nhìn tôi ăn, dù chẳng thích thú gì, và sau đó tôi sẽ luôn phải đánh răng cẩn thận, dù sao đó cũng là một thói quen tốt.) Tôi có thể sẽ chẳng bao giờ có con với Bill, một thực tế ít nhất cũng được coi là tích cực nếu xét đến chuyện ta sẽ không phải thực hành các biện pháp tránh thai, nhưng...

Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể gọi đến văn phòng Bill để nhờ anh trên đường về mua hộ chút sữa. Anh sẽ chẳng bao giờ tham gia câu lạc bộ Rotary, chẳng bao giờ phát biểu tại các buổi tư vấn nghề nghiệp ở trường phổ thông, hoặc huấn luyện bọn nhóc chơi bóng chày.

Anh sẽ chẳng bao giờ đến nhà thờ với tôi.

Và lúc này, khi đang nằm đây, tỉnh táo - lắng nghe tiếng chim ríu rít buổi sáng, tiếng xe tải bắt đầu ầm ầm đổ xuống đường trong khi mọi người dân Bon Temps thức dậy, pha cà phê, lấy báo rồi lên kế hoạch trong ngày - tôi biết rằng sinh vật tôi yêu đang nằm đâu đó dưới lòng đất, và trên thực tế sẽ chết cho đến hoàng hôn.

Điều này khiến tôi buồn đến nỗi phải nghĩ ngược lại trong lúc dọn dẹp chút ít phòng tắm và thay đồ.

Anh hết sức quan tâm đến tôi. Như vậy tuyệt thật đấy, nhưng cũng khá đáng lo, vì tôi không biết chính xác anh quan tâm nhiều đến mức độ nào.

Làm tình với anh thì thật sự tuyệt vời. Ngay cả trong mơ tôi cũng không ngờ rằng nó có thể tuyệt đến thế.

Chẳng có ai dám kiếm chuyện khi tôi còn là bạn gái của Bill. Tất cả những bàn tay muốn sàm sỡ tôi giờ sẽ phải ngoan ngoãn nằm yên. Và nếu tên sát nhân đã giết bà vì bà tình cờ đụng phải hắn trong lúc hắn đang chờ tôi thì hắn sẽ không thử lại điều đó được nữa đâu.

Và tôi có thể thoải mái với Bill, một cảm giác tuyệt vời quý báu đến mức tôi chẳng thể đánh giá được. Tâm trí tôi có thể hoạt động tùy thích, và tôi sẽ chẳng biết được bất kỳ suy nghĩ nào của anh cho đến khi anh sẵn sàng nói với tôi.

Vậy đấy.

Tôi vẫn trầm tư như vậy khi bước xuống bậc thềm nhà Bill để ra xe. Ngạc nhiên làm sao, Jason đang ở đó trong chiếc xe tải của anh.

Đây không hẳn là cảm giác vui sướng gì. Tôi lê bước đến cửa sổ xe bên phía anh ngồi.

“Vậy là đúng thế thật,” anh nói. Rồi anh đưa tôi cốc cà phê sủi bọt của quán Grabbit Quik. “Lên xe với anh đi.”

Tôi trèo lên xe, lấy làm hài lòng vì cốc cà phê nhưng nhìn chung vẫn thấy cảnh giác. Tôi ngay lập tức dựng rào chắn tâm trí lên. Nó trượt vào vị trí một cách từ từ, đau đớn, giống như đang phải vặn vẹo chui trở lại vào một cái vòng kẹp mà ban đầu quá chặt.

“Anh chẳng có tư cách gì để nói,” anh nói với tôi. “Sau cách sống của anh vài năm vừa qua thì chắc chắn là không. Theo như anh nhận thấy thì hắn là người đàn ông đầu tiên của em, phải không?”

Tôi gật đầu.

“Hắn đối xử với em tốt chứ?”

Tôi gật đầu lần nữa.

“Anh có chuyện muốn nói với em.”

“Được thôi.”

“Ông cậu Bartlett vừa bị giết tối qua.”

Tôi nhìn anh chằm chằm, hơi cà phê nóng hổi cuộn lên trong khoảng không giữa hai anh em khi tôi mở nắp cốc. “Ông ta chết rồi hả?” tôi hỏi, cố gắng hiểu mọi chuyện. Tôi đã cố gắng biết bao nhiêu để không phải nghĩ đến ông cậu mình, nhưng giờ tôi lại nhớ đến lão, và thông tin đầu tiên đến với tôi là lão đã chết.

“Phải.”

“Ồ.” Tôi đưa mắt ra ngoài khung cửa sổ nhìn về phía sắc hồng ửng lên nơi đường chân trời. Tôi thấy trong mình dâng trào cảm giác... tự do. Kẻ duy nhất ngoài tôi ra còn nhớ mọi chuyện, kẻ duy nhất đã thích thú với chuyện đó, kẻ ngoan cố khẳng định rằng chính tôi đã bắt đầu mọi chuyện và không ngừng những hoạt động bệnh hoạn mà lão ta cho là vô cùng đáng mãn nguyện đó... lão đã chết. Tôi hít thở thật sâu.

“Em cầu cho lão phải xuống địa ngục,” tôi nói. “Và em hy vọng mỗi lần lão nghĩ đến những chuyện đã làm với em, sẽ có ác quỷ chọc đinh ba vào mông hắn.”

“Chúa ơi, Sookie!”

“Hắn có bao giờ quấy nhiễu anh đâu.”

“Thẳng thắn đấy!”

“Anh ám chỉ gì đấy?”

“Chẳng có gì cả, Sookie! Nhưng theo anh biết ông ta chẳng quấy rầy ai ngoài em cả!”

“Chết tiệt. Lão cũng gạ gẫm cả cô Linda đấy.”

Gương mặt Jason trắng bệch vì sốc. Cuối cùng thì tôi cũng nói huỵch toẹt với ông anh mình. “Bà kể với em à?”

“Vâng.”

“Bà chẳng nói gì với anh cả.”

“Bà biết sẽ khó khăn cho anh khi không thể gặp lại lão nữa, mà anh thì yêu quý lão lắm. Nhưng bà không thể để anh ở một mình với lão được, bởi bà không chắc chắn hoàn toàn rằng lão chỉ thấy hứng thú với con gái.”

“Mấy năm trước anh đã gặp ông ấy.”

“Thật sao?” Đây là tin mới với tôi. Và chắc hẳn với cả bà nữa.

“Sookie à, đó chỉ là một ông già. Ông ta ốm yếu lắm. Tuyến tiền liệt có vấn đề, cơ thể suy nhược, đó là chưa kể đến việc phải dùng khung tập đi để di chuyển.”

“Như thế chắc sẽ làm lão chậm lại khi đuổi bắt các bé năm tuổi đấy.”

“Quên chuyện đấy đi!”

“Phải rồi! Cứ như thể em làm được ấy!”

Chúng tôi trao cho nhau một cái nhìn chằm chằm dài dằng dặc.

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với lão?” cuối cùng tôi miễn cưỡng hỏi.

“Một tên trộm lẻn vào nhà ông ta tối qua.”

“Vậy hả? Rồi sao nữa?”

“Và bẻ gãy cổ ông ta. Ném ông ta xuống cầu thang.”

“Thôi được rồi. Vậy là em biết rồi. Em về nhà đây. Em phải tắm rồi còn đi làm nữa.”

“Em chỉ nói thế thôi à?”

“Vậy em còn phải nói gì nữa?”

“Không muốn biết về đám tang sao?”

“Không.”

