Bọn Săn Vàng

Chương 4




ấy một lần cách đây ba hôm ngay tại phòng này. Lúc đó đã quá khuya tôi quay lại đây lục tìm giấy tờ đang cần, hồn ma hiện về đứng ngay đây, cạnh chiếc bàn, quay lưng lại”.

“Rồi sau đó? – ngài hỏi dồn dập.

“Tôi chỉ kêu được một tiếng, tay làm rớt cây đèn xuống sàn, rồi vụt ra ngoài gọi lính gác. Lúc quay lại gian phòng trống trơn”. Lão Tang đưa tay dụi mắt. “Thưa ngài, tôi nhìn thấy y hệt như là quan đang ngồi ở trong thư phòng lúc ban sáng. Lúc đó quan mặc áo xám thắt dải lưng đen. Chiếc mũ rớt xuống lúc ngài té nhào xuống sàn nhà… chết tươi.”

Quan tòa Dee và thừa phát lại Hoong lặng lẽ ngồi nghe, lão kể tiếp:

“Thưa ngài tôi biết là chính quan điều tra về đây cũng nhìn thấy ma! Bởi vậy mà sáng hôm đó trông nét mặt quan có vẻ thất sắc, rồi bỏ đi bất thình lình”.

Quan tòa vân vê hàm ria mép. Một lúc sau ngài mới nói, giọng trầm trầm. “Thật phi lý nếu ta nhìn nhận có hiện tượng ma quái trên đời này. Nên nhớ là đức Khổng tử ngày xưa cũng chỉ có thể trả lời lấp lửng về hiện tượng đó, lúc các môn đồ thỉnh ý ngài. Hơn nữa ta lại đang đi tìm một câu trả lời giải thích nghe sao cho hợp lý”.

Lão Hoong thủng thỉnh lắc đầu.

“Không có chuyện đó đâu, thưa ngài”. – Lão nhắc lại. “Câu trả lời duy nhất là hiện tại hồn ma ngài cựu quan tòa chưa thể nằm yên một chỗ bởi cái chết chưa được báo thù. Xác của ngài còn gởi lại bên chùa, và thiên hạ đồn rằng nếu người sống đến gần xác chết thì hồn ma sẽ báo oán, hơn nữa lúc này thân xác chưa mục rữa.”

Quan tòa Dee đứng phắt ngay dậy.

“Để ta nghĩ lại việc này sâu sát hơn nữa, bây giờ ta về nhà riêng để quan sát bên trong thư phòng”.

“Chắc gì chúng ta nhìn thấy ma lần nữa!” Thừa phát lại Hoong vừa nói vẻ sững sờ.

“Sao lại không nhỉ?” – Ngài Dee hỏi lại - “Người chết muốn được báo thù kia mà. Hồn ma kia phải hiểu là ta cũng đồng tình như vậy, sao lại hại ta được? Khi nào xong việc qua đây thì nhớ ở lại cùng ta. Ngươi có thể nhờ hai lính canh cầm đèn xếp di theo nếu thấy cần.” – Ngài nói ý như nói với chính hồn ma.

Mặc cho đệ tử phản đối, quan tòa bỏ ra ngoài. Lần này ngài đi thẳng qua trụ sở pháp đình, ngài tìm một chiếc đèn lồng bằng giấy dầu.

Lúc trở lại căn nhà bỏ trống ngài đi ngang qua nơi mà ngài đã nhìn thấy hồn ma lần trước. Nhìn hai phía đều có cửa hông, ngài mở cánh cửa bên hông phải nhìn vào trong gian buồng trống trơn, trên sàn nhà bày la liệt những thùng hộp, kiện hàng. Ngài Dee xem xét mấy kiện hàng và những thùng xếp đống chồng chất. Chợt ngài hoảng hồn nhìn theo chhiếc bóng hắt vô một góc tường nhà. Định thần lại đó là bóng của ngài, nhìn quanh không thấy gì khác ngoài những vật dụng của người quá cố.

