Ngày đặt chân đến Trúc phủ ở Từ An, mưa dầm rả rích. Sáng sớm, sương mù lành lạnh giăng kín khắp nơi.
Bùn đất ướt nhẹp văng bẩn một mảng ống quần trắng muốt, Dung Nguyên Cẩn không để tâm, cầm ô đứng trước xe ngựa, đưa tay đỡ Du Tà bước xuống.
Dẫu đã gõ cửa hồi lâu nhưng vẫn chẳng có ai ra ngoài đón hai người. Mưa phùn lạnh lẽo, Du Tà quay về xe ngựa đứng, cởi trường bào phủ lên người Dung Nguyên Cẩn.
Một tiểu tư chậm chạp bước ra, ngáp một cái, mở cửa híp mắt dò xét hai người, thật lâu sau mới uể oải cất tiếng: “Từ hương Lận đến? Vào đi.”
(Hương là đơn vị hành chính địa phương nhỏ nhất của Trung Quốc, ngày nay vẫn dùng, tương đương với trấn.)
Xa phu lấy bọc hành lý từ xe ngựa, đem xuống dỡ trước cửa Trúc phủ, ngẩng đầu toan gọi tiểu tư kia đến phụ một tay. Gã tiểu tư thấy thế cau mày, vênh váo hất cằm phất tay áo: “Để ra chỗ khác, ngươi có biết nơi này là chốn nào không hả?”
“Chuyện này…” Xa phu bối rối nhìn về phía cố chủ (người thuê xe).
Dung Nguyên Cẩn cất ô, đưa cho Du Tà, đỡ lấy rương hành lý từ tay xa phu: “Để ta.”
Du Tà lạnh lùng rời mắt khỏi gương mặt tên tiểu tư, ung dung cầm hành lý trong tay Dung Nguyên Cẩn quăng đến trước mặt gã, ánh mắt bén như dao: “Làm phiền đưa chúng ta đến chỗ ở trước.”
Gã tiểu tư mặt mũi cứng đờ, trừng hắn hồi lâu, sau đó bất đắc dĩ vác theo chiếc rương dẫn hai người đến thiên viện (sân bên của một tòa nhà, đối ngược với sân chính).
Thiên viện này âm u thiếu sinh khí, cỏ dại trên lối đi mọc cao quá nửa đầu gối, hiển nhiên là đã lâu không có người. Trái lại, trong nhà có vẻ như đã được dọn dẹp, ngoại trừ một giường, một bàn, một tủ bên ngoài thì không có đồ trang trí gì thêm, trông qua rộng rãi sạch sẽ.
Đợi gã tiểu tư đi khỏi, Du Tà trải ra một chiếc khăn sạch, ngồi xuống lau bùn đất trên ống quần Dung Nguyên Cẩn.
Bùn nhão bắn bẩn cả vạt áo trắng tuyết, Du Tà đứng dậy, lau nước mưa dính trên thái dương tướng công nhà mình: “Tướng công đổi y phục trước đi đã.”
Dung Nguyên Cẩn ngoan ngoãn gật đầu: “Được.”
Sáng ra, chính viện Trúc phủ tấp nập người vào kẻ ra, ồn ã náo nhiệt. Thanh âm truyền đến nơi này lại chỉ còn duy nhất tiếng mưa, lộp độp lộp độp, lay động cỏ cây.
Dung Nguyên Cẩn thay y phục, cười nói: “Cũng yên tĩnh nhỉ.”
Du Tà cũng cười cười, im lặng.
Chuẩn bị xong xuôi, Dung Nguyên Cẩn muốn dẫn Du Tà đến chỗ cữu phụ để sớm nói lời cảm tạ. Bỗng có một nha hoàn đi tới, trên tay cầm theo thực hạp.
Nha hoàn bày điểm tâm nước trà lên bàn, nói với bọn hắn Trúc lão gia sớm đã rời phủ, trong phủ không có người tiếp đãi, chờ thêm một chút sẽ có người đến dẫn đi sau.
Dung Nguyên Cẩn đành thôi.