“Không muốn biết về di chúc sao?”

“Không.”

Anh đành đầu hàng. “Được rồi,” anh nói, cứ như thể vừa tranh luận rất quyết liệt với tôi và cuối cùng nhận ra tôi là đứa cứng đầu cứng cổ.

“Còn chuyện gì nữa? Sao hả?” Tôi hỏi.

“Không. Chỉ là ông cậu em vừa mới chết. Anh nghĩ thế là đủ.”

“Thật ra thì anh nói đúng đấy,” tôi nói, mở cửa xe rồi chui ra. “Thế là đủ rồi.” Tôi nâng cốc lên ra dấu với anh. “Cảm ơn về tách cà phê nhé, anh trai.”

PHẢI ĐẾN LÚC chuẩn bị đi làm tôi mới sực nghĩ ra.

Tôi đang lau khô chiếc cốc, và thực ra chẳng suy nghĩ gì về ông cậu Bartlett cả, và đột nhiên ngón tay tôi “Chúa nhân từ ơi,” tôi nói, nhìn xuống những mảnh cốc vỡ. “Bill đã giết lão ta.”

TÔI KHÔNG BIẾT tại sao mình chắc chắn đến thế; nhưng tôi đảm bảo mình đoán đúng, ngay khi ý nghĩ đó lướt qua đầu tôi. Có thể tôi đã nghe thấy tiếng Bill quay số điện thoại khi tôi đang mơ mơ màng màng. Có thể vẻ mặt của Bill khi tôi kết thúc câu chuyện về ông cậu Bartlett đã cho tôi biết mọi chuyện.

Tôi băn khoăn không biết Bill có trả tiền cho tay ma cà rồng nào khác không, hay anh sẽ trả đáp trả bằng hành động tương tự.

Tôi làm việc trong trạng thái gần như đóng băng. Tôi không thể nói về suy nghĩ của mình với bất kỳ ai, thậm chí cũng chẳng thể kêu mình bị ốm mà lại không bị hỏi đã có chuyện gì. Nên tôi chẳng nói gì cả, chỉ làm việc thôi. Tôi loại bỏ mọi thứ ra khỏi đầu trừ yêu cầu của khách. Tôi lái xe về nhà, cố gắng giữ trạng thái đóng băng như vậy, nhưng khi chỉ còn lại một mình thì tôi vẫn phải đối mặt với thực tại.

Tôi sợ chết khiếp lên được.

Tôi đã biết, thực sự là vậy, rằng Bill chắc chắn đã giết một hai người gì đó trong suốt cuộc đời dài dằng dặc của anh. Khi anh còn là một ma cà rồng trẻ tuổi, khi anh cần rất nhiều máu tươi, trước khi anh học được cách kiểm soát nhu cầu của mình để vẫn có thể tồn tại được khi thì bằng một bụm máu nhỏ, lúc nhờ cả ngụm to mà vẫn không giết chết kẻ bị anh uống máu... Chính anh đã kể cho tôi nghe rằng suốt đời anh, anh đã một vài lần giết người. Và anh cũng đã giết nhà Rattray. Nhưng chắc chắn chúng cũng đã giết được tôi ở bãi đỗ xe của Merlotte nếu Bill không can thiệp. Lẽ tự nhiên, tôi sẵn sàng biện hộ cho anh về những cái chết này. Còn việc giết hại ông cậu Bartlett thì có gì khác chứ? Lão ta cũng đã làm hại tôi, làm tôi sống dở chết dở, biến tuổi thơ vốn đã rất khó khăn của tôi thành cơn ác mộng thực sự. Lẽ nào tôi lại không thấy nhẹ nhõm, thậm chí là biết ơn, khi nghe tin lão ta đã chết? Nỗi kinh sợ của tôi đối với hành động can thiệp của Bill chẳng phải cũng sặc mùi đạo đức giả đấy sao?

Có chứ. Hay không?

Mệt mỏi và cực kỳ hoang mang, tôi ngồi xuống bậc thềm chờ đợi trong bóng tối, tay ôm lấy đầu gối. Lũ dế đang ra rả giữa đám cỏ thân cao thì anh đến, nhanh và khẽ khàng đến mức tôi không nghe thấy. Mới phút trước tôi còn một mình cùng bóng tối, phút sau anh đã ngồi trên bậc thềm cạnh tôi rồi.

“Tối nay em muốn làm gì, Sookie?” Tay anh vươn ra ôm tôi vào lòng. “Ôi, Bill.” Giọng tôi nặng trĩu thất vọng.

Cánh tay anh buông thõng xuống. Tôi không ngước lên nhìn anh, dù sao thì tôi cũng chẳng thể nhìn thấy gì trong bóng tối.

“Anh đáng ra không nên làm thế.” ít ra anh cũng chẳng thèm chối bỏ.

“Em mừng là lão ta đã chết, Bill à. Nhưng em không thể...”

“Em có nghĩ lúc nào đó anh sẽ làm em tổn thương không, Sookie?” Giọng anh nhỏ và lạo xạo, như tiếng chân giẫm lên cỏ khô vậy.

“Không. Kỳ lạ thật, em không nghĩ anh sẽ làm em tổn thương, kể cả khi anh có giận em đến thế nào chăng nữa.”

“Vậy thì...?”

“Cứ như thể em đang hẹn hò với Bố Già vậy, Bill à. Giờ đây em chẳng dám nói bất cứ điều gì trước mặt anh. Em không quen với việc những vấn đề của mình được giải quyết theo cách đó.”

“Anh yêu em.”

Anh chưa bao giờ nói câu đó, và tôi suýt nữa đã cho rằng mình chỉ tưởng tượng ra thôi, giọng anh vang lên khe khẽ như tiếng thì thầm.

“Thật sao, Bill?” Tôi vẫn không ngước lên, cứ thế tì trán vào đầu gối. “Thật chứ.”

“Vậy thì anh phải để cuộc sống của em diễn ra bình thường, Bill à, anh không thể biến đổi nó vì em được.”

“Em đã muốn anh biến đổi nó khi nhà Rattray đang đánh em.”

“Đúng thế. Nhưng em không thể để anh cố gắng điều chỉnh cuộc sống thường nhật của em. Có những lúc em cáu điên với mọi người, và mọi người cũng vậy. Em không thể cứ lo ngay ngáy là họ biết đâu sẽ bị giết. Em không sống như vậy được, cưng à. Anh hiểu em nói gì chứ?”

“Cưng ư?” anh lặp lại.

“Em yêu anh,” tôi nói. “Em không biết tại sao, nhưng đúng như vậy đấy. Em muốn gọi anh bằng tất cả những cái tên sến nhất mà người ta hay gọi lúc yêu nhau, cho dù nó có vẻ ngu ngốc vì anh là ma cà rồng. Em muốn cho anh biết anh là anh yêu của em, rằng em sẽ mãi yêu anh cho đến lúc chúng ta đầu bạc răng long - dù chuyện đó sẽ chẳng đời nào xảy ra cả. Rằng em biết anh sẽ luôn thành thật với em - cả chuyện đó cũng chẳng bao giờ là sự thật phải không? Em luôn cảm thấy rất khó khăn khi nói em yêu anh, Bill ạ.” Tôi chìm vào im lặng. Tôi đã ủy mị quá rồi.

“Cuộc khủng hoảng này đến sớm hơn anh tưởng,” giọng Bill vang lên từ trong bóng tối. Lũ dế lại tiếp tục dàn đồng ca, và tôi ngồi lặng nghe tiếng dế kêu một lúc lâu.

“Anh này.”

