*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ nằm ở cao nguyên Hoàng Thổ Tây Bắc, cao hơn hai ngàn mét so với mực nước biển. Thế núi hùng vĩ như tuấn mã đang phi, cổ ngữ Mông Cổ xưng là Tuấn Mã Vi Hạ Lan. Ngọn núi cao nhất ở đây tên Hạ Lan, cao hơn tám ngàn mét so với mực nước biển.
Dư Ngư ngước nhìn núi Hạ Lan hùng vĩ, không khỏi cảm khái nói: “Lục Du từng viết: “Cưỡi chiến xa, đạp dãy Hạ Lan vỡ nát!”
Xa Xà diện vô biểu tình: “Lăn đi, là Tân Khí Tật viết!”
Lý Yêu Yêu cười nhạo: “Thôi đi, đấy là “Mãn Giang Hồng” do Nhạc Phi viết.”
Nam Cung Cẩu Thặng còn chưa kịp vui, đã nghe thấy Lý Yêu Yêu nói tiếp: “Tác phẩm nổi tiếng như vậy mà mấy người không biết! Tướng quân Nhạc Phi sau khi dẹp loạn liền viết bài thơ này.. Ai uu, sao sư phụ lại đánh con!”
Nam Cung Cẩu Thặng mặt không đổi sắc vỗ vỗ tay: “Đi, lên núi.”
Muốn lên núi Hạ Lan, có thể ngồi xe ngay từ chân núi, xe buýt theo sơn đạo gồ ghề, đến giữa núi thì thả người xuống, quãng đường còn lại phải tự mình trải nghiệm.
Trên núi Hạ Lan có rất nhiều rừng rậm nguyên thủy, trước khi lên núi có một cậu dân cảnh bước lên xe buýt, những vật dụng gây cháy nổ như thuốc lá, diêm, bật lửa, phải tạm thời giao cho cảnh vệ, sau khi xuống núi mới có thể lấy lại.
Cậu dân cảnh thu bật lửa vô cùng anh tuấn, bởi công tác ở vùng núi nên làn da ngăm đen rám nắng, môi khô nứt, nhưng ánh mắt vẫn đen láy lấp lánh như cũ.
Lúc đưa bật lửa cho cậu dân cảnh, Nam Cung Cẩu Thặng nhân cơ hội véo véo bàn tay nhỏ bé của cậu, cười híp mắt hỏi: “Em giai, năm nay bao tuổi rồi?”
Cậu dân cảnh nghiêm túc trả lời: “Mười tám.”
Nam Cung Cẩu Thặng mỉm cười: “Mười tám, bé trai mười tám phơi phới như hoa.”
Cậu dân cảnh mặt không đổi sắc run lên, lập tức nhảy xuống xe chạy mất dạng.
Xe bắt đầu nổ máy, Dư Ngư tấm tắc cảm khái: “Tư tưởng bất chính, ra là lão nhị lão tam đều bị cái người không đứng đắn này làm hư.”
Lý Yêu Yêu cười nhạo: “Thôi đi, thế tốc độ đổi chị dâu của anh không phải từ sư phụ mà ra à?”
Trong bốn thầy trò, sư phụ Cẩu Thặng nam nữ không chê, lại thêm cái tật mới không nề cũ, gặp một yêu một, thả thính khắp thế giới; đại đồ đệ Dư Ngư chỉ hạ thủ với những bé gái yếu ớt non mềm, mặc dù thay bạn gái như thay áo nhưng vẫn khăng khăng giữ mình vì hai sư đệ, sau này Lý Yêu Yêu có Tô Di, anh mới đá lão tam ra khỏi biên chế; nhị đồ đệ tác phong đoan chính, bởi vì không có kinh nghiệm thực chiến nên tính hướng của anh vẫn là ẩn số; còn tam đồ đệ Lý Yêu Yêu là thuần 1, có dăm ba kinh nghiệm, lần nào cũng kiên trì một năm rưỡi.
Bởi địa thế núi Hạ Lan nên đường núi gập ghềnh hiểm trở, sườn núi lớn lại nối sườn núi nhỏ, đường rộng nhất cũng chỉ chừng ba bốn thước.