Ngài lắc đầu rồi bước qua gian buồng phía bên kia, bên trong không có gì, chỉ toàn thấy những chiếc bàn ghế kềnh càng xếp đống lại.

Ở cuối góc là một cánh cửa to được cài then kiên cố. Ngẫm nghĩ một lúc, ngài quay trở ra lại ngoài hành lang.

Cánh cửa phòng được chạm trổ công phu hình rồng cưỡi mây, phần trên bị hổng do lính canh dùng búa phá cửa để xông vào.

Ngài Dee xé toạc mảnh giấy niêm phong của tòa, tự tay mở cửa ra. Giơ cao ngọn đèn lồng ngài đưa mắt quan sát gian phòng. Bên trái là cửa sổ thẳng đứng, khung cửa hẹp, trước cửa là cái tủ chè gỗ mun trên đặt bếp đồng để nấu nước trà. Trên bếp đặt ấm thiếc tròn nấu nước, bên cạnh là một bình gốm men sứ trắng xanh nho nhỏ kiểu lạ mắt. Phần tường còn lại đầy giá sách, nhìn qua tường bên kia cũng vậy. Vách tường phía sau có khung cửa rộng rãi, ô cửa được ráp bằng loại giấy sạch đẹp trang trọng. Trước cửa đặt chiếc bàn gỗ cẩm lai kiểu thời cổ, hai bên có ba ngăn kéo, một chiếc ghế bành rộng đóng bằng gỗ cẩm lai, mót nệm bọc vải sa tanh hồng. Trên bàn không bày biện gì hết chỉ trừ hai giá đèn cầy.

Quan tòa bước vào quan sát mấy vệt đen ngòm còn đọng lại trên chiếc chiếu cói, đặt giữa tù và bàn làm việc. Có thể là vết nước trà trong chén nước đổ hắt ra lúc ngài té sấp xuống sàn nhà. Có thể là quan đun ấm nước trên bếp lò, xong rồi trở lại ghế ngồi. Khi nghe tiếng reo nước sôi, quan bước tới bếp nhấc ấm nước xuống rót vô bình trà. Xong rồi quan rót nước ra chén đứng đó nhấp ngụm trà. Liền khi đó chất độc ngấm vô người.

Chùm chìa khóa còn gắn cẩn thận nơi ổ khóa, ngài mở ra xem và trầm trồ thán phục bộ sưu tập đồ uống trà được tôn vinh như trà đạo xếp ngăn nắp theo hai dãy. Sờ tay vào không dính một vết bụi, hẳn nhiên là quan điều tra và mấy người trợ lý đã kiểm tra kỹ càng.

Ngài bước tới chỗ bàn viết, ngăn kéo trống rỗng, có lẽ quan điều tra đã tìm thấy tất cả giấy tờ để trên bàn của nạn nhân để lại. Ngài Dee thở ra một hơi dài, tiếc là ngài không được tận mắt nhìn thấy căn phòng làm việc ngay sau khi xảy ra vụ án.

Quay trở lại chỗ giá sách ngài lần mò theo từng gáy sách, bụi bám đầy phía trên bìa. Quan tòa chợt bật cười một mình, có lẽ ngài đã tìm ra một điều gì đó mới mẻ hơn mà quan điều tra và mấy người trợ lý không nhìn thấy. Ngài quyết định ở lại xem xét giá sách tỉ mỉ chờ cho đến lúc lão Hoong quay lại đây.

Ngài xoay tròn chiếc ghế bành nhìn ra hướng cửa rồi ngồi xuống. Khoanh tay lại ngài cố nghĩ cho ra tên hung thủ là một hạng người như thế nào. Giết chết một quan lại triều đình chống lại nhà nước, đáng tội nhục hình cho ‘chết lần chết mòn’ hoặc cho ngựa phanh thây xé xác. Hung thủ phải có ý đồ giết người táo bạo mới hành động một cách hoàn hảo như vậy. Nhưng làm cách nào hắn đánh thuốc độc vô nước trà được? Chỉ có thuốc độc trong ấm nước trà thôi, bởi xác trà được đem đi thử không thấy độc. Cũng có thể là hung thủ đem biếu quan tòa một nhúm trà, vừa đủ uống một lần, trà này đã được tẩm thuốc độc trước.