“Chuyện gì nữa, Sookie?”

“Em cần chút thời gian.”

“Trước khi...?

“Trước khi em quyết định xem có đáng chấp nhận đau khổ vì tình yêu không.”

“Sookie, nếu em biết mình khác biệt thế nào và anh muốn bảo vệ em ra sao...”

Tôi có thể nhận ra từ giọng nói của Bill rằng anh đang chia sẻ với tôi những cảm xúc rất khó nói. “Kỳ lạ thay,” tôi nói, “đó cũng là những gì em cảm thấy về anh. Nhưng em phải sống ở đây, và em phải sống một mình, nên em phải nghĩ đến một vài quy ước cần được làm rõ giữa chúng ta.”

“Vậy bây giờ ta làm gì?”

“Em phải nghĩ. Anh cứ làm bất cứ điều gì anh vẫn làm trước khi ta gặp nhau.”

“Cố gắng hình dung xem liệu mình có thể hòa nhập được không. Cố gắng nghĩ xem mình sẽ hút máu ai, nếu mình có thể thôi uống cái thứ máu nhân tạo chết dịch ấy.”

“Em biết là ngoài em ra, anh sẽ... hút máu người khác.” Tôi cố hết sức để giữ giọng bình thường. “Nhưng anh làm ơn đừng động vào bất kỳ ai sống ở đây, bất kỳ ai em phải gặp. Em không thể chịu nổi điều đó đâu. Em không có quyền yêu cầu anh, nhưng em mong anh sẽ làm thế.”

“Nếu em không hẹn hò với ai khác, không ngủ với ai khác.”

“Được thôi.” Có vẻ như hứa hẹn chuyện này thì quá dễ.

“Em có phiền không nếu anh ghé lại quán bar?”

“Không. Em sẽ không nói với bất kỳ ai là chúng ta đã tạm chia tay. Em sẽ không nói về chuyện đó.”

Anh cúi xuống, tôi có thể nhận ra sức nặng trên cánh tay mình khi cơ thể anh áp lại.

“Hôn anh đi,” anh nói.

Tôi ngẩng đầu lên, và môi chúng tôi chạm vào nhau. Đó là một ngọn lửa xanh, không phải ngọn lửa đỏ hừng hực, không phải kiểu sức nóng đó: ngọn lửa xanh. Sau một giây, tay anh ôm lấy tôi. Một giây sau nữa, tay tôi cũng vòng qua người anh. Người tôi mềm rũ. Tôi hổn hển đẩy anh ra.

“Ôi, chúng ta không thể, Bill.”

Tôi nghe hơi thở anh phả mạnh. “Tất nhiên là không rồi, nếu chúng ta đang chia tay,” anh nói nhẹ nhàng, tuy nhiên có vẻ như anh không cho rằng tôi thật sự có ý đó. “Chúng ta chắc chắn không nên hôn nhau. Mặc dù anh vẫn muốn đè em ra hiên mà làm tình cho đến lúc em mệt lử.” Chân tôi run bần bật. Thứ ngôn ngữ thô lỗ cố ý của anh, cùng với giọng điệu vừa lạnh lùng vừa ngọt ngào đó, đã làm cho sự thèm muốn trong tôi dâng tràn mạnh mẽ hơn. Tôi phải vận đến tất cả những gì mình có, vận đến toàn bộ khả năng tự chủ của mình thì mới có thể đứng thẳng dậy mà bước vào nhà.

Nhưng tôi đã làm được.

TUẦN TIẾP THEO, tôi bắt đầu cuộc sống không có bà và Bill. Tôi làm ca tối, chăm chỉ hết mức. Lần đầu tiên trong đời, tôi cẩn thận hơn nhiều với tình trạng an ninh và hệ thống khóa. Có một kẻ giết người đang lang thang ngoài kia, mà tôi lại chẳng còn người bảo vệ đầy quyền năng của mình nữa. Tôi cũng cân nhắc đến việc nuôi chó, nhưng không thể tìm ra loại phù hợp. Nàng mèo Tina chính là người bảo vệ duy nhất của tôi, nếu xét đến việc nàng ta luôn luôn phản ứng mỗi khi có người đến sát ngôi nhà.

Tôi nhận được rất nhiều cuộc gọi từ luật sư của bà thông báo về tiến trình xử lý các bất động sản mà bà để lại. Tôi cũng nhận được cả những cuộc gọi từ luật sư của Bartlett, ông cậu đã để lại cho tôi hai mươi ngàn đô la, một khoản kếch xù đối với ông ta. Suýt chút nữa tôi đã từ chối khoản thừa kế. Nhưng rồi tôi nghĩ lại. Tôi ủng hộ toàn bộ số tiền cho trung tâm sức khỏe tinh thần dành để điều trị cho các em bé vốn là nạn nhân của hành vi cưỡng hiếp và quấy rối tình dục.

Họ rất mừng khi nhận được số tiền. Tôi uống hàng đống vitamin vì bị thiếu máu nhẹ. Tôi còn uống rất nhiều chất lưu và ăn nhiều đạm.

Tôi cũng ăn rất nhiều tỏi, một chuyện vượt quá sức chịu đựng của Bill. Có tối, lúc tôi vừa ăn bánh mì tỏi cùng với mì Ý và nước sốt thịt xong, anh nhận xét mùi tỏi thậm chí toát ra từ từng lỗ chân lông của tôi.

Tôi ngủ, ngủ và ngủ. Thức đêm sau giờ làm việc chỉ tổ khiến tôi kiệt sức. Sau ba ngày, tôi cảm thấy phục hồi hoàn toàn về mặt thể chất. Thực ra, tôi còn cảm thấy khỏe hơn trước kia nữa.

Tôi bắt đầu để mắt đến mọi chuyện xung quanh.

Điều đầu tiên tôi nhận thấy là người dân trong vùng cực kỳ khó chịu với lũ ma cà rồng đến từ Monroe. Diane, Liam và Malcolm đã lượn khắp các quán bar, rõ ràng đang tìm cách chặn đường hòa nhập của những ma cà rồng muốn sống bình thường với con người. Chúng hành xử hết sức thái quá, chướng tai gai mắt. Ba bọn chúng đã làm cho cuộc sống phóng túng của các sinh viên trường Kỹ thuật Louisiana có vẻ nhạt phèo.

Có vẻ như chúng chưa từng tưởng tượng đến chuyện mình đang tự rước họa vào thân. Sự tự do khi được ở ngoài quan tài đã chiếm hết tâm trí chúng. Quyền được tồn tại một cách hợp pháp đã lấy đi của chúng tất cả sự e dè, cẩn trọng và đề phòng. Malcolm gây gổ với một tay pha chế rượu ở Bogaloosas. Diane nhảy khỏa thân ở Farmerville. Còn Liam hẹn hò với một cô bé vị thành niên ở Shongaloo, và cả mẹ cô bé đó nữa. Hắn hút máu cả hai người. Hắn còn chẳng thèm xóa bỏ ký ức của cả hai mẹ con họ.

Tối thứ Năm, ở Merlotte, Rene đang nói chuyện với Mike Spencer, một tay kinh doanh đám ma, thì ngừng bặt khi thấy tôi đến gần. Lẽ tất nhiên, hành động ấy đã thu hút sự tò mò của tôi. Nên tôi đã đọc tâm trí của Mike. Một nhóm dân địa phương đang tính chuyện thiêu rụi quan tài của bọn ma cà rồng ở Monroe.