Đồng chí tài xế hiển nhiên xuất thân từ làng F1, vừa đạp chân ga gia tốc một cái, xe bay vọt hết sườn núi này lại tới sườn núi kia, hành khách ngồi trong xe còn chưa kịp cảm nhận trạng thái không trọng đã lại bị lực hấp dẫn kéo xuống.
Xe lái đến trạm, đồng chí tài xế mở cửa ra, lớn giọng quát: “Cứ mười lăm phút là xe lại xuống núi một lần, vẫn là xe này, chuyến cuối cùng là bảy giờ tối.”
Chân mấy chục hành khách trong xe còn chưa hết run, Lý Yêu Yêu lau mồ hôi: “Lâu lắm rồi không chơi thuyền hải tạc, kích thích ghê, ha ha ha.”
Nam Cung Cẩu Thặng ngẩng đầu nhìn trời, nói, ai nha, trời hôm nay đẹp ghê, ta phơi nắng phơi nắng rồi lát nữa đi xuống núi.
Bốn người leo núi một giờ, Nam Cung Cẩu Thặng dẫn đồ đệ đi ra khỏi đường cái, xuyên qua rừng rậm đi tới một mật đạo.
Mật đạo không được sang sửa qua gồ ghề trắc trở, Lý Yêu Yêu mệt mỏi thở hổn hển, lấy địa đồ ra xem: “Sư… sư phụ, sư phụ muốn dẫn bọn con đi đâu đây, tới đây hả?”
Nam Cung Cẩu Thặng cười ha hả: “Đúng vầy, đúng vầy!”
Lý Yêu Yêu nhíu mày, cẩn thận quan sát bản đồ: “Mịa, bảo sao cái bản đồ này dị hợm thế! Sư phụ không vẽ núi ra à?!”
Nam Cung Cẩu Thặng khinh thường nói: “Nếu vẽ núi Hạ Lan ra thì sao mấy đứa chịu theo sư phụ tới đây?” Đúng vậy, tộc Đảng Hạ táng tục theo người Hán vùng Trung Nguyên, sẽ không xây mộ trên núi.
Dư Ngư mất kiên nhẫn hỏi: “Sư phụ, rốt cuộc sư phụ muốn dẫn bọn con đi đâu? Thế rốt cuộc có mộ hay không?”
Nam Cung Cẩu Thặng tiếp tục pha trò: “Đương nhiên rồi, đảm bảo có thi cốt Tây Hạ.”
Bốn thầy trò lại leo hơn một giờ, đảo mắt đã tới trưa, cuối cùng đường phía trước cũng trống trải, họ đi tới một sơn cốc. Đường tắt qua sơn cốc vắng vẻ chật hẹp, bề ngang khoảng sáu bảy mét, ngoài ra còn có một suối nước chừng hơn một thước uốn khúc qua. Nam Cung Cẩu Thặng dừng bước, dẫn ba đồ nhi ngồi xuống bên suối uống nước. Nam Cung rửa mặt bằng nước suối mát lạnh, nhìn quanh bốn phía một chút, đảm bảo không có người ngoài mới chỉ vào khối đá lớn nói: “Đẩy ra.”
Ba đồ đệ tuy giật mình nhưng vẫn nghe theo.
Tảng đá bị đẩy ra, lộ ra một cái động tối đen, mọi người giật nẩy mình!
Lý Yêu Yêu lẩm bẩm nói: “Đây.. đây là gì vậy? Tạc núi làm lăng là tục của người Liêu, đây thật sự là di tích Tây Hạ sao?” (Nhà Liêu: công nguyên 907-1125, ở phía Bắc Trung Quốc, tên cũ là Khiết Đan, năm 938 đổi tên là Liêu)
Nam Cung Cẩu Thặng cười cười đầy thần bí, cúi người xông pha chui vào động.
Ba đồ đệ lần lượt đi vào động, Lý Yêu Yêu che mũi kêu lên: “Thối quá! Sư phụ, cái gì mà thối vậy?!”
Dư Ngư hít hà vài cái, hưởng thụ nói: “Thối gì, đây là mùi hải sản mà!”
