Cẩn Ngôn

Chương 99




Ngày 15 tháng 12 năm 1912, tức năm Dân Quốc thứ tư, Anh và sáu tỉnh Bắc Kỳ ký kết một hợp đồng mua sắm máy móc có tổng trị giá lên tới ngàn vạn đồng bạc. Dưới điều kiện tiên quyết là không thông báo cho chính phủ Nhật Bản, hai bên dùng tiền bồi thường chiến tranh của Nhật Bản cho sáu tỉnh Bắc Kỳ để làm thế chấp, kí kết hợp đồng mua bán.

Nhật Bản sau khi thực hiện hợp đồng ký kết mới biết được, chính mình đã bị Trung Quốc và Anh liên thủ chơi một vố.

Lãnh sự nước Anh đích thân đến cửa báo cho phe Nhật, dốc sức xoay vần ích lợi với bọn họ. Sáu tỉnh Bắc Kỳ đáp ứng vào ngày 20 tháng 12 sẽ hủy bỏ việc tiếp quản quân sự đối với 21 ngân hàng cùng với chi nhánh của Nhật Bản bên trong thành, đồng thời trao trả nhân viên bị giam giữ trong đó cho phe Nhật. Lấy tư cách là đồng minh với Nhật Bản, bọn họ đã dốc hết sức và khả năng của mình rồi, Nhật Bản không cần phải cảm ơn bọn họ đâu.

Ngay lập tức, đại thần tạm thời quản lý toàn bộ nội các và đại thần phụ trách đối ngoại Katsura Taro suýt chút nữa đã bị lũ người Anh chọc cho tức hộc máu.

Lúc này, trong ngoài Nhật Bản đều gặp khốn đốn. Mới vừa thua trận, dân chúng trong nước oán giận khắp trời, dù mình đầy căm hận thì cũng chỉ có thể tỏ vẻ đáng thương trước mặt người Anh, trơ mắt nhìn người Anh đưa tay vói vào túi tiền của mình còn phải cúi đầu vâng dạ: “Ngài vất vả rồi.”

Ngày 12 tháng 12, sáu tỉnh Bắc Kỳ dựa theo ước định với người Anh, giải trừ tiếp quản vũ trang với 21 ngân hàng và chi nhánh của Nhật Bản. Sau khi binh lính rút đi, mấy ngân hàng ngoại trừ phần tường không thể dỡ đi thì ngay cả cửa sổ cũng không thừa lại một cánh.

Người Nhật Bản nhảy dựng lên kháng nghị, đám binh lính ngoảnh mặt làm ngơ. Trước mặt họng súng và đạn dược mà đòi kháng nghị hả? Kháng nghị cái tờ rym! Còn ồn ào nữa thì bẻ hết răng tụi bây!

“Trung đội trưởng nói không thể đổ máu.”

“Không đổ máu?”

Một binh sĩ đang giơ báng súng tính đập xuống hơi khựng lại động tác, sau đó lưu loát thu súng về, trộm vung một đấm vào vành mắt một tên Nhật lùn: “Không đổ máu.”

“…”

Cuối năm 1912, tình hình quốc tế dần có xu hướng căng thẳng. Cách đây không lâu, đám tiểu quốc Hy Lạp đánh bại Serbia của Thổ Nhĩ Kỳ, thiếu chút nữa đã đánh lan sang Bosnia và Đế quốc Áo – Hung. Mặc dù cuối cùng cũng không nổ ra chiến tranh, nhưng thùng thuốc nổ Balkan này sớm muộn gì cũng bị châm lên vào một ngày nào đó.

Bên trong Trung Quốc cũng không thái bình gì. Ở tô giới Hán Khẩu, những người kéo xe lại một lần nữa đình công tập thể, yêu cầu chính phủ thực hiện hứa hẹn trước đây, giảm bớt thuế má. Trên đường ở tô giới bắt đầu xuất hiện cảnh sát, suýt nữa đã gây ra sự kiện đổ máu.

Bên trong Sơn Đông bị quân đội mấy tỉnh Nam Bắc phân chia chiếm cứ đã vang lên lời kêu ca oán thán. Dân chúng tập hợp lại, đi lên trên phố để đưa ra yêu cầu, đòi quân đội các tỉnh khác phải rút ra khỏi Sơn Đông. Ở An Huy, tình huống tương tự cũng xuất hiện, các tổ chức dân đoàn tự phát, hơn nữa là do thân sĩ An Huy dâng thư đưa ra đề nghị cho Tổng thống Nam Kỳ tạm thời là Tống Chu, nếu quân đội các tỉnh khác không rút khỏi An Huy, bọn họ sẽ tự mình ra tay!