Tôi chẳng biết nên làm gì. Ba bọn chúng, nếu không hẳn là bạn của Bill thì ít nhất cũng thuộc kiểu đồng đạo. Nhưng tôi cũng ghê tởm Malcolm, Diane và Liam chẳng khác gì mọi người. Tuy vậy; Chúa ơi - mọi chuyện luôn có phần “tuy vậy”, phải không? - tôi vốn không quen thấy chết ngay trước mắt mà chỉ khoanh tay không làm gì cả.

Có thể đó chỉ do rượu vào lời ra thôi. Để kiểm tra lại, tôi thâm nhập vào tâm trí của tất cả mọi người xung quanh. Tôi kinh hoàng nhận ra hầu hết mọi người đều đang nghĩ đến việc châm lửa đốt cháy nơi ẩn náu của các ma cà rồng. Nhưng tôi không dò ra ai khởi xướng vụ này.

Cứ như thể đó là một thứ độc dược lan truyền từ tâm trí người này sang tâm trí người khác.

Không có bằng chứng nào, rốt cuộc chẳng có bất cứ bằng chứng nào, cho thấy Maudette, Dawn và bà của tôi bị ma cà rồng giết cả. Thực ra, nghe đồn báo cáo của nhân viên điều tra đã chứng minh điều ngược lại. Nhưng cách hành xử của ba tên ma cà rồng khiến mọi người muốn kiếm lý do nào đó để đổ lỗi cho chúng, muốn được thoát khỏi chúng, và vì Maudette cũng như Dawn đều đã từng bị ma cà rồng cắn, thêm vào đó lại là khách quen của những quán bar ma cà rồng, nên vậy đấy, dân địa phương chỉ việc gom những chi tiết đó lại mà đưa ra lời kết tội.

Bill ghé qua quán vào đêm thứ bảy tôi ở một mình. Anh xuất hiện một cách khá đột ngột. Anh không đi một mình. Đi cùng anh là một cậu nhóc, tầm mười lăm tuổi. Cậu ta cũng là ma cà rồng.

“Sookie, đây là Harlen Ives đến từ Minneapolis,” Bill nói, cứ như thể đây chỉ là màn giới thiệu thông thường.

“Harlen,” tôi gật đầu. “Rất vui được gặp cậu.”

“Sookie.” Thằng nhóc cũng gật đầu với tôi.

“Harlen ghé qua trên đường từ Minnesota đi New Orleans,” Bill tiếp lời, nghe đúng như đang chuyện gẫu.

“Em đang đi nghỉ,” Harlen nói. “Em muốn đến New Orleans chơi từ mấy năm nay rồi. Với bọn em thì nó đúng là một chuyến hành hương về thánh địa, chị biết đấy.”

“Ồ... phải,” tôi nói, cố cho giọng nghe thật hiển nhiên.

“Chị có thể gọi số này nếu muốn,” Harlen chào mời tôi. “Chị có thể ở cùng dân thường, hoặc thuê một...”

“Quan tài?” tôi tiếp lời.

“Ồ, phải.”

“Cậu mới tử tế làm sao,” tôi nói, cố hết sức nở nụ cười. “Hai người dùng gì nào? Em tin là Sam đã trữ thêm máu đóng chai đấy, anh muốn một chai không, Bill? Loại A âm tính nhé, hay lọai O dương tính?”

“Ồ, loại A âm tính đi,” Bill đáp, sau cuộc trao đổi không lời với Harlen. “Có ngay đây!” Tôi lao đến chỗ tủ đông lạnh sau quầy bar và lấy hai chai A âm tính, bật nắp, rồi dọn ra một chiếc khay. Tôi luôn giữ nụ cười, y như thường lệ.

“Em ổn chứ, Sookie?” Bill hỏi bằng giọng tự nhiên hơn khi tôi dọn đồ uống ra.

“Tất nhiên rồi, Bill,” tôi vui vẻ đáp. Tôi chỉ muốn đập chai máu vào đầu Bill. Harlen, vậy đấy. Ở lại qua đêm. Được đấy.

“Harlen chút nữa muốn đến thăm Malcolm,” Bill nói, khi tôi đến lấy hai chai rỗng đi và hỏi họ có cần thêm gì nữa không.

“Em chắc rằng Malcolm sẽ vui lắm khi gặp Harlen,” tôi đáp, cố không để lộ vẻ ác ý đang chất chứa trong lòng.

“Ôi, gặp được anh Bill đã quá tuyệt rồi,” Harlen nói, mỉm cười với tôi, để lộ hai chiếc răng nanh. Harlen biết cách làm trò mà, được thôi. “Nhưng Malcolm thì quả là một huyền thoại.”

“Cẩn thận đấy,” tôi nói với Bill. Tôi muốn cho anh biết ba ma cà rồng kia đã tự đẩy mình vào chỗ nguy hiểm đến thế nào, nhưng tôi cảm thấy vẫn chưa đến lúc nguy kịch. Tôi cũng không muốn giải thích rõ ràng vì Harlen vẫn đang ngồi ở đấy, nháy nháy cặp mắt xanh biếc trẻ thơ và trông không khác gì một biểu tượng tình dục tuổi teen. “Giờ thì chẳng ai thích thú gì ba bọn họ cả,” tôi thêm vào, sau một lúc. Lời cảnh báo đó chẳng có tác dụng gì hết.

Bill chỉ nhìn tôi vẻ khó hiểu, và tôi quay gót bước đi.

Ngay giây phút đó tôi đã cảm thấy hối tiếc, hối tiếc một cách sâu sắc. SAU KHI BILL VÀ HARLEN đi khỏi, quán bar thậm chí còn ồn ào hơn nhiều với những cuộc trò chuyện giống như tôi đã nghe từ Rene và Mike Spencer. Tôi có cảm giác kẻ nào đó đã châm lửa và không ngừng tiếp thêm nhiệt cho sự giận dữ sẵn có. Nhưng có chết tôi cũng chẳng biết được đó là ai, mặc cho đã cố đọc cả tâm trí lẫn biểu hiện của một số người. Jason ghé qua quán, nhưng chúng tôi chỉ chào nhau rồi thôi. Anh ấy vẫn chưa tha thứ cho tôi vì thái độ trước cái chết của ông cậu Bartlett.

Rồi anh ấy sẽ hiểu thôi. Ít nhất thì anh ấy cũng không nghĩ đến chuyện đốt thứ gì, trừ việc có thể khơi chút nhiệt trên giường của cô nàng Liz Barrett. Liz, còn trẻ hơn cả tôi, có mái tóc ngắn quăn màu nâu cùng đôi mắt to tròn màu hạt dẻ, và ở cô ta có một vẻ nghiêm túc không ngờ khiến tôi cảm thấy Jason có thể đã gặp được một nửa của đời mình. Tôi chào tạm biệt cả hai khi họ đã uống hết bia, và nhận ra không khí trong quán đã sục sôi hơn trước, mọi người thật sự nghiêm túc dự tính sẽ làm một điều gì đó.

Tôi bắt đầu thấy lo lắng hơn nhiều. Khi màn đêm ùa về, bầu không khí càng lúc càng trở nên điên cuồng. Phụ nữ giảm, đàn ông tăng. Nhiều người nhảy lên bàn hơn. Mọi người uống nhiều hơn. Đàn ông đứng chứ không ngồi. Thật khó xác minh được rõ ràng điều gì, vì thật ra có phải hội họp to tát gì đâu. Mọi người thì thầm với nhau, truyền miệng cho nhau nghe. Không ai đứng phắt lên bàn mà hét, “Mọi người nói cái quái gì thế? Chúng ta chiến một trận với lũ quái vật đó chứ? Đi thôi nào!” hay những thứ đại loại như thế. Mọi thứ cứ như vậy thôi, và sau một lúc, mọi người bắt đầu tản đi, tụm thành những nhóm nhỏ ngoài bãi đỗ xe. Tôi nhìn họ qua khung cửa sổ, khẽ lắc đầu. Chuyện này sẽ chẳng tốt đẹp gì đâu.