Xa Xà diện vô biểu tình rọi đèn pin vào một góc động: “Xác thối.”
“A!!!” Lý Yêu Yêu sợ hãi nhào lên lưng Dư Ngư, Dư Ngư lại vồ lên lưng Xa Xà, ba người dán chặt lại một chỗ.
Lý Yêu Yêu bịt mũi, vừa chỉ vừa rống: “Sư phụ! Cái quái quỷ gì đây?!!”
Nơi đèn pin chiếu tới có xác một người đàn ông to lớn nhưng đã bắt đầu thối rữa. Trên mặt đất có một dịch thể đậm màu, có lẽ là thi du và máu trộn lẫn lại với nhau. Đèn pin trong tay Xa Xà run lên, chiếu tới gương mặt của cái xác, chỉ thấy bộ mặt sưng lên, nhãn cầu như lòi ra, môi sưng to như lạp xưởng.
Nam Cung Cẩu Thặng bịt mũi đứng cách đó không xa nghiêm túc quan sát thi thể: “Thi thể đã trương rữa, chắc chết từ năm, sáu ngày trước.”
Lý Yêu Yêu hé miệng run rẩy hỏi: “Sư phụ biết người kia sao?”
Nam Cung Cẩu Thặng cười khổ: “Mặt rữa thành ra như vậy, đến ta cũng không nhận ra được. Có phải cọp phải hổ đâu. Đám bọn họ rất dữ tợn, xuất thân thổ phỉ, trong tay đều có súng. Tháng trước ta tới Ninh Hạ, ma xui quỷ khiến nên mới hợp tác cùng bọn họ. Ta chỉ hiếu kì, muốn xem một chút xem rốt cuộc có bí ẩn gì, nếu không ta cũng không muốn đứng đây, ngoài anh ta ra chắc phải có ít nhất vài thi thể nữa.”
Sắc mặt ba người cứng lại: xem ra mấy tên đạo mộ này vì xích mích khi chia của nên mới xảy ra án mạng.
Lý Yêu Yêu thiếu chút nữa hít thở không thông, há miệng hít sâu một hơi, nhưng buồn nôn quá mức, tức giận mắng: “Đây rốt cuộc là nơi quái quỷ gì vậy!!”
Nam Cung Cẩu Thặng cầm đèn pin chiếu lên nham bích trên động: “Mấy đứa nhìn xem!”
“Bích họa!” (bích họa: hình vẽ trên tường)
Dư Ngư đi đầu bỏ tay bịt mũi ra, nhào đến bên vách đá mà cẩn thận kiểm tra.
Trên vách đá có rất nhiều hình vẽ đơn giản, có hình con bò dị dạng, con dê, còn có vài hình thù trông giống như mặt người. Những hình vẽ trên đá này không phải dùng thuốc màu mà được tạo thành từ những công cụ trạm khắc đơn giản, xem thủ bút, có lẽ do người xưa khắc lên.
Nam Cung Cẩu Thặng nói: “Những cái này.. có lẽ đã có một vạn năm..”
Tranh khắc trên đá ở núi Hạ Lan vô cùng nổi danh, ở phía đông chân núi Hạ Lan, người ta từng phát hiện người xưa khắc lên đá những tranh săn bắn, cúng tế cùng các loại động vật như bò, ngựa, hổ, báo,.. và những ký hiệu trừu tượng. Ngoài ra, còn phát hiện rất nhiều nham họa hoa văn từ thời Xuân Thu chiến quốc tới thời Tây Hạ. Nhưng những nham họa trong mật động này trước đó chưa từng được phát hiện qua.
Nam Cung Cẩu Thặng nói: “Tiếp tục vào trong đi.”
Hang đá này thoạt nhìn không thấy đáy, họ không để ý tới thi thể hôi thối kia nữa, tiếp tục từ từ đi sâu vào trong, nham họa trên vách đá dần dần trở nên phức tạp, có hình vẽ cúng tế, có hình vẽ săn bắn, còn có hình chiến tranh.