Nghỉ ngơi trong phòng cả buổi, tới trưa vẫn là nha hoàn nọ đưa cơm. Dung Nguyên Cẩn không nhịn được, hỏi một câu: “Phải chăng cữu nương (mợ) cũng đang ở trong phủ?”
Nha hoàn lộ vẻ khó xử: “Có trong phủ, nhưng đại phu nhân hôm nay thân thể khó chịu, không tiện tiếp đãi…”
Dung Nguyên Cẩn sắc mặt khó coi. Du Tà xoa bờ vai y trấn an mấy câu, Dung Nguyên Cẩn chỉ lắc đầu nói không sao.
Mãi đến khi sắc trời nhập nhoạng mới có người tới dẫn hai người ra tiền sảnh dùng bữa. Ra đến trước cửa, Dung Nguyên Cẩn căn dặn Du Tà: “Nhà cữu phụ ta đối nhân xử thế có chút khắt khe, nếu trong bữa ăn có làm gì thất lễ, nương tử tuyệt đối đừng để bụng.”
Du Tà đáp: “Yên tâm.”
Hai người vừa theo nha hoàn đặt chân vào ngưỡng cửa tiền sảnh, cả bàn ăn đang cao hứng trò chuyện chợt lặng ngắt như tờ, có vài ánh mắt đổ dồn về phía họ.
Một vị nam tử mặc giáng tử cẩm bào (áo gấm đỏ tía) ngước mắt nhìn y, lên tiếng: “A, là đường đệ* tới.”
Dung Nguyên Cẩn chắp tay gọi: “Đường huynh*.”
Người Dung Nguyên Cẩn gọi đường huynh này tên là Trúc Nghiêu, con trai duy nhất của nhà cữu phụ. Gã ỷ vào đại nghiệp trong nhà mà có chút tiền bẩn, hành sự luôn luôn hống hách bạo ngược.
Khi Dung Nguyên Cẩn còn bé, từng có một thời gian Trúc Thanh phải đi xa, gửi nuôi y tại nhà cữu phụ.
Ngoại tổ phụ (ông ngoại) khi còn tại thế hết mực yêu thương Dung Nguyên Cẩn lễ phép hiểu chuyện bao nhiêu thì càng nghiêm khắc với Trúc Nghiêu nghịch ngợm ngang ngược bấy nhiêu. Cũng bởi vậy mà Trúc Nghiêu không ít lần tỏ vẻ đố kỵ, huynh đệ ở với nhau từ đầu đến cuối cũng không mấy hòa thuận.
Chẳng ngờ dù tuổi tác đã trưởng thành hơn xưa, mà tâm tính gã vẫn không chút thay đổi.
Ngữ khí Trúc Nghiêu xảo trá, giọng điệu đầy vẻ oán ghét: “Quả nhiên là lũ nhà quê, mặc cái gì kia không biết.”
Du Tà ngước lên, âm trầm liếc nhìn gã.
Bên dưới tay áo, Dung Nguyên Cẩn véo nhẹ tay hắn, ngẩng đầu trả lời: “Gia mẫu tháng trước bạo bệnh qua đời, Nguyên Cẩn còn đang trong thời kỳ thủ hiếu (chịu tang cha mẹ)…”
Trúc Nghiêu đảo mắt: “Xúi quẩy chết đi được.”
Du Tà lập tức biến sắc, muốn phát tác, lại đột nhiên nghe thấy người ngồi chủ vị lên tiếng: “Nhanh tới ngồi đi.”
Dung Nguyên Cẩn khẽ giật tay áo Du Tà, khoanh tay hành lễ với cữu nương ngồi trên ghế chủ vị: “Nguyên Cẩn cùng thê tử đến đây quấy rầy, cảm tạ ân tình cữu nương đã thu nhận.”
Cữu nương thần sắc lãnh đạm, khoát tay nói: “Cữu phụ ngươi hôm nay bận việc về muộn, không đợi nữa, ăn cơm đi.”