Sam cũng bứt rứt không yên.

“Anh nghĩ sao?” tôi hỏi anh, và nhận ra đấy là lần đầu tiên trong tối nay tôi bắt chuyện với anh, nếu không tính đến “Đưa em vại bia,” hay “Cho em thêm một ly margarita.”

“Anh nghĩ mọi người tụ tập đông đúc rồi,” anh đáp. “Nhưng họ sẽ không đến Monroe ngay bây giờ. Cánh ma cà rồng sẽ hoạt động cho đến khi trời sáng.”

“Nhà chúng ở đâu, Sam?”

“Anh nghĩ là đâu đó ở phía Tây ngoại ô vùng Monroe - nói cách khác là gần chúng ta nhất,” anh nói với tôi. “Anh không chắc lắm.”

Tôi lái xe về sau khi đóng cửa, phần nào hy vọng Bill đang quanh quẩn trên lối vào nhà tôi để tôi có thể kể cho anh mọi chuyện.

Nhưng tôi không thấy anh, và cũng không đến tận nhà anh. Sau khi chần chừ một lúc lâu, tôi quay số gọi anh, nhưng chỉ kết nối được với máy trả lời tự động. Tôi để lại tin nhắn. Tôi không biết số điện thoại của đám ma cà rồng kia, mà chắc gì chúng đã có điện thoại cơ chứ.

Trong lúc tháo giày và gỡ bỏ đồ trang sức - bằng bạc hết đấy, đỡ đi Bill! - tôi nhớ lại cảm giác lo lắng của mình, nhưng nỗi lo đó vẫn chưa đủ lớn. Tôi lên giường và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ trong căn phòng giờ đã thuộc về tôi. Ánh trăng chảy qua những tấm rèm đang mở, tạo nên những bóng đen kỳ quái trên sàn. Nhưng tôi chỉ nhìn chúng vài phút. Đêm đó Bill không đánh thức tôi dậy, không đáp lại cú điện thoại của tôi. NHƯNG ĐIỆN THOẠI VẪN REO, vào buổi sớm, khi trời đã sáng.

“Có chuyện gì thế?” tôi hỏi bằng giọng ngái ngủ khi áp ống nghe lên tai. Tôi liếc nhìn đồng hồ. Mới bảy rưỡi.

“Họ đốt nhà của bọn ma cà rồng rồi,” Jason nói. “Anh hy vọng chàng của em không ở trong đó.”

“Cái gì?” tôi hỏi lại, giọng giờ đã trở nên hoảng hốt.

“Họ đốt nhà của tụi ma cà rồng ở ngoại ô Monroe rồi. Ngay sau khi trời sáng. Ở phố Callista ấy, phía Tây Archer.”

Tôi nhớ Bill đã nói có thể anh sẽ đưa Harlen đến đó. Anh có ở lại không? “Không phải.” Tôi quả quyết.

“Có đấy.”

“Em phải đi thôi,” tôi nói, rồi dập máy.

ĐÁM CHÁY VẪN CÒN ÂM Ỉ TRONG NẮNG SỚM. Những cuộn khói bốc cao trên nền trời xanh thẳm. Những khúc gỗ cháy đen trông như da cá sấu. Xe cứu hỏa và xe của lực lượng thi hành luật pháp đỗ lộn xộn trên bãi cỏ trước căn nhà hai tầng. Một nhóm người tò mò đứng sau dải ngăn cách.

Tàn dư của bốn cỗ quan tài nằm cạnh nhau trên nền cỏ cháy sém. Và cả một cái túi đựng thi thể nữa. Tôi đi về phía chúng, nhưng dường như đi lâu lắm rồi mà chúng vẫn chẳng gần hơn; giống như trong một giấc mơ, bạn chẳng thể nào với được đến những gì mình muốn.

Ai đó chộp lấy tay tôi, cố cản tôi lại. Tôi không biết mình đã nói gì, nhưng vẫn nhớ đã nhìn thấy một khuôn mặt toát lên vẻ kinh hoàng. Tôi lê bước qua đống gạch vụn, ngửi thấy mùi cháy sém, mùi tro tàn sũng nước, một thứ mùi mà cả đời này tôi sẽ chẳng tài nào quên được.

Tôi đến cỗ quan tài đầu tiên và nhìn vào. Những gì còn sót lại của nắp quan tài phơi bày ra dưới ánh sáng. Mặt trời đã lên cao, và ánh nắng rọi vào hình thù kinh khiếp đang nằm trên tấm lụa trắng ướt nhoét.

Liệu đó có phải là Bill không? Chẳng cách nào biết được. Đúng lúc tôi nhìn vào, xác chết đang rã thành từng mảnh. Những mảnh vụn li ti cuộn lên và cuốn theo cơn gió, hoặc tan thành một cuộn khói nhỏ tí xíu khi ánh sáng mặt trời bắt đầu chạm vào thi thể.

Mỗi quan tài đều chứa đựng một cảnh tượng kinh khiếp tương tự.

Sam đang đứng cạnh tôi.

“Đây có phải là giết người không Sam?”

Anh lắc đầu. “Anh không biết, Sookie. Theo luật pháp, giết ma cà rồng cũng tính là giết người. Nhưng trước hết em phải chứng minh được đây là vụ cố ý phóng hỏa đã, mặc dù anh nghĩ tìm bằng cớ cũng chẳng khó khăn đâu.” Hai chúng tôi đều có thể ngửi thấy mùi xăng. Đám đàn ông ồn ã xung quanh căn nhà, trèo hết chỗ này đến chỗ kia, hét váng lên gọi nhau. Đối với tôi họ chẳng có vẻ gì là đang điều tra hiện trường một vụ án nghiêm trọng cả.

“Nhưng ở đây có cái xác này, Sookie.” Sam chỉ xuống túi đựng xác nằm trên cỏ. “Đó là xác người thật, và họ sẽ phải điều tra. Anh không nghĩ đám quá khích đó nhận ra trong này có người, và chắc họ cũng chẳng thèm cân nhắc trước sau gì hết”

“Vậy sao anh lại ở đây, Sam?”

“Vì em,” anh đáp đơn giản.

“Cả ngày hôm nay, em sẽ không xác định được liệu đó có phải là Bill không, Sam à.”

“Phải, anh biết.”

“Vậy cả ngày hôm nay em sẽ phải làm gì đây? Sao em chờ được chứ?”

“Có lẽ em nên uống thuốc,” anh gợi ý. “Thuốc ngủ hay gì đó chẳng hạn?”

“Em chẳng có thứ gì như thế cả,” tôi đáp. “Em có mất ngủ bao giờ đâu.” Cuộc nói chuyện càng lúc càng trở nên kỳ quặc, nhưng tôi không nghĩ mình có thể nói gì khác.

Một người đàn ông to lớn đứng trước mặt tôi, nhân viên hành pháp địa phương, ông ta đang mồ hôi nhễ nhại dưới cái nóng của buổi sớm mai, và trông có vẻ như đã ở đây nhiều giờ liền. Có lẽ ông ta trực ca đêm và phải ở lại khi vụ hỏa hoạn bắt đầu.