Lại đi vào sâu nữa, nham họa dần trở nên phong phú hơn, đường cong hoa văn dần trở nên phức tạp, hình vẽ cũng bắt đầu có màu sắc.
Nam Cung Cẩu Thặng vừa đi vừa giải thích: “Đây là nham họa thời Xuân Thu. Ở đây có hình vẽ của các dân tộc xưa cho tới nay, từ Khương tộc, Nguyệt Thị, tộc Hung nô, dân tộc Tiên Bi, Thiết Lặc, Đột Quyết, tộc Đảng Hạ, vân vân… Ta đoán, có lẽ người nguyên thủy đã tạc ra huyệt động ngoài cùng, sau đó khắc hình vẽ lên đá. Sau này, mỗi thời lại có một người phát hiện ra, họ tiếp tục tạc sâu vào trong động này, hình được tạc chính là hội họa dân tộc của họ.. Ngàn vạn năm qua đi, cứ như vậy, động có hình dạng như bây giờ.”
Hàng đá dài chợt có một khúc ngoặt, mỗi một bước lại cách nhau vài trăm năm, trước mắt dần hiện lên hình những người mặc trang phục của những niên đại khác nhau, nét khắc tạc cũng dần chỉn chu nghiêm túc hơn.
Lý Yêu Yêu kinh ngạc than: “Ôi trời…”
Dư Ngư tiện tay chạm vào nham họa trên vách đá, chép miệng nói: “Cô này ngực xệ thế! Cái gì giữa hai chân kia? Mịa, ông này chim còn dài hơn chân.”
Xa Xà mặt không đổi sắc kéo sư huynh lại: “Cổ đại, tính sùng bái.”
Càng đi sâu vào trong, mùi hôi thối càng nhạt, mọi người dần bỏ tay bịt mũi xuống.
Dư Ngư reo lên: “Đây nhất định là thời Đường! Phong cách rõ như vậy! Cô này mặt to như mông, xem xem cánh tay to chưa kìa..!”
Nam Cung Cẩu Thặng cười nói: “Không sai.”
Lại đi vào sâu nữa, hình vẽ càng ngày càng tinh xảo, bích họa bắt đầu xuất hiện phật và hộ pháp, còn có núi xanh biếc, phong cách càng ngày càng giống bích họa Đôn Hoàng. Vừa pha chút văn hóa Trung Nguyên, lại có đôi nét phong cách của Duy Ngô Nhĩ và Thổ Lỗ.
Nam Cung Cẩu Thặng nói: “Đây chính là bích họa Tây Hạ.”
Lý Yêu Yêu hỏi: “Sao giống phong cách của Hang Mạc Cao vậy?”
Nam Cung Cẩu Thặng cười đáp: “Trước đây Đôn Hoàng từng thuộc quyền sở hữu của Tây Hạ. Từ thời Hạ Cảnh Tông tới Hạ Nhân Tông, họ từng cho tu sửa Hang Mạc Cao nhiều lần.”
Dư Ngư cầm đèn pin quơ quơ xung quanh: “Ở đây có bảo vật gì không?”
Nét mặt Nam Cung Cẩu Thặng trở nên ngưng trọng: “Vốn là nơi này cất giấu rất nhiều tượng phật phổng màu thời Tây Hạ, còn có điển tịch và vài đồ tế tự, nhưng có lẽ đã bị đám thổ phỉ kia lấy đi rồi.” (điển tịch: sách cổ)
Lý Yêu Yêu cười nhạt, “Lấy xong liền đập đồng bọn? Trong rừng sâu thẳm thế này, đỡ tốn công phi tang xác.”
Họ đi về phía cuối hang đá, bích họa trên vách đá đến đây thì ngừng, thậm chí có bức Quan Thế Âm mới vẽ được một nửa khuôn mặt. Hiển nhiên người đang vẽ đã gặp sự cố gì đó.
Dư Ngư thờ ơ quơ quơ đèn pin, đột nhiên giật nảy mình, nắm chặt đèn pin chiếu tới: “Mẹ ơi! Tới đây mà xem!”
