Ánh nắng chói mắt rọi vào qua song cửa sổ.
Dung Nguyên Cẩn khẽ cau mày, lật người quay mặt về bức tường hướng nam cạnh giường.
Mới qua một lát, y mở choàng mắt bật dậy.
Người bên gối đã không thấy thân ảnh, Dung Nguyên Cẩn gọi nương tử hai tiếng, không có ai trả lời. Y nheo mắt nhìn mặt trời qua cửa sổ, xem chừng đã qua giờ Thìn.
Hỏng rồi, mẫu thân và nương tử còn chưa ăn điểm tâm.
Dung Nguyên Cẩn tự trách mình sáng sớm nay ngủ quên, vội vàng mặc lại quần áo dưới giường. Lúc bước xuống sàn, hai chân vô lực, loạng choạng suýt ngã. Cố phớt lờ thân thể khó chịu, y xoa nắn cái eo đau nhức, vội vã đi tới phòng mẫu thân.
Ngang qua đình viện, y ngó thử vào trong, vẫn không thấy bóng dáng nương tử, chẳng biết là đã đi đâu rồi.
Dung Nguyên Cẩn đứng ngoài gõ cửa phòng mẫu thân, cất tiếng hỏi: “Mẹ, mẹ dậy chưa?”
Rất nhanh, giọng Trúc Thanh vang lên từ trong nhà: “Mẹ dậy rồi, vào đi.”
Dung Nguyên Cẩn đẩy cửa đi vào phòng mẫu thân, áy náy nói: “Con dậy muộn…”
Chưa dứt lời, một mùi hương thơm nức đã xộc lên mũi. Dung Nguyên Cẩn ngẩng đầu, trông thấy tân nương tử nhà mình.
Nương tử nhà y vận trường sam màu sáng nhã nhặn, bên ngoài khoác khinh sam the mỏng màu xanh, đứng trước bàn tươi cười trò chuyện cùng Trúc Thanh.
Dung Nguyên Cẩn đương sắp sửa bước vào, thấy thế bỗng giật thột. Nàng dâu mới qua cửa nhà y là nam nhân, chuyện này nếu để mẫu thân biết được…
Tà phát hiện y đứng ngoài cửa chật vật lúng túng, lúc đưa tay xới cơm, hắn rất tự nhiên vung tay áo, để lộ một đoạn cổ tay tinh xảo phía dưới, mấy vết cào nhỏ đỏ bầm ở mặt ngoài nổi bật trên da thịt trắng như tuyết.
Trúc Thanh nhìn thấy, vội vã kéo tay hắn lại, xót xa hỏi: “Ôi chao, tay con thế này là…?”
Tà đặt bát cơm xuống trước mặt Trúc Thanh: “Ban đêm muỗi nhiều, con gãi mấy cái, không sao ạ.”
Trúc Thanh khó hiểu mà rằng: “Giờ là tháng Chạp, muỗi ở đâu ra?”
“Thì là…” Tà lộ vẻ khó xử, nhìn về phía cửa nơi Dung Nguyên Cẩn đứng, tựa như muốn khẩn cầu giúp đỡ.
Dung Nguyên Cẩn hơi đỏ mặt lên, lúc này mới vội vã bước tới: “A, là thế này, đằng sau gian phía tây chẳng phải có một khoảng rừng trúc đấy sao? Có lẽ là ban ngày muỗi ẩn náu trong rừng, ban đêm ra ngoài quấy nhiễu người.”
Trúc thanh nhẹ gật đầu, ôn tồn bảo: “Vậy lát nữa lúc về, cầm theo một ít huân hương đuổi muỗi đi.”
Dung Nguyên Cẩn dạ một tiếng.
Tà bước tới chỗ y, cúi đầu giúp y cởi chiếc đai lưng chưa cài còn lủng lẳng bên hông đem thắt lại chỉnh tề.
Dung Nguyên Cẩn chăm chú nhìn người trước mắt, gần trong tầm tay, mặt chưa trang điểm, làn mi cong dài. Nhịp thở chững lại, y nhỏ nhẹ nói: “Cảm tạ nương tử.”
Tà quay lưng che tầm mắt Trúc Thanh, ngón tay thon thong dong lướt qua hông Dung Nguyên Cẩn, đôi mắt hẹp dài loang loáng một tầng sóng nước, thanh âm như gió thoảng qua: “Chỗ đó còn khó chịu?”
Dung Nguyên Cẩn sắc mặt đỏ bừng, lắc đầu: “Không có, không có.”