Sơn Đông là địa bàn của Bắc Kỳ, An Huy thì chịu sự quản lý của Nam Kỳ. Trước đây Nam Bắc xung đột, quân đội của hai bên xen kẽ rối ren, gần như là quần nhau thành một đoàn. Sau khi tạm thời đình chiến, hai bên tiến hành hòa đàm, chẳng ngờ Lâu Đại soái bị ám sát, hòa đàm bị ép phải ngưng lại.

Không đợi song phương bàn định hòa đàm lần thứ hai, sáu tỉnh Bắc Kỳ đột nhiên đánh nhau với Nhật Bản, còn đánh cho Nhật Bản u đầu mẻ trán. Tầm mắt trong nước tất nhiên đã bị chiến tranh ở Nam Mãn thu hút, đương nhiên là không rảnh rỗi đi quan tâm tới vấn đề của Sơn Đông và An Huy. Hiện giờ, chiến tranh của sáu tỉnh Bắc Kỳ và người Nhật Bản đã tạm chấm dứt, tạm thời cũng không ai có ý đồ gây chiến gì, cộng thêm hòa đàm giữa hai bên bị gián đoạn giữa chừng, từ đó tất cả các vấn đề bỗng trồi lên.

Cục diện thế này thì nên xử lí ra sao?

Không ai có thể đưa ra biện pháp vẹn toàn cả đôi bên. Hàn Am Sơn của Sơn Đông dù biết kết cục của bản thân sẽ là thân sĩ sống lưu vong nước ngoài như Trịnh Hoài Ân, nhưng hắn cũng không tính khinh địch, chắp tay dâng địa bàn lên. Cho dù trên lưng phải gánh cái danh Đại soái lâm trận bỏ chạy nhưng hắn cũng phải “gây sức ép” lần cuối. Chuyện cảnh nội Sơn Đông lần này, hắn ở phía sau châm ngòi thổi gió không ít. Tống Chu càng không có khả năng đem An Huy kinh doanh nhiều năm tặng cho Bắc Kỳ, nếu như vậy, song phương trừ bỏ kết cục lại lao vào đánh nhau ra thì chỉ còn cách tiếp tục kéo dài hòa đàm.

Hòa đàm, nói thì dễ, làm mới khó.

Lý Cẩn Ngôn bỏ tờ báo xuống, thở dài.

Bởi vì nhân tố mùa vụ, khu công nghiệp ở ngoài thành Quan Bắc đã lục tục ngừng sản xuất, đợi mùa xuân sang năm sau khi băng tuyết trên ruộng đất đã tan rồi mới tiếp tục công trình. Lý Cẩn Ngôn thế nhưng lại không có quá nhiều thời gian rảnh. Gần đây, hắn đang nghĩ mọi biện pháp để có thể ký thêm một đơn đặt hàng lợn giống với George của cửa tiệm Anh. Hắn thề, lần này hắn phải xem kỹ từng từ từng chữ của bản hợp đồng, tuyệt đối không để cho lũ John Bull chiếm tiện nghi lần nữa.

Cố lão tiên sinh ở Hồ Châu vừa mới viết một phong thư cho Lý Cẩn Ngôn. Nhà máy xà phòng của Cố gia đã xây xong, ra năm một tháng là có thể đi vào sản xuất. Đến lúc đó, ông hy vọng Lý Cẩn Ngôn có thể xuôi Nam đến Hồ Châu gặp mặt một lần. Không chỉ mình ông mà mấy ông bạn già chí cốt của ông cũng rất muốn gặp mặt Lý Cẩn Ngôn.

“Xuôi Nam à.”

Nhắc tới phía Nam thì sẽ không khỏi nghĩ tới Thượng Hải phồn hoa, mười dặm đô thị đông đúc người nước ngoài sinh sống. Thành phố Thượng Hải ở thời đại này sẽ có hình dạng gì? Lý Cẩn Ngôn thật sự rất tò mò, thế nhưng cũng chỉ là tò mò mà thôi. Cách thời gian chiến tranh bùng nổ còn một năm, thời gian còn lại cho hắn cũng không nhiều, so với thỏa mãn lòng hiếu kỳ thì kiếm tiền vẫn quan trọng hơn.