Khi những người đàn ông tôi quen biết bắt đầu châm lửa.

“Cô có biết những người này không, thưa cô?”

“Có, tôi từng gặp họ rồi.”

“Cô có nhận dạng được không?”

“Làm sao nhận dạng được chứ?” tôi hoài nghi hỏi lại.

Các thi thể gần như chẳng còn gì, không đặc tính, đang trong giai đoạn phân hủy.

Ông ta có vẻ muốn nôn đến nơi. “Đúng vậy, thưa cô. Nhưng còn người này.”

“Để tôi xem,” tôi nói trước khi kịp nghĩ ngợi gì. Thói quen giúp đỡ người khác thật khó bỏ.

Như thể tin rằng tôi sắp đổi ý, ông ta quỳ xuống nền cỏ cháy sém và mở túi ra. Gương mặt ám đầy bồ hóng bên trong là của một cô gái tôi không quen biết, ơn Chúa.

“Tôi không biết cô ấy,” tôi nói, cảm thấy đầu gối mình bủn rủn. Sam đỡ tôi trước khi tôi ngã vật xuống đất, và tôi phải dựa vào anh.

“Tội nghiệp cô ta,” tôi thì thầm. “Em chẳng biết nên làm gì nữa, Sam.” Cánh nhân viên thi hành luật pháp chiếm mất của tôi cả ngày hôm đó. Họ muốn biết tất cả những gì tôi biết về những ma cà rồng sở hữu ngôi nhà, và tôi đã kể cho họ nghe, nhưng cũng chẳng nhiều nhặn gì cho cam. Malcolm, Diane và Liam. Chúng từ đâu đến, tuổi của chúng, tại sao chúng lại ở Monroe, luật sư của chúng là ai; làm sao tôi biết những thứ quái quỷ đó được chứ? Tôi thậm chí còn chưa bao giờ đến nhà chúng.

Khi người thẩm vấn tôi, hắn ta có là ai đi nữa thì cũng thế thôi, phát hiện ra tôi quen chúng thông qua Bill, hắn muốn biết Bill đang ở đâu và làm thế nào để liên lạc với anh.

“Anh ấy có thể ở đó,” tôi nói, chỉ cái quan tài thứ tư. “Phải đến tối tôi mới biết được.” Tôi ngay lập tức giơ tay lên che miệng.

Đúng lúc đó, một tay lính cứu hỏa cười phá lên, và mấy tay đồng nghiệp cũng vậy. “Ma cà rồng miền Nam rán đây!” tay thi hành luật pháp thấp hơn huýt lên với gã đang thẩm vấn tôi. “Chúng ta tóm được mấy ma cà rồng miền Nam rán này!”

Hắn không còn cho rằng đây là trò đùa thú vị nữa khi tôi lao vào đá.

Sam kéo tôi lại, còn người thẩm vấn tôi thì tóm lấy tay lính cứu hỏa vừa bị tôi tấn công. Tôi hét lên như nữ thần báo tử và có lẽ đã lao tiếp vào hắn nếu Sam bỏ tay ra.

Nhưng anh không làm thế. Anh lôi tôi về phía xe tôi, tay anh cứng như sắt vậy. Đột nhiên, tôi thoáng nghĩ bà sẽ xấu hổ đến thế nào khi chứng kiến tôi hét vào mặt những viên chức nhà nước, hay thấy tôi tấn công ai đó. Ý nghĩ đó làm xẹp hết cảm giác thù địch điên cuồng của tôi, như cây kim châm vào quả bóng bay vậy. Tôi để Sam đẩy mình vào ghế phụ, rồi khi anh khởi động xe và bắt đầu lùi lại, tôi để mặc anh đưa mình về nhà, trong lúc tôi ngồi câm lặng.

Chúng tôi về đến nhà rất sớm. Mới mười giờ sáng. Vì ngày hè dài hơn nên tôi sẽ phải đợi ít nhất mười tiếng nữa.

Sam gọi vài cú điện thoại trong khi tôi ngồi ở ghế, nhìn chằm chằm về phía trước. Khi anh trở lại phòng khách thì năm phút đã trôi qua.

“Đi nào, Sookie,” anh nói sôi nổi.

“Mấy tấm mành này bẩn quá.”

“Sao cơ?”

“Tấm mành. Sao em để chúng thế này được?”

“Sao cơ?”

“Chúng ta sẽ dọn dẹp. Mang xô, thuốc tẩy và giẻ lau ra đây. Pha thêm chút cà phê nữa.”

Di chuyển một cách chậm chạp và cẩn thận, sợ rằng mình có thể ngay phút chốc cháy khô và bị thổi bay đi như những cái xác nằm trong quan tài, tôi làm theo lời anh.

Sam đã dỡ hết rèm trong phòng khách xuống khi tôi quay lại với xô và giẻ lau.

“Máy giặt ở đâu?”

“Ở kia, sau nhà bếp ấy,” tôi chỉ.

Sam đi về phía phòng giặt với hay cánh tay đầy nhóc những rèm là rèm. Bà đã không giặt chúng cả tháng trời rồi, lần cuối là từ khi Bill đến thăm.

Tôi chẳng nói một lời nào cả.

Tôi hạ một tấm mành xuống, gập vào, và bắt đầu giặt giũ. Khi mành đã sạch, chúng tôi lau cửa kính. Giữa buổi sáng, trời bắt đầu mưa. Chúng tôi không ra ngoài được. Sam lấy chiếc chổi cán dài ra và bắt đầu quơ mạng nhện ở góc trần nhà, còn tôi thì kỳ cọ đám gỗ ghép chân tường. Anh tháo chiếc gương phía trên bệ lò sưởi xuống và quét bụi ở những nơi bình thường bà và tôi không với tới được, rồi chúng tôi lau sạch tấm gương và treo lại chỗ cũ. Tôi lau dọn lò sưởi hoa cương cho đến khi nó sạch bong, không còn chút vết tích nào của ngọn lửa mùa đông năm ngoái nữa. Tôi kiếm được một tấm màn che khá đẹp in hình những bông hoa mộc lan rạng rỡ và đặt lên trên lò sưởi. Tôi lau màn hình ti vi, rồi nhờ Sam nhấc nó lên để có thể lau cả phía dưới nữa. Tôi bỏ hết các đĩa phim vào trong vỏ, dán nhãn lên những đĩa phim tôi tự thu. Tôi bỏ hết gối trên ghế ra và lấy máy hút bụi hút hết mọi thứ tạp nham đọng ở phía dưới, tìm thấy một đô năm xu tiền lẻ. Tôi hút bụi thảm, và lấy giẻ lau sàn gỗ cho đến khi bóng loáng.

Chúng tôi vào phòng bếp, lau tất cả những gì có thể lau được. Khi mặt bàn mặt ghế gỗ đã sáng bóng, Sam hỏi đã bao lâu tôi không lau đống đồ bằng bạc của bà.

Tôi chưa từng đánh bóng đồ bạc của bà. Chúng tôi mở tủ đựng bát đĩa và nhận ra, đúng vậy, chắc chắn cần phải lau chúng rồi. Vậy là chúng tôi mang chúng vào bếp, tìm lọ dầu đánh bóng và bắt tay vào việc. Đài đang bật, nhưng tôi dần nhận ra Sam luôn tắt nó đi mỗi khi đến mục điểm tin.

Chúng tôi lau dọn cả ngày hôm đó. Mưa rả rích cả ngày. Sam chỉ mở miệng khi cần giao nhiệm vụ mới cho tôi.