“Mau ngồi xuống ăn cơm.” Tà vuốt ve lưng y kéo đến trước bàn, cầm bát xới cơm, dịu dàng hỏi: “Sao tướng công không ngủ thêm một lát?”
“Ta lo mẫu thân và nương tử dậy chưa kịp ăn.” Dung Nguyên Cẩn ngồi xuống đối diện mẫu thân, một bàn tay trắng nõn xinh đẹp đặt trước mặt y một bát hoành thánh lớn bốc hơi nghi ngút. Mùi thơm luẩn quẩn quanh mũi, bụng y lập tức phát ra vài âm thanh xấu hổ.
“Đói lắm rồi nhỉ?” Tà khẽ mỉm cười, chìa cho y đôi đũa trúc, “Về sau mấy việc này cứ để ta làm là được, tướng công có thể ngủ thêm một chút.”
Dung Nguyên Cẩn cầm lấy đũa: “Nương tử vất vả rồi.”
Suốt bữa cơm này Dung Nguyên Cẩn ngồi ăn trong thấp thỏm, lâu lâu lại ngẩng đầu dò xét nét mặt Trúc Thanh. Nương tử ngồi bên lại vô cùng từ tốn, trò chuyện cùng mẫu thân đến là vui vẻ.
Trúc Thanh thấy nhi tử nhìn mình chăm chú, lấy làm kỳ lạ hỏi: “Cẩn Nhi cứ nhìn ta làm gì thế?”
Dung Nguyên Cẩn lắc đầu.
Nương tử cười không nói.
Cơm nước xong xuôi, Trúc Thanh chỉ vào tủ gỗ cạnh giường, bảo với Dung Nguyên Cẩn: “Cẩn Nhi, lấy đồ nữ trang ra cho mẹ.”
Dung Nguyên Cẩn lấy ra từ trong tủ một chiếc hộp sơn mài vuông đỏ chạm trổ hoa văn, xem ra có vẻ được giữ gìn rất cẩn thận.
Trúc Thanh rời ghế đứng lên. Tà định đi qua đỡ bà, lại bị ngăn lại. Trúc Thanh mở hộp, lấy ra chiếc lược gỗ tinh xảo khắc hình phượng hí mẫu đơn, đưa tay vén một dải tóc ra sau gáy Tà, bắt đầu chải đầu cho hắn.
Trúc Thanh nhìn con dâu qua chiếc gương đồng, ý cười hiền hậu trên khuôn mặt, dịu dàng thủ thỉ: “Mẹ không có đồ vật gì quý giá, chỉ có hộp nữ trang này là của hồi môn năm đó được mẫu thân chuẩn bị cho. Ta thực sự không nỡ lấy ra dùng, thấm thoắt đã bao nhiêu năm trôi qua, nếu con không chê thứ này cũ kỹ, về sau giữ lấy mà dùng.”
Dung Nguyên Cẩn chống cằm ngồi cạnh bàn, ngắm mẫu thân khéo léo giúp nương tử vấn tóc sau đầu, lại lựa một cây trâm bạch ngọc trong hộp cài lên.
Nương tử nhà y nghiêng đầu nhìn mình trong gương xem xét hồi lâu, đưa tay nhẹ vuốt búi tóc gọn gàng, vui vẻ nâng cằm nhìn y: “Đẹp không?”
Dung Nguyên Cẩn nghiêm túc gật đầu, mỉm cười khen: “Đẹp lắm.”
Nhìn bộ dáng nhi tử nhà mình, Trúc Thanh chỉ biết lắc đầu cười khẽ: “Cẩn Nhi, con đỡ mẹ về giường nghỉ ngơi. Hôm qua trời nổi gió, chân này chua xót đến kịch liệt.”
“Dạ.” Dung Nguyên Cẩn cẩn thận dìu mẫu thân ngồi lên giường, “Nghe Vương thẩm nhà bên nói, gần đây có một vị thần y y thuật cao minh trên đường ngao du dừng chân trong thành, hôm nay con sẽ vào thành tìm cho kì được.”
“Chỉ là bệnh cũ, không cần phiền toái như vậy.” Trúc Thanh thở dài nằm xuống, “Phải rồi, nhớ đưa nương tử con tới sảnh đường, thắp hương cho liệt tổ liệt tông Dung gia, thêm tên vào gia phả.”
“Thưa vâng.” Dung Nguyên Cẩn nhẹ đáp, khom người dém chăn cho mẫu thân.