Trạm thu dụng ngoài thành Quan Bắc đã giao cho người có chuyên môn phụ trách quản lý, hơn nữa sau khi nhận được sự đồng ý của Lâu Thiếu soái đã đăng ký thẻ bài cho quân đội chính phủ. Cứ như vậy, cho dù muốn gây chuyện thì cũng phải cẩn thận suy nghĩ cân nhắc. Lý Cẩn Ngôn nhiều lắm chỉ đuổi mấy người gây sự ra khỏi trạm thu dụng thôi, nhưng nếu chọc tới quân đội chính phủ, nói không chuẩn liền bay đầu.

Cho nên mới nói, phong kiến quân phiệt gì đó, độc tài ngang ngược vân vân, có đôi khi vẫn xài rất tốt.

Mấy trường học trong thành Quan Bắc đã lần lượt đưa học sinh đến trạm thu dụng tham quan, tận mắt nhìn thấy tình hình bên trong, đích thân nói chuyện với những người ở nơi đây, rất nhiều học sinh đều trở nên trầm mặc.

“Tín ngưỡng của chúng ta trong mắt những người nơi đây còn thua xa một miếng bánh mỳ trong tay.” Sau khi đi tham quan trạm thu dụng, Dương Sính Đình viết trong nhật kí của cô: “Lần đầu tiên mình chân chính nhìn nhận thế giới này một cách rõ ràng. Dân chúng cực khổ mà chúng ta cả ngày treo trên miệng không phải chính là những người này sao? Những điều mà bọn họ đòi hỏi vốn dĩ khác rất xa những thứ mà chúng ta truy cầu. Điều này khiến mình rất kinh ngạc, cũng vô cùng hổ thẹn.”

Rất nhiều người cũng có cùng tư tưởng với Dương Sính Đình. Sau khi trở lại trường học, bọn họ sửa đổi tính nết nông nổi của ngày xưa, bắt đầu suy nghĩ xem sau này bản thân rốt cuộc nên đi con đường như thế nào. Không ít người khi biết được nhân viên của trạm thu dụng không đủ thì còn chủ động đề xuất đến đó hỗ trợ làm việc.

Chuyện này đúng là niềm vui ngoài mong đợi đối với Lý Cẩn Ngôn.

Có lẽ những học sinh trẻ tuổi này tuy làm việc rất lỗ mãng, tính tình có phần táo bạo, chút ý tưởng và hành vi của bọn họ với người ngoài mà nói thì rất nực cười, thế nhưng, không ai có thể phủ nhận rằng bọn họ chính là hiền tài và nguyên khí của quốc gia trong thời đại này. Bọn họ tràn ngập lòng yêu nước, hết sức thích hợp để đến làm việc tại các cơ quan chính phủ tương tự như “công sở liêm chính”. Chẳng qua bây giờ thứ bọn họ cần phải học còn rất nhiều.

“Có thể để bọn họ đến trạm thu dụng giúp đỡ sau giờ học, coi như là đang thực hành ngoại khóa đi.”

Đề nghị của Lý Cẩn Ngôn rất nhanh được tiếp nhận, hơn nữa, sau khi nói chuyện với mấy học sinh tự mình đến trạm thu dụng hỗ trợ giúp đỡ kia, Lý tam thiếu rốt cuộc cũng thu được bức thư tình đầu tiên trong hai kiếp người.

Giấy viết thư tản ra mùi hương thoang thoảng, nét chữ xinh đẹp, Lý Cẩn Ngôn sau khi cảm khái một chút thì điều đầu tiên hiện ra trong đầu không phải là nhận lấy bức thư này, mà là nghĩ cách để hủy thi diệt tích.

Sống chung với Lâu Thiếu soái một thời gian dài, Lý Cẩn Ngôn càng ngày càng tin tưởng trực giác của chính mình. Mà một loạt chuyện phát sinh sau này cũng chứng tỏ cho hắn thấy, quyết định này của hắn quả nhiên là chuẩn không cần chỉnh.

Lý Cẩn Ngôn đang sắp rơi vào cõi tiên bỗng giật mình một cái, ngẩng đầu lên. Chẳng biết từ bao giờ Lâu Thiếu soái đã xử lý xong công việc, ngồi phía sau bàn làm việc, một tay kê lên bàn, tay kia chải chải mái tóc đen, giương mắt nhìn về phía hắn.

“Thiếu soái, anh xong việc rồi?”

“Ừ.” Lâu Thiếu soái thuận tay nới lỏng áo, trên vẻ mặt hiếm khi xuất hiện một chút mỏi mệt: “Lại đây.”

Lý Cẩn Ngôn đứng lên, đi tới bên cạnh bàn làm việc, bị Lâu Thiếu soái kéo vào trong lòng.