Quan tòa thở dài, ngài đang liên tưởng đến hồn ma vừa được nhìn thấy. Lần đầu tiên ngài được nhìn thấy hiện tượng ma quái và chưa thể nào dám tin được đó là chuyện thật. Biết đâu đó chỉ là một âm mưu. Nhưng chính quan điều tra và lão Tang cũng nhìn thấy kia mà. Vậy thì có kẻ dám liều mình giả ma quỷ ngay trong khuôn viên pháp đình này? Để mà làm gì cơ chứ? Ngẫm lại ngài cho quả đúng thật là hồn ma ngài cựu quan tòa. Ngồi tựa đầu ra sau lưng ghế, nhắm nghiền mắt, ngài cố hình dung nét mặt hồn ma nó như thế nào? Phải chăng hồn ma hiện hồn như một dấu hiệu giúp ngài đi tìm ra ẩn sô của vụ án?

Ngài mở choàng mắt ra ngay, gian phòng lặng ngắt và trống trơn từ bao giờ. Ngài ngồi nán lại một hồi lâu, đưa mắt lờ đờ ngước nhìn về phía trần nhà sơn đỏ chói. Ngài để ý thấy chỗ nước sơn bị tróc ra và một nhúm mạng nhện dồn về phía góc ngay chỗ phía trên tủ chè.

Bỗng đâu thừa phát lại Hoong quay về, theo sau là hai lính gác cầm đèn cầy. Quan tòa ra lệnh để đèn trên bàn, rồi cho lính lui ra, rồi cất tiếng:

“Này Hoong, ta chỉ còn mỗi việc là đọc những chồng sách trên giá. Vậy ngươi hãy giúp ta cùng đọc nhé!”

Lão Hoong vui vẻ nhận lời, tay đỡ lấy chồng sách trên giá gần trước mặt, lão lấy tay áo phủi sạch bụi. Ngài Dee xoay người theo ghế ngồi vô bàn viết, xem qua từng cuốn do lão Hoong xếp sẵn để trên bàn.

Công việc mất hai tiếng đồng hồ cho đến lúc lão Hoong xếp xong số sách trên giá. Quan tòa Dee dựa lưng vào thành ghế rút trong tay áo chiếc quạt giấy. Ngài phe phẩy quạt vừa nói cười vui vẻ “Này lão Hoong, vậy là ta đã hình dung ra được một vài nét mô tả nhân cách độc đáo của nạn nhân xấu số. Ta được xem qua một số bài thơ ngài sáng tác, được viết theo lối cầu kỳ, nhưng nội dung thiếu bề sâu. Phần lớn là thơ ca ngợi tình yêu trai gái, kể lại chuyện mấy nàng kỹ nữ ở kinh đô, ở những nơi quan tòa Wang đến nhậm chức”.

“Thưa ngài, lão Tang vừa tiết lộ mấy việc chưa ai biết.” – Lão Hoong kể tiếp “Đó là chuyện ngài cựu quan tòa có lối sống buông thả, thường xuyên tổ chức đưa mấy nàng kỹ nữ về nhà riêng ngủ lại qua đêm.”

Quan tòa Dee gật.