Tôi lao động cật lực. Anh cũng vậy. Khi ánh đèn bắt đầu mờ tỏ, tôi đã có căn hộ sạch sẽ nhất xứ đạo Renard. Sam nói, “Anh về đây, Sookie. Anh nghĩ em muốn ở một mình.”

Tôi cảm nhận được đôi môi anh đặt lên trán tôi, và một phút sau, tôi nghe tiếng đóng cửa. Tôi ngồi ở bàn trong khi bóng tối bắt đầu đong đầy căn bếp. Đến khi gần như chẳng nhìn thấy gì được nữa, tôi bước ra ngoài. Tôi mang theo chiếc đèn pin cỡ lớn. Tôi mặc kệ mưa. Tôi vẫn đang mặc chiếc váy không tay và đi sandal, những thứ tôi đã xỏ vào người sau khi Jason gọi sáng nay.

Tôi đứng giữa cơn mưa rào ấm áp, tóc bết vào da đầu và bộ váy loét nhoét bám vào da thịt. Tôi rẽ trái về phía cánh rừng và bắt đầu lần đường xuyên qua rừng, lúc đầu thì thật chậm rãi và cẩn thận. Khi sự trấn tĩnh Sam khơi dậy đã dần trôi đi mất, tôi bắt đầu chạy, má bị các cành cây cào cho xước xát, chân bị đám dây leo gai góc đâm vào. Tôi ra khỏi rừng và bắt đầu lao xuyên qua nghĩa trang, ánh đèn pin chấp chới phía trước. Tôi đã định đến thẳng căn nhà bên kia cánh rừng, nhà của gia đình Compton; nhưng rồi, tôi nhận ra chắc hẳn Bill phải ở đây, đâu đó trong sáu mẫu đất đầy xương và đá này. Tôi đứng giữa khu vực cổ nhất nghĩa trang, được bao quanh bởi các ngôi mộ và những tấm bia giản dị, đồng hành cùng những người đã chết.

Tôi hét, “Bill Compton! Ra đây ngay đi!”

Tôi xoay tròn, đưa mắt khắp bóng tối sâu thăm thẳm xung quanh, biết rõ ngay cả khi tôi không thấy anh được thì Bill vẫn có thể nhìn thấy tôi, miễn là anh vẫn còn có thể nhìn được - miễn là anh không nằm trong số những cái xác cháy đen nằm ở sân trước căn nhà ngoại ô Monroe.

Không có âm thanh nào. Không một chuyển động nào ngoài màn mưa giăng giăng.

“Bill! Bill! Ra đi!”

Tôi không nghe mà là cảm thấy có gì đó chuyển động bên phải mình. Tôi xoay ánh đèn pin về hướng đó. Mặt đất đang nứt dần. Trước mắt tôi, một cánh tay trắng toát trồi lên giữa nền đát đỏ. Đất bắt đầu đội lên và vỡ ra.

Một bóng hình leo lên trên mặt đất. “Bill à?”

Bóng người đó tiến về phía tôi.

Người ngợm vằn lên những vệt đỏ, tóc bê bết đất, Bill ngập ngừng đi về chỗ tôi đang đứng.

Tôi thậm chí chẳng thể bước về phía anh.

“Sookie,” anh nói, ngay sát bên tôi, “sao em lại ở đây?” Lần đầu tiên từ khi quen nhau, giọng anh có vẻ bất định và mất phương hướng.

Tôi phải nói với anh, nhưng chẳng tài nào mở miệng được.

“Cưng à?”

Tôi sụp xuống như một thân cây bị đốn gốc. Đầu gối tôi đập mạnh xuống nền cỏ ẩm ướt.

“Chuyện gì đã xảy ra trong khi anh ngủ vậy?” Anh quỳ xuống cạnh tôi, trần trụi và ròng ròng nước mưa.

“Anh không mặc quần áo,” tôi lẩm nhẩm.

“Chúng sẽ bẩn mất,” anh giải thích. “Khi chui xuống lòng đất ngủ, anh cởi chúng ra.”

“Ồ. Chắc chắn rồi.”

“Kể cho anh đi nào.”

“Anh đừng ghét em nhé.”

“Em đã làm gì?”

“Ôi Chúa ơi, không phải em! Nhưng đáng ra em phải cảnh báo anh rõ ràng hơn, đáng ra em nên bắt anh nghe em. Em đã cố gọi cho anh, Bill!”

“Đã có chuyện gì vậy?”

Tôi đặt tay lên má anh, chạm vào da anh, nhận ra mình suýt chút nữa đã mất mát nhiều đến thế nào, và rồi có thể sẽ còn phải chịu những mất mát lớn biết bao nhiêu nữa.

“Họ chết rồi, Bill, những ma cà rồng ở Monroe. Và cả người ở cùng họ nữa.”

“Harlen,” anh nói trống rỗng. “Tối qua Harlen đã ở lại qua đêm, cậu ta và Diane rất thân nhau.” Anh đợi tôi nói nốt câu, đôi mắt nhìn xoáy vào mắt tôi.

“Họ đã bị thiêu.”

“Có chủ ý.”

“Vâng.”

Anh ngồi xổm xuống cạnh tôi trong bóng tối, dưới cơn mưa, và tôi không nhìn rõ được mặt anh. Tôi vẫn nắm chặt chiếc đèn pin trong tay, mọi sức lực dường như đã cạn kiệt. Tôi có thể cảm nhận được sự giận dữ của anh.

Tôi có thể cảm nhận được sự tàn độc của anh.

Tôi có thể cảm nhận được sự đói khát của anh.

Anh chưa bao giờ đậm chất ma cà rồng đến thế. Chẳng còn chút nhân tính nào trong anh nữa.

Anh ngửa mặt lên trời và cất tiếng tru.

Tôi nghĩ có thể anh sẽ giết ai đó, sự căm thù cuộn chảy trong anh quá lớn. Và người gần nhất là tôi.

Khi tôi nhận thức được thấu đáo những hiểm nguy mà mình phải đối mặt, thì Bill đã túm chặt cánh tay tôi. Anh kéo tôi về phía anh, thật chậm. Chẳng có lý do gì để phản kháng, tôi hiểu rõ làm vậy chỉ càng khiến Bill bị kích động. Bill giữ tôi cách anh tầm vài phân, và tôi gần như có thể ngửi thấy mùi da thịt anh, có thể cảm nhận được sự xáo trộn trong anh, có thể nếm cả mùi vị của sự giận dữ kia nữa.

Tôi có thể thoát được nếu nguồn năng lượng ấy hướng vào một thứ khác. Tôi vươn người qua khoảng cách ngắn ngủi giữa cả hai và đặt môi lên ngực anh. Tôi liếm những giọt mưa ở đó, dụi má vào núm vú của anh rồi áp nụ hoa mình vào đó. Ngay sau đó, răng anh cào lên vai tôi, và cơ thể anh, chắc nịch, cứng đờ và sẵn sàng, xô vào tôi một cách mạnh mẽ đến mức tôi ngã sấp xuống mặt bùn. Anh trượt thẳng vào tôi cứ như thể muốn xuyên qua tôi để chạm vào nền đất. Tôi kêu ré lên, và anh gầm gừ đáp lại, cứ như thể chúng tôi đích thực là hai người bùn, những người thượng cổ sống trong hang động. Bàn tay tôi, đang nắm chặt những thớ thịt nơi lưng anh, cảm nhận từng giọt mưa đang rơi xuống, những giọt máu ứa ra dưới đầu ngón tay, và cả sự chuyển động không ngừng của anh. Tôi tưởng như mình sẽ bị ấn vào trong bùn, chui xuống nấm mồ của mình. Răng anh đâm sâu vào cổ tôi.