Mọi người đưa mắt nhìn về phía đèn pin, chỉ thấy có một bộ xương dựa trên vách đá, trên ngực có cắm một thanh kiếm, trên đỉnh đầu lâu có bức vẽ một vị Hộ Pháp hung thần ác sát, kiếm trong tay nhắm đúng đầu của bộ xương trắng.
Nam Cung Cẩu Thặng tiến lên: “Nhìn xem, không phải người Tây Hạ sao?”
Lý Yêu Yêu bừng tỉnh ngộ: “Cho nên sư phụ nói ở đây có thi cốt Tây Hạ?”
Nam Cung Cẩu Thặng cười đến hai mắt híp lại: “Đó đó. Cho nên sư phụ không lừa mấy đứa!”
Xa Xà tiến lên trước, cầm đèn pin cẩn thận chiếu lên thanh kiếm đâm vào ngực bộ xương.
“Văn vật đấy.” Nam Cung Cẩu Thặng nhắc nhở.
“Xoẹt!” Một tay Xa Xà rút kiếm ra, khung xương yếu ớt rung lên rồi rơi xuống đầy đất. Xa Xà hài lòng lấy khăn ra lau kiếm: “Của con.”
Nam Cung Cẩu Thặng, Lý Yêu Yêu, Dư Ngư: “….”
Nam Cung Cẩu Thặng ngồi xổm xuống đất tìm tòi thứ gì đó, đột nhiên hai mắt sáng lên, nhặt tẩu thuốc ở dưới đất lên: “Biết ngay rơi ở đây mà!!”
Lý Yêu Yêu tiến lên nhìn, vô lực đỡ trán: “Sư phụ, đừng nói là sư phụ lừa bọn con đến đây chỉ để tìm cái ống điếu nhé?”
Nam Cung Cẩu Thặng híp mắt xoa xoa tẩu thuốc vào quần áo: “Ai da, con xem, trên tẩu có khắc tên ta, đây là bằng chứng phạm tội. Nếu mấy đồng chí ở cục công an phát hiện ra, tìm được ta thì làm sao bây giờ?!”
Lý Yêu Yêu tập trung nhìn vào, quả nhiên trên tẩu có khắc hai chữ “Cẩu Thặng” siêu siêu vẹo vẹo. Hắn nhìn lên đỉnh hang đá tối om, lẩm bẩm nói: “Sư phụ, sư phụ có biết cả cái đất Trung Hoa này có bao nhiêu người tên Cẩu Thặng không?”
“A!!!!” Một tiếng hét chói tai vang lên, vọng vào sâu trong hang đá.
Lý Yêu Yêu biến sắc: “Là giọng của Tô Di.”
Không đợi Cẩu Thặng lên tiếng, hắn như gió mà lao vọt ra ngoài.
.o.
Hoàn cảnh sáng tác Mãn Giang Hồng: Trong lần chống lại chiếu chỉ gọi ông đem quân trở về tại Chu Tiên trấn, Nhạc Phi đã đáp lại chiếu chỉ bằng những lời trung nghĩa, xuất phát từ tâm can. Ông làm bài từ “Mãn giang hồng”đầy hùng tâm nhưng cũng bi tráng.
Đảng Hạng là tộc người được đồng nhất với nước Tây Hạ, họ cũng được gọi là Đảng Hạng Khương Người Đảng Hạng thường được xem là một tộc người nói tiếng Khương và đã thiên di đến khu vực Tây Bắc Trung Quốc vào một khoảng thời gian nào đó trước thế kỷ 10 SCN.
Tây Hạ là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể của Tây Hạ là người Đảng Hạng, ngoài ra còn có người Hán, người Hồi Cốt, người Thổ Phồn. Do triều đại này nằm ở tây bắc bộ của khu vực Trung Quốc nên được sử sách chữ Hán gọi là “Tây Hạ”.
Hang đá Mạc Cao là một hệ thống 492 ngôi đền cách trung tâm thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc 25 km về phía Đông Nam. Đây cũng được gọi là Thiên Phật Động hay hang Đôn Hoàng
Hộ pháp theo nhà Phật, nhất là phái Kim cương thừa, là những vị thần bảo vệ Phật pháp và Phật tử.
Hộ Pháp