“Thiếu soái, anh phải nghỉ ngơi.” Lý Cẩn Ngôn giật giật, tự thay đổi một tư thế khiến mình thoải mái. Mặc dù một năm này hắn vẫn không ngừng cao lên, nhưng đứng trước Lâu Thiếu soái thì vẫn chưa đủ tầm, nhón chân thì chỉ mới đến ngang mũi người ta. Lý Cẩn Ngôn cũng chỉ có thể tự an ủi bản thân rằng hắn chỉ mới 17, còn có thể cao thêm một cái đầu nữa… Nhưng có một sự thật hắn không thể không thừa nhận, nếu muốn cao ngang cỡ Lâu Thiếu soái, trừ khi xuyên thêm một lần nữa, bằng không nghĩ cũng đừng có nghĩ.

Lâu Thiếu soái im lặng, chỉ ôm eo Lý Cẩn Ngôn thật chặt, vùi đầu vào cổ hắn.

“Thiếu soái,” Lý Cẩn Ngôn đẩy Lâu Thiếu soái ra, hơi thở còn vấn vương trên cổ làm hắn thấy nhột. Nhớ tới tin tức vừa đọc được trên báo, hắn mở miệng hỏi: “Nam Bắc phải hòa đàm thêm một lần nữa sao?”

“…”

“Thiếu soái?”

Kết cục của việc cắt ngang chuyện “ăn uống” của Lâu Thiếu soái chính là cái cổ của Lý tam thiếu lại bị hung hăng cạp một ngụm.

Lý Cẩn Ngôn bụm lấy cái cổ, oán thầm trong lòng, quả nhiên là hổ sao? Chuyên môn lựa cái cổ mà cắn!

“Còn chưa quyết định.” Lâu Thiếu soái thẳng người dậy, rõ ràng Lý Cẩn Ngôn không phải là người đầu tiên nói chuyện này với hắn, “Rất khó làm.”

“Là rất khó làm.” Lý Cẩn Ngôn sửa lại áo.

Trước đó không lâu, sau khi Tống Vũ từng đề xuất với Lâu Thiếu soái về việc thành lập chính phủ liên hiệp Bắc Nam, do chính quyền trung ương quản lý tài chính địa phương. Nhưng bất kể là Lâu Thiếu soái hay Lý Cẩn Ngôn đều cho rằng, vấn đề này rất khó mà làm được. Không ai nguyện ý giao túi tiền của mình cho người khác quản lý, huống hồ là Đại soái ở các tỉnh quân phiệt đã quen làm vua một cõi.

“Không có biện pháp nào tốt hơn sao?” Lý Cẩn Ngôn tựa về phía sau, eo đụng phải mép bàn, đau đến xuýt xoa một tiếng, thế nhưng trong đầu lại lóe lên một tia sáng. Nếu tất cả mọi người đều muốn làm vua một cõi, thế lực nước ngoài cũng không bằng lòng việc thống nhất của Trung Quốc, vậy thì dứt khoát bắt chước chế độ liên bang của nước Mỹ, thống nhất phía dưới chính phủ, tạm thời cứ để người nào làm theo ý người nấy, lại nghĩ cách để quân đội và chính phủ tách rời nhau ra, để chính lệnh của trung ương lưu hành.

Trên lịch sử ghi chép của Trung Quốc ở thời không kia đích xác từng có thử nghiệm như thế này. Ban đầu là do Lương Khải Siêu đưa ra, đưa đến việc một số địa phương có thực lực được phân chia thích hợp. Nhưng nửa đường lại bị chiến tranh Bắc phạt (*) cắt ngang xương, sau đó cũng không thấy ai đề cập tới nữa.

(*) Chiến tranh Bắc phạt: là một chiến dịch quân sự được lãnh đạo bởi Trung Quốc Quốc Dân Đảng từ năm 1926 đến 1928. Mục đích chính của nó là thống nhất Trung Quốc dưới ngọn cờ Quốc Dân Đảng bằng cách tiêu diệt quyền lực của các quân phiệt địa phương. Điều này đã dẫn đến sự kết thúc của chính phủ Bắc Dương và tái hợp Trung Quốc năm 1928.

Nếu hắn nhớ không nhầm, loại chế độ bắt chước liên bang của nước Mỹ này chứa đựng chính thể (*) đặc sắc của Trung Hoa, được người thời đó coi là tự trị liên tỉnh.

(*) Chính thể là hình thức cơ cấu của chính quyền nhà nước. Chính thể và quốc thể phải thích ứng với nhau, chính thể của Trung Quốc là chế độ đại hội đại biểu nhân dân.