“Lúc ban nãy ngươi đưa cho ta tập bìa giấy thêu gấm, ta mở ra bên trong toàn là tranh vẽ hình khiêu dâm. Ngoài ra quan còn để lại mấy tập sách bàn về các món rượu, cách chế biến rượu ở từng địa phương, và cả sách dạy nấu ăn. Lại còn mấy bộ sưu tập các thi hào thời cổ đại, quan đã đọc kỹ và ghi chú nhiều chi tiết bên lề từng trang, nhiều tác phẩm Phật giáo và Lão giáo. Nhưng nhìn qua bộ sách của Khổng tử thì không thấy dấu tay người đọc, còn nguyên vẹn như lúc mới mua được sạch. Ta để ý thấy một điểm lạ nữa là có rất nhiều sách về thuật luyện đan. Một vài tác phẩm bàn về trò đố chữ, sách về cơ khí. Còn sách về thuật trị nước, toán học, sử học hoàn toàn không thấy.”

Ngài xoay người trên ghế, nói tiếp: “Đến đây ta có thể nói quan tòa Wang là một nhà thơ không am hiểu về cái đẹp, một triết gia thiên về xu hướng thần bí, đồng thời là một con người chỉ thích thú vui xác thịt, những cuộc vui trần tục. Quan không thích danh vọng, chỉ thích được về nơi thôn dã xa lánh chốn kinh đô, nơi đây được làm vua một cõi, tổ chức một lối sống hợp khẩu vị. Bởi vậy quan không muốn được trên đề bạt chức vụ cao, ta cho là Peng-lail là nhiệm sở thứ chín nơi quan về nhận chức pháp quan. Nên nhớ quan là một nhân vật tài trí, bởi thế mà quan thích sưu tầm tác phẩm bàn về cách đố chữ, thai đố, và những tài liệu về thiết bị máy móc cơ khí. Chính nhờ đó cộng thêm với kinh nghiệm lâu năm trong nghề nên được người dân cảm phục, dù sao không dám nói quan là một người yêu nghề. Quan không màng đến chuyện bầu đoàn thê tử, nên quan không tính chuyện lấy vợ lần nữa, sau khi hai bà vợ trước chết. Vì thế nên ngài sống buông thả như kiếp phù du với mấy nàng kỹ nữ. Quan đã nghĩ ra tên gọi phù hợp với nhân cách riêng của mình để nơi chốn thư phòng.”

Vừa nói ngài vừa cầm chiếc quạt giấy chỉ về hướng tấm bảng khắc mấy chữ treo trên cửa sổ ra vào. Lão Hoong đọc qua không nhịn được cười “NƠI Ở ẦN LOÀI CỎ LANG THANG”.

“Vậy mà ta vẫn thấy có một điểm mâu thuẫn”. Xếp cuốn sổ tay lại ngài mới hỏi “Ngươi tìm thấy cuốn sổ này ở đâu vậy?”

“Thưa ngài nó nằm ngay phía sau dãy sách trên cái giá ở tầng dưới này” – lão Hoong vừa nói vừa chỉ tay về phía đó.

“Trong cuốn sổ này” – ngài Dee nói “chính tay quan ghi chép theo thứ tự, ngày tháng, số liệu kèm theo. Nhìn quanh không thấy ghi rõ chú thích, nhưng ta cho rằng quan Wang là người biết tính toán. Ta giả thiết là quan để lại sổ sách liên quan chuyện tiền nong, để cho lão Tang và mấy người giúp việc lo liệu, có đúng vậy không?”

Lão Hoong gật đầu vẻ tâm đắc.

“Vậy là lão Tang đã giúp tôi hiểu ra câu chuyện”.

Quan tòa Dee lần giở ra từng trang, ngài trầm ngâm nói “Quan đã bỏ ra nhiều thời gian công sức ghi chép lại… Ta chỉ có được manh mối duy nhất là dựa theo ngày tháng đã ghi, số liệu xa nhất là cách nay hai tháng”.

Ngài đứng dậy đút cuốn sổ vào trong tay áo.

“Dù thế nào” – ngài nói “ta cũng phải dành ra thời gian rảnh rỗi nghiền ngẫm, dù sao đây cũng là điểm mâu thuẫn ta cần lưu ý. Điều này giúp ta hình dung ra được khuôn mặt cụ thể của nạn nhân và là bước đầu lần theo manh mối tìm ra thủ phạm.”