Đột ngột, tôi đạt đến độ cực khoái.

Bill tru lên khi đạt tới đỉnh, rồi anh đổ xuống người tôi, răng nanh anh rút ra, và lưỡi anh liếm sạch vết răng.

Tôi đã tưởng anh có thể vô ý giết tôi mất.

Các cơ bắp không chịu tuân lệnh tôi, kể cả khi tôi biết chắc mình muốn làm gì. Bill vực tôi dậy. Anh đưa tôi đến nhà anh, đẩy cửa ra và bế tôi tiến thẳng vào phòng tắm rộng lớn. Nhẹ nhàng đặt tôi xuống tấm thảm đã bị tôi làm dây cả bùn, cả nước mưa lẫn một vệt máu nhỏ, Bill vặn nước ấm chảy vào bồn, và khi nước đã đầy, anh bế tôi vào trong, rồi cả anh cũng bước vào. Chúng tôi ngồi đó, duỗi chân trong làn nước ấm chẳng mấy chốc đã bị đổi màu.

Mắt Bill nhìn xa xăm.

“Chết hết à?” anh hỏi, giọng gần như không nghe thấy được.

“Chết hết, thêm cả một cô gái nữa,” tôi khẽ đáp.

“Cả ngày hôm nay em đã làm gì?”

“Dọn dẹp. Sam bắt em dọn nhà.”

“Sam,” Bill trầm ngâm. “Nói cho anh biết, Sookie. Em có đọc được tâm trí Sam không?”

“Không,” tôi thú nhận, đột nhiên thấy kiệt sức. Tôi gục đầu xuống nước, và khi tôi ngẩng lên, Bill đã lấy chai dầu gội đầu. Anh thoa dầu lên tóc tôi rồi xả nước, và lấy lược chải như trong lần đầu tiên chúng tôi ân ái với nhau. “Bill, em rất tiếc về chuyện bạn anh,” tôi nói, mệt mỏi đến nỗi gần như chẳng thốt nổi nên lời. “Và em rất mừng là anh còn sống.” Tôi vòng tay quanh cổ anh và ngả đầu lên vai anh. Nó cứng như đá vậy. Tôi nhớ Bill đã lau tóc cho tôi bằng chiếc khăn tắm to màu trắng, nhớ cảm giác mềm mại của những chiếc gối, nhớ rằng anh đã chuồi vào giường và ôm lấy tôi.

Rồi tôi thiếp đi.

Tảng sáng, tôi mơ màng tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng ai đó đi lại quanh phòng. Chắc hẳn tôi vừa mơ, và đó là một cơn ác mộng, bởi khi tôi thức dậy, tim tôi vẫn đang đập thình thịch. “Bill à?” tôi hỏi, sự sợ hãi lồ lộ trong giọng nói.

“Chuyện gì thế em?” anh hỏi, và tôi cảm thấy chiếc giường lún xuống khi anh ngồi lên mép.

“Anh vẫn ổn đấy chứ?”

“Ừ, anh chỉ đi dạo một lúc thôi.”

“Không có ai ngoài đó chứ?”

“Không, cưng à.” Tôi có thể nghe thấy tiếng vải trượt trên da thịt, và rồi anh đã nằm trong chăn cùng tôi. “Ôi, Bill, anh rất có thể đã nằm ở một trong những chiếc quan tài đó,” tôi thốt lên, sự kinh hoàng vẫn còn hiển hiện trong tâm trí.

“Em đã bao giờ nghĩ đến việc mình rất có thể chính là kẻ nằm trong chiếc túi đựng xác đó không, Sookie? Nếu họ đến đây và đốt ngôi nhà này vào lúc rạng sáng thì sao?”

“Anh phải đến nhà em! Họ sẽ không đốt nhà em đâu. Anh có thể được an toàn bên em,” tôi nói một cách nghiêm túc.

“Sookie, nghe này, vì anh mà có thể em sẽ chết đấy.”

“Em còn gì để mất nữa chứ?” tôi hỏi, nghe rõ sự đam mê trong giọng mình. “Những lúc bên anh là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất trong cuộc đời em!”

“Nếu anh chết, hãy đến bên Sam.”

“Anh định từ bỏ em rồi đấy à?”

“Không đời nào,” anh đáp, và giọng nói nhẹ nhàng của anh trở nên lạnh băng. “Không đời nào.” Tôi cảm thấy đôi tay anh xiết chặt vai mình, anh đang chống tay nằm cạnh tôi. Anh nhích gần hơn một chút, và tôi có thể cảm nhận được chiều dài hấp dẫn của cơ thể anh.

“Nghe này, Bill,” tôi nói. “Em không học hành đàng hoàng, nhưng em cũng không ngu ngốc. Em không phải loại có kinh nghiệm đầy mình hay gì cả, nhưng em cũng không nghĩ mình là kẻ ngây thơ.” Tôi hy vọng anh đừng cười tôi trong bóng tối. “Em có thể làm họ chấp nhận anh. Em có thể.”

“Nếu bất kỳ ai có thể làm được điều đó thì chắc chắn em cũng thế,” anh nói. “Anh muốn vào trong em lần nữa.”

“Ý anh là..? ôi, vâng. Em hiểu ý anh.” Anh nắm tay tôi, dẫn nó xuống bên dưới. “Em cũng muốn thế.” Chắc chắn là tôi muốn chuyện đó rồi, miễn là tôi vẫn còn trụ được sau cuộc mây mưa dữ dội ở nghĩa địa. Bill đã quá tức giận đến mức giờ tôi thấy rã rời toàn thân. Nhưng tôi cũng có thể nhận thấy một dòng chảy ấm áp đang chạy khắp toàn thân, một cảm giác phấn khích không ngừng do Bill khơi dậy. “Cưng à,” tôi vừa nói vừa ve vuốt khắp người anh, “Cưng ơi.” Tôi hôn anh, cảm nhận được lưỡi anh trong miệng mình. Tôi chạm lưỡi vào răng nanh anh. “Anh đừng cắn em khi làm chuyện đó được không?” tôi thì thầm.

“Được. Chỉ là anh cảm thấy thật hoàn hảo khi được nếm vị máu của em.”

“Không có chuyện đó thì vẫn ổn phải không?”

“Không bao giờ tuyệt được như thế, nhưng anh không muốn làm em yếu đi.”

“Nếu anh không phiền,” tôi ngập ngừng tiếp lời. “Phải mất vài ngày em mới phục hồi được.”

“Anh đã quá ích kỷ... chỉ vì em quá tuyệt.”

“Nếu em khỏe mạnh, thì sẽ còn tuyệt vời hơn nữa,” tôi gợi ý.

“Cho anh xem em khỏe đến đâu nào,” anh trêu tôi.

“Nằm ngửa ra đi. Em không biết phải làm sao cho đúng, nhưng em biết người ta vẫn làm vậy mà.” Tôi nằm đè lên người anh, nghe rõ hơi thở anh gấp gáp hơn. Tôi mừng là căn phòng vẫn còn tối, và mưa vẫn rơi ngoài hiên. Một ánh chớp nháng lên cho tôi thấy đôi mắt anh, đang sáng lên lấp lánh. Tôi cẩn thận dò ướm, hy vọng mình chọn đúng tư thế, rồi hướng dẫn anh vào trong tôi. Tôi rất tin tưởng vào bản năng của mình, và nó quả đã không phụ tôi.