Suốt bữa tối, Trúc Nghiêu nhiều phen nhắm vào Dung Nguyên Cẩn mà châm chọc mỉa mai. Chủ vị cữu nương nhắm mắt làm ngơ, đám tiểu bối lại cùng một bộ dạng hả hê chế giễu. Du Tà mấy lần không nhịn được muốn phát tác, đều bị Dung Nguyên Cẩn ngăn lại, đành ngoài miệng ăn bữa cơm, trong lòng nén lửa giận.
Buổi tối trên giường, Dung Nguyên Cẩn nghiêng người nhìn Du Tà nằm cách mình cả gang tay, nhẹ giọng hỏi: “Nương tử nằm cách xa như vậy làm gì?”
Du Tà trút một hơi thở dài. Hắn dù tu luyện ra nhục thân, nhưng bản chất so với người bình thường vẫn khác biệt to lớn. Hắn không có nhịp tim mạch đập, cư nhiên cũng không có thân nhiệt, mà Dung Nguyên Cẩn lại thể lạnh suy yếu, dễ nhiễm phong hàn. Du Tà chỉ có thế tận lực tự ngăn bản thân dùng thân thể lạnh buốt này tiếp xúc với y.
Lúc trước khi còn ở nhà, Dung Nguyên Cẩn vì mẫu thân qua đời mà cả ngày sầu não uất ức, đêm đêm âm thầm rơi lệ. Du Tà không nỡ để y đơn độc khổ sở, mỗi tối trước khi lên giường đều ngâm mình vào nước nóng nửa canh giờ, đảm bảo Dung Nguyên Cẩn được ấm áp ngủ vùi trong ngực hắn. Chờ y ngủ say rồi, Du Tà mới cẩn thận từng chút buông tay lùi ra, lại dém chăn cho tiểu tướng công thật kĩ.
Qua một thời gian, Dung Nguyên Cẩn đã quá quen với cảm giác nằm trong ngực hắn chìm vào giấc ngủ.
Nhưng bây giờ ăn nhờ ở đậu, chốn thiên viện tàn tạ này ngay cả nhà bếp cũng chẳng có, chỉ có duy nhất một cái giếng sâu nước lạnh đến thấu xương. Hiện giờ còn chưa vào hạ, đừng nói đến tắm rửa, chỉ múc nước lên uống thôi cũng đủ cóng buốt cả người, răng va lập cập.
Dung Nguyên Cẩn thấy hắn không hồi đáp, thò tay nhẹ nhàng giật giật tay áo, nhỏ giọng dò hỏi: “Nương tử lẽ nào… còn đang tức giận?”
Du Tà bất đắc dĩ lắc đầu, lại sợ tiểu tướng công suy nghĩ nhiều, bèn nhích người đến gần y hơn một chút, nhưng vẫn kiên quyết duy trì khoảng cách.
Cách lớp chăn bông, hắn vòng tay ôm lưng Dung Nguyên Cẩn: “Không giận, chỉ là gần đây thân thể có chút lạnh, sợ nhiễm cho em.”
Dung Nguyên Cẩn nghe vậy mới yên tâm, thở phào một hơi nhích đến dụi đầu trong ngực hắn, vươn tay ghì chặt người vào lòng: “Không giận thì tốt.”
Du Tà áp tay lên trán tiểu tướng công, đẩy y ra xa, thấp giọng dụ dỗ: “Ngoan, em mới khỏi phong hàn được mấy ngày…”
Dung Nguyên Cẩn không chịu buông tay, càng ôm hắn thật chặt, ngẩng mặt cọ qua cọ lại vào lòng bàn tay Du Tà, ngang nhiên bịa chuyện: “Gần đây trời oi bức, đêm qua ta bị nóng, một thân nhễ nhại mồ hôi. Vừa hay có thể được ôm nương tử, mát thật là mát.”
(*) Chú thích: Có vẻ trong chương tác giả có chút nhầm lẫn trong cách xưng hô. Mẹ Dung Nguyên Cẩn là chị em gái với cha Trúc Nghiêu, nên đáng lẽ Trúc Nghiêu và Dung Nguyên Cẩn phải xưng hô biểu đệ – biểu huynh mới đúng. Các chương sau tác giả đã thay lại rồi nhưng chương này thì vẫn để nguyên nên mình cũng không sửa lại nữa, chỉ chú thích thôi.)