Làm đại tướng quân trấn thủ phía đông, đội ngũ về kinh báo cáo của Tạ Chấn không tính là phô trương. Mặc dù như thế nhưng đại trưởng công chúa Chân Ninh vẫn nghi ngại khi hắn mang vài tên tướng quân tinh anh nên trách mắng: “Hiện nay chính là tiết chuyển hè, Đông Nô có đồng cỏ và nguồn nước dồi dào, ngựa khỏe lính mạnh, các tướng quân cần phải cẩn thận phòng thủ. Đại tướng quân mang bọn họ về là có ý gì?”
Tạ Chấn mặt không đổi sắc, nói: “Tháng tư đánh một trận đã làm Đông Nô tổn thương nguyên khí nặng nề, trong năm nay nhất định không dám xâm phạm nữa. Lần này về kinh chính là xin ban thưởng cho những tướng quân có công lao nổi bật.”
Chân Ninh cười nhạt, “Thì ra là vậy! Ta đã nói mà, thường ngày chưa từng thấy bọn họ năng tới như thế. Sổ ghi chép công lao ở đâu?” Tạ Chấn nhịn sự khó chịu trong lòng xuống, dâng sổ ghi chép công lao lên, nói: “Xin giao cho bệ hạ xem qua sổ ghi chép này.” Chân Ninh không khách sáo đoạt lấy, lật xem vài tờ lại cười khẩy một tiếng: “Đại tướng quân thật biết ban ơn. Rõ ràng là bổn phận của họ mà vào trong mắt ngài đã coi là công lao lớn!”
Các tướng quân đang quỳ càng tức giận trong lòng, Tạ Chấn nén giận nói: “Thần tin điện hạ biết rõ đại nghĩa…” Hắn vẫn chưa nói hết, Chân Ninh đã xoay người lui vào trong mành. Tạ Chấn không làm sao được, chỉ đành dẫn các tướng quân thuộc hạ xin cáo lui.
Ra khỏi cửa nách của khu đất cấm trong cung, một tên tướng quân khó nén oán giận, bật thốt lên: “Đại trưởng công chúa khinh người quá đáng!” Tạ Chấn vội vươn tay ngăn lại, nhìn bốn phía rồi mới áy náy nói: “Tạ mỗ không được đại trưởng công chúa coi trọng, làm chư vị tướng quân chịu nhục, thật là hổ thẹn.”
“Đại tướng quân nói gì thế?” Các tướng quân chuyển sang an ủi hắn, “Chân Ninh này loạn việc triều chính cũng không phải dăm ba hôm, không nói đến việc từ lúc bắt đầu đã tin nhóm ti tiện một cách mù quáng, bây giờ càng ngày càng kỳ cục, không ngờ ngay cả những tướng lĩnh như chúng ta mà cũng không coi vào đâu. Việc này thì có liên can gì đến đại tướng quân chứ? Hừ, trời cao sáng tỏ, tất có quả báo.”
Một tên tướng quân lại than: “Nếu không có yêu nữ đó tin lời gièm pha thì sao người nhà của chúng ta lại bị giam ở kinh thành, quanh năm suốt tháng không gặp được một lần?”
“Ở kinh thành không thể so biên cương, nói năng phải cẩn thận.” Tạ Chấn dặn dò vài câu rồi bảo mỗi người bọn họ trở về nhà thăm người thân. Chính hắn cũng thả lỏng dây cương, tùy ý để ngựa chậm rãi đi về phía trước.
Đây là một con ngựa già, đi tới đi lui, chưa về phủ đại tướng quân mà lại đi tới bên ngoài tường của một tòa vườn hoang. Tạ Chấn biết nó đang tìm cổng và sân ngày xưa, vội vàng ghìm chặt dây cương nhìn ra xa. Gốc cây già bên kia tường phủ cây mây xanh biếc, bởi vì lâu không có người xử lý nên đã hoàn toàn không còn kết cấu. Tạ Chấn nhẹ nhàng ghìm ngựa, đi vòng qua một chỗ thì dừng lại bất động.