Dung Nguyên Cẩn thắp ba nén hương cắm vào hũ tro. Khấu bái xong xuôi, y quay đầu sang, thấy nương tử hai tay cầm hương, đôi mắt khép hờ, miệng lẩm nhẩm điều gì không rõ. Vẻ mặt hắn chuyên chú, khóe môi khi thì mấp máy, khi lại khép chặt, tựa như đang đối thoại cùng người.
Dung Nguyên Cẩn thoạt tiên kinh ngạc, sau lại phỏng đoán là do mình thiển cận quê mùa, không hiểu tập tục nhạc gia bên kia, chỉ lẳng lặng đứng nhìn một bên. Y chờ người nọ cúi đầu cắm nén hương vào hũ tro, lúc này mới tò mò hỏi: “Nương tử vừa rồi làm gì thế?”
Tà buột miệng trả lời: “Bảo với mấy vị phụ bối (cha chú)…”
Hắn bất chợt khựng lại, im bặt không nói thêm một lời.
“Sao?” Dung Nguyên Cẩn nhìn hắn.
Tà nâng tay áo che miệng ho một tiếng, thản nhiên đáp: “Không có chuyện gì, chỉ là phong tục lễ bái bên nhà ta có chút rườm rà, để hôm nào đó giải thích cặn kẽ cho tướng công nghe.”
Dung Nguyên Cẩn khẽ gật, không để ý nữa, bước lên lấy tờ gia phả đặt trên bàn thờ xuống, lại cầm bút lông chấm mực. Đương lúc sắp đặt bút, y bỗng nhiên dừng lại.
Dung Nguyên Cẩn quay lại, ấp úng nói: “Ta quên khuấy mất, còn chưa kịp hỏi danh tự của nương tử…”
Sống trên đời cả trăm cả ngàn năm, đây là lần đầu tiên có người hỏi tên hắn. Tà sửng sốt, nhất thời cũng không biết phải hồi đáp thế nào.
Thấy hắn thần sắc ngẩn ngơ, Dung Nguyên Cẩn không nhịn nổi cất tiếng gọi: “Nương tử?”
Tà giương mắt nhìn hắn, lúc này mới chậm chạp nhả ra một chữ: “Tà.” (‘xié’.)
“Hửm?” Dung Nguyên Cẩn dường như nghe không hiểu, hỏi lại: “Cái gì?”
Hắn duỗi đầu ngón tay nhấp chút nước trà nguội, từng nét từng nét viết xuống bàn tên mình, Tà.
Dung Nguyên Cẩn trầm ngâm quay đi, thấp giọng lẩm bẩm mấy lần, “Du Tà, Du Tà…”
“Nương tử có biết chữ này nghĩa là gì không?” y hỏi hắn.
Tà ngơ ngẩn.
Dung Nguyên Cẩn nhìn hắn, thở dài một hơi. Du gia bên kia vậy mà đến cả một cái tên tử tế cũng không chịu đặt cho con mình.
Y hạ bút xuống, nói giọng nghiêm túc: “Chữ này không tốt.”
“… Không tốt?”
“Tà… Ta nguyện cùng quân tương tri tương tích (hiểu nhau, thương nhau), suốt đời vĩnh viễn chẳng thay lòng*”. Dung Nguyên Cẩn quay đầu nhìn hắn, thanh âm ấm áp dạt dào: “Chi bằng về sau gọi nương tử là Du Tà (‘yé’) đi?”
(*Hán Việt: Ngã dục dữ quân tương tri, trường mệnh vô tuyệt suy)
Tà đầu tiên là sững sờ, tiếp đến lẩm nhẩm đọc lại câu thơ vừa rồi đến mấy lần.
Dung Nguyên Cẩn lẳng lặng vươn tay, nắm lấy bàn tay lạnh buốt của hắn.
Người kia gật đầu đáp: “Được.”
Dung Nguyên Cẩn chấp bút, viết lên gia phả nhà họ Dung hai chữ thật mạch lạc rõ ràng: Du Tà.
Chú thích: Chữ 邪 (“Tà” trong tà ma) có cách đọc là xié. Câu thơ Dung Nguyên Cẩn đọc trích trong 《上邪》- một bài thơ lưu truyền từ đời Hán. Tuy viết giống nhau nhưng chữ “邪” trong 上邪 có âm đọc là yé, và cũng không mang nghĩa ‘tà ma’ mà là một tiểu từ biểu thị cảm thán. Chữ 邪 có âm đọc yé này dịch Hán Việt cho chính xác thì phải là “da”, không phải “tà”. 上邪 (“Thượng da”) có thể tạm hiểu là “Ông trời ơi!” Tuy nhiên mình vẫn sẽ để tên nhân vật là Du Tà chứ không phải Du Da.