Trên đầu tường có thể thấy một gốc cây khô, toàn thân quấn đầy dây thường xuân, vì vậy chỗ đập vào mắt vẫn màu xanh biếc. Nhưng nhìn kỹ thì lại phát hiện tất cả các cành đều là màu nâu xơ xác không có dấu vết của sự sống.
“Chết rồi…” Tạ Chấn thương xót trong lòng, nhìn một hồi không chớp mắt, rầu rĩ vỗ cổ con ngựa già: “Đi thôi!”
Tạ Thắng biết cha về nhà nên mau chóng đến nhà chính dâng trà. Tạ Chấn không nhận chén trà mà sờ băng vải trên đầu con trai, sờ tới gáy, Tạ Thắng bị đau mà cau lông mày lại. Tạ Chấn rút về tay hỏi: “Ai đánh?”
Lần trước Tạ Thắng bị anh em nhà họ Tố bắt nạt, lúc viết thư nói cho cha lại bị cha dạy dỗ. Lần này cậu bé không dám nói. Tạ Chấn cũng không ép hỏi, lại bảo: “Hôm nay không phải nên làm nhiệm vụ ở trong cung sao? Sao lại về sớm thế? Có phải đã gây họa không?”
Tạ Thắng vội vàng lắc đầu, cúi đầu buồn bã hồi lâu mới nói: “Cha ơi, về sau con có thể không vào cung nữa được không?” Dứt lời cậu bé lập tức nhìn lén phản ứng của cha. Người cha luôn luôn nghiêm nghị, lúc này khóe miệng nhẹ nhàng cong lên, dường như đang mỉm cười: “Chán ghét cung đình à?”
Tạ Thắng suy nghĩ một chút: “Con cũng không biết… Mặc dù có người muốn gặp và luôn cảm thấy chỉ cần bọn họ còn ở chỗ này thì cung đình không hề đáng ghét. Nhưng cẩn thận ngẫm nghĩ thì lại không muốn gặp họ ở đó. Con thường hay nghĩ nếu như họ không phải là họ, con cũng không phải mình thì tốt rồi…” “Con đứng lên đi.” Cha bỗng nhiên nói như vậy, Tạ Thắng đứng thẳng, mắt đón nhận ánh mắt hiền hòa của cha. “Đã cao như vậy rồi.” Cha ôn hòa đặt tay lên vai cậu bé, nói: “Không sao đâu, cung đình sẽ không đánh bại con. Con chính là con của người đó mà.”
Ánh mắt Tạ Thắng sáng lên, cho rằng cuối cùng cũng có thể được nghe thấy một vài chuyện của mẹ từ chính miệng cha. Ngờ đâu cha giống như nhìn thấy tướng mạo của cậu bé rồi rơi vào suy nghĩ xa xăm, không nói chuyện nữa. Tạ Thắng đợi rồi lại đợi, chỉ chờ được hắn nói: “Con đi chuẩn bị đi, lát nữa cha muốn xem võ nghệ, bài học của con trong nửa năm nay đã tiến triển thế nào.”
Tạ Thắng không che giấu được thất vọng trong lòng, vâng vâng dạ dạ đáp một tiếng rồi đi thay quần áo.
Tạ Chấn cụp mắt xuống, chén trong tay chứa đầy trà hoa quế, dù sao cũng là hoa của năm ngoái, một luồng hương thơm thừa dịp mở nắp ra lập tức biến mất không còn thấy bóng dáng tăm hơi.
Thực ra hắn không thích uống trà hoa quế nhưng không có ai biết cả. Bởi vì hắn luôn chăm chú nhìn như vậy, dường như từng yêu đương với mỗi một đóa hoa quế, muốn tìm lại bóng dáng của nàng từ trong vô số cánh hoa nhưng lại không thể dùng hô hấp của mình mạo phạm nàng vậy.
Buổi tối hôm ấy gió mát dễ chịu nhưng Tạ Thắng lại không ngủ được, dứt khoát ôm hộp dế chạy đến dưới cây hòe trong nhà, vừa hít thở mùi hương giữa lúc đương nở rộ, vừa bắt dế. Cậu bé men theo tiếng động lớn, nhìn thấy ngọn đèn trong phòng của cha lại được thắp sáng. Không lâu sau, cha và hai ba người từ trong phòng đi ra, đi về phía bên ngoài. Gió đưa tới tiếng người khe khẽ, Tạ Thắng nghe thấy hai chữ “khởi hành” thì chua xót trong lòng. Cha luôn thừa dịp sau khi cậu bé ngủ say mà đi. Lần này hắn trở về chỉ có mấy giờ ngắn ngủi như thế. Cậu bé len lén theo sau, muốn lặng lẽ tiễn cha mấy bước nhưng lại nhìn thấy những người đó vận chuyển mấy cái rương lớn lên trên một chiếc xe ngựa.
Tạ Thắng lấy làm lạ, không biết đây là trò gì, nhân lúc người ta không để ý thì chạy tới gần, thấy rương không được khóa lại, trong rương toàn là vải vóc. Cậu bé khép rương lại, phát hiện cha đang nghiêm nghị đứng ở phía sau mình. “Cha ơi, cha đi đâu vậy?” Cậu bé giật mình hỏi.
“Trở về ngủ.” Câu trả lời đơn giản của cha không thể khiến Tạ Thắng thoả mãn, cậu bé nói: “Không, con đi theo cha cơ.”
Giọng điệu quật cường thật quen thuộc… Tạ Chấn ôm ngang con trai lên trên vai, đi nhanh về phía gian phòng của đứa bé. “Cha! Cha! Con đi theo cha cơ!” Đứa bé này không la hét đòi thả mình xuống mà lại dựa vào trực giác kiên trì ý kiến của mình. Tạ Chấn đặt cậu bé xuống dưới đất, thân mình cao lớn chặn ánh trăng trước mặt Tạ Thắng.
Tạ Thắng dời hai bước, chuyển tới chỗ sáng, để cha thấy rõ cái nhìn cố chấp của cậu bé.
“Con biết cha đi đâu không? Con đi làm cái gì?” Tạ Chấn hỏi.
“Con đi theo cha.” Tạ Thắng trả lời như vậy. Đi đến đâu thì có sao? Có cha ở đó thì sẽ không gặp nguy hiểm.
Tạ Chấn nhìn ra suy nghĩ của cậu bé, cười lên. Tạ Thắng lập tức cảm nhận được sự ôn hòa của hắn, cũng bắt đầu cười.
Tạ Chấn bỗng nghĩ: Chắc trong mắt người khác, khuôn mặt tươi cười của cha con họ cũng không giống nhau nhỉ? Nhưng đã sao chứ? Bọn họ đều cười rất thật lòng thật dạ.
“Xe ngựa tròng trành, không được kêu khổ đâu đấy.” Hắn nói.
Dường như đời này vẫn chưa từng đi xa nhà như vậy. Tạ Thắng nghĩ thầm.
Xe ngựa tiến về phía trước hướng về nơi mà cậu bé không quen thuộc, dần dần, vài cái miệng rương lớn không an phận như lúc đầu để lên xe nữa, cậu bé vẫn mạo hiểm ở giữa chúng tìm sự thăng bằng. Khi đường đi kết thúc, Tạ Thắng nóng lòng nhảy ra khỏi xe ngựa, đặt mình trong một mảnh vườn hoa bao la. Cậu bé chưa từng thấy kiến trúc như vậy, cũng chưa từng thấy gió và bầu trời sao như vậy. Cung đình tráng lệ không trang nghiêm bằng nơi đây. Gió trong kinh giỏi ca múa, luôn mang theo tiếng chuông, tiếng nhạc hoặc mùi hương nhà ai chứ không buông mình khắp thiên nhiên như chỗ này. Trong kinh, cảnh trí do sức người sáng tạo ra rất nhiều, trời sao thường bị người ta quên lãng, còn trời sao nơi đây là cảnh sắc duy nhất.
Có người xách ngọn đèn tối, xuyên qua bóng đêm đi tới. Tạ Chấn ôm quyền với y, y cũng khom người làm lễ. Tạ Thắng tò mò quan sát: Là một hoạn quan, tuổi tác lớn nhưng hành động vẫn lưu loát. Lúc y nhìn thấy Tạ Chấn thì rất bình tĩnh nhưng khi nhìn thấy Tạ Thắng thì không nhịn được mà tỏ vẻ hãi hùng. “Xảy ra chuyện gì thế?” Y nghi ngờ đảo mắt nhìn về phía Tạ Chấn, trong tiếng nói có sự kinh sợ và lo lắng.
“Bạch công công không cần phải lo lắng, tất cả đều tốt.” Tạ Chấn trấn an: “Đứa bé này nhất định phải đi theo tôi, không cản được nó.” Lúc này Bạch công công mới thở phào, ôn hòa nói: “Ngài ấy trưởng thành rồi.”
Tạ Chấn nhỏ giọng hỏi: “Người đâu?”
“Đang chờ trong điện thờ phụ đấy.” Bạch công công dứt lời thì lẳng lặng dẫn đường cho họ.
Tạ Chấn không nói lời nào, Tạ Thắng bị dáng vẻ trang trọng của họ dọa cho càng không dám lên tiếng. Đi thẳng đến trước một cánh cửa gỗ mờ tối, Bạch công công dừng bước lại, Tạ Chấn nói với con trai: “Tháo băng vải ra.”
Tạ Thắng ngẩn người, thấy vẻ mặt cha không cho phép nghi ngờ, hơi không tình nguyện tháo băng vải trên đầu. Vết thương của cậu bé sắp khép lại, lúc này hình như lại rách ra nhưng cậu bé không dám nói. Tạ Chấn lại bảo: “Bên trong là một vị nương nương, con biết rõ bái kiến thế nào không?” Tạ Thắng gật đầu, thấy cha nhẹ nhàng đẩy cửa ra, một bức tranh cuộn sâu thẳm điển nhã đang mở ra trước mắt họ.
Trong cung điện yên tĩnh, mơ hồ có thể thấy đường nét xà nhà cao lớn, đóa hoa mạ vàng lờ mờ nổi lên một điểm sáng kỳ dị, trên xà nhà treo đèn trong cung nhưng chỉ có giá cắm nến hai bên tọa tháp có ánh lửa nhảy múa. Cung điện ảm đạm này không khiến người ra sinh ra chút sợ hãi và áp lực nào vì mặt tây có một cái cửa sổ thông lên tận nóc được mở hết ra, ánh trăng như tuyết lại như bạc cuồn cuộn trút xuống.
Trong ánh trăng ấy, một người phụ nữ đứng bên cửa sổ. Tạ Thắng vừa thấy nàng thì trong lòng “a” một tiếng, nhớ lại tên của mình – nguyệt sinh… Người phụ nữ này mới giống như sinh ra từ trong ánh trăng, khuôn mặt và quần áo đều thuần khiết không tỳ vết.
Không biết có phải cha cậu bé bị ánh trăng sáng tỏ cảm hoá hay không mà một gối đặt xuống đất quỳ trước mặt nàng. Tạ Thắng vội vàng cùng quỳ xuống. Vị nương nương kia đã ngồi yên ổn rồi, Tạ Thắng không nhịn được lại giương mắt nhìn nàng. Ánh trăng màu bạc ở sau lưng nàng, ánh nến màu vàng ở trước mặt nàng thực sự là sự tồn tại huy hoàng trong bóng tối.
Nàng ban ghế ngồi cho Tạ Chấn, tiếng giống như dòng chảy trong vắt làm người ta phấn chấn.
“Anh dẫn nó tới, là đã xảy ra chuyện gì?” Nàng chậm rãi hỏi, giọng điệu lơ lửng như nói cho người nghe rằng trên đời không còn tin tức nào có thể lay động tâm hồn nàng nữa.
“Không có việc gì. Thắng Nhi cố chấp muốn theo tôi.” Tạ Chấn nói: “Tôi đã giao vật cần thiết của thu đông năm nay cho Bạch công công rồi. Không biết nương nương còn có dặn dò đặc biệt gì không.” Tố Doanh lắc đầu, vẫy tay với Tạ Thắng: “Con tới đây! Đến gần một chút.”
Tạ Thắng nhìn cha, được hắn cho phép bèn tao nhã lễ phép quỳ đến chỗ cách Tố Doanh mấy bước. Tố Doanh lại vẫy tay nói: “Nào, đến bên cạnh ta.” Tạ Thắng lấy làm kinh hãi, len lén quay đầu nhìn cha, thấy hắn vẫn cổ vũ, mới lớn mật quỳ gối bên chân Tố Doanh.
Tố Doanh sờ gò má của cậu bé, dịu dàng hỏi: “Con mười tuổi rồi nhỉ?” Lúc nàng rút tay về, kinh ngạc thấy trên ngón tay nhuộm vết máu, lập tức phát hiện gáy Tạ Thắng có một vết thương mới, vì vậy thả lỏng khuôn mặt: “Chuyện gì thế này?”
Tạ Chấn rất áy náy trong lòng, nói: “Đang không muốn để nương nương thấy nên mới căn dặn nó gỡ băng vải xuống… Hình như là hôm qua lúc chơi đùa với bạn nên bị thương.”
“Là A Thọ làm?”
“Chắc là không phải.” Tạ Chấn cười nói: “Hỏi nó thì nó không nói. Đứa bé này mà hạ quyết tâm thì có thể giấu hết, rất giống mẹ nó.”
“Lúc bị đánh mà giống như mẹ nó thì không tốt đâu.” Tố Doanh rút một dải lụa dài ra quấn lên vết thương cho Tạ Thắng, còn nói: “Giống cha nó một ít thì mới tốt.”
Tạ Thắng thấy lời nói của nàng thân thiết, trong lòng cũng không quá kiêng dè nữa, con mắt quay tít một vòng, nhỏ giọng hỏi: “Cha con sẽ làm thế nào ạ?” Cậu bé vừa nói vừa lén nhìn Tạ Chấn.
Tố Doanh nhếch miệng cười, “Ôi, ngài ấy sẽ tỉnh bơ để kẻ coi thường ngài thua rất thảm đấy.” Sau khi Tạ Thắng nghe xong thì khẽ giật mình nhìn cha, nhìn thấy hắn lộ ra một nụ cười khổ.
Tố Doanh bảo Tạ Thắng ngồi bên cạnh nàng rồi hỏi Tạ Chấn: “Gần đây tướng quân có khỏe không? Lần này về kinh báo cáo vẫn thuận lợi chứ?”
Vẻ mặt Tạ Chấn không quả thoải mái, nói: “Mấy năm này Chân Ninh làm được vài chuyện lớn nên rất dương dương tự đắc.” “Vinh An thì sao?” “Vinh An là vợ người ngoài, không tiện nhúng tay. Hơn nữa Chân Ninh cũng không tin tưởng nàng ấy. Nhưng Vinh An có tính toán khác, nàng có đứa con gái sắp trưởng thành rồi.”
Tố Doanh khẽ cười lạnh: “Định đưa vào cung à? Nàng còn chẳng có sáng kiến bằng cô nương nhỏ Chân Ninh.”
“Qua một trăm năm nữa thì cũng chỉ là mấy chiêu như thế.” Tạ Chấn khinh thường, bỗng nhiên thấy ánh mắt con trai lấp lánh, hắn vội hỏi: “Nương nương, vẫn nên chớ nói những lời này ngay trước mặt con trẻ.”
Tố Doanh lại bảo: “Đứa bé hiểu chuyện đương nhiên sẽ không nói bừa. Nếu không hiểu chuyện thì cũng sẽ không coi những lời này là thật. Lời chúng ta đã nói lúc mười mấy tuổi còn để ở trong lòng bao nhiêu đâu?” Tạ Chấn ngừng một lát, trả lời rằng: “Rõ mồn một trước mắt.”
Tố Doanh ngây ra trong nháy mắt, uyển chuyển cười nói: “Nói như vậy, tướng quân ắt là một người hiểu chuyện.” Tạ Chấn khẽ nở nụ cười, lại nghĩ tới việc khác, cau mày bảo: “Điều tôi lo lắng chính là A Thọ. Tính cách ngài ấy cởi mở không chịu gò bó, sợ rằng càng ngày càng không hợp lòng kẻ đang cầm quyền. Tuổi tác của ngài ấy còn nhỏ, chỉ sợ sẽ có nguy hiểm.”
Tố Doanh lắc đầu nói: “Không đâu. Nàng ta sẽ không làm tổn thương A Thọ, nàng ta không có con rối có thể thay thế A Thọ.”
Tạ Chấn nhìn chằm chằm Tố Doanh một khắc, dường như đã quyết định, hỏi: “Nếu như trong cung cần một người nắm quyền mới thì người này ắt phải có địa vị cao quý không kém đại trưởng công chúa Chân Ninh, tính cách nhã nhặn rộng lượng khác xa Chân Ninh, xuất thân từ nhà dòng dõi, có thể làm những quý tộc bị Chân Ninh loại bỏ khâm phục…”
“Xuỵt.” Tố Doanh giơ ngón tay lên, cố ý lắng nghe. Tạ Chấn cũng nghe thấy tiếng dế kêu trong điện thờ phụ yên tĩnh.
Tạ Thắng thẹn thùng móc chiếc hộp trúc nho nhỏ từ trong ngực ra, lập tức bị cha răn dạy: “Còn ra thể thống gì nữa?” Cậu bé ấm ức nghĩ: “Làm sao con biết phải tới bái kiến một vị nương nương chứ?” Cậu lén nhìn phản ứng của vị nương nương ấy, chỉ thấy nàng mỉm cười hỏi: “Cho ta xem được không?” Tạ Thắng bỗng thấy thả lỏng, vui vẻ đặt chiếc hộp nhỏ đặt ở trước mặt nàng.
“Con biết tại sao dế bị nhốt trong lồng sẽ đấu đá không?” Nàng làm như đang hỏi Tạ Thắng, nhưng không đợi cậu bé câu trả lời đã nói: “Bị nhốt ở chỗ nhỏ hẹp như thế nên cho rằng chỉ cần giết chết đối phương là có thể trở thành là chúa tể của vùng trời đất này. Để tranh đoạt cái hộp này mà chúng nó đã quên thế giới rộng lớn dường nào.” Nàng giương mắt lên, ánh mắt trong veo nhìn thẳng Tạ Chấn: “Nếu như chúng ta là dế thì phải làm sao đây? Nhảy ra khỏi cái hộp này, mỗi đêm yên lòng ca hát, không phải là rất tốt ư?”
Tạ Thắng phát hiện cha lâm vào trầm mặc lạ thường, hiểu ra lúc này nhất định phải ứng đối một cách cơ trí, thế là khờ dại hỏi ngược lại: “Dế thì làm sao có khả năng nhảy ra khỏi hộp được ạ? Trừ phi gặp được một người chủ nhân hậu phóng sinh, nếu không cho đến tận lúc nó đã quên mất bên ngoài còn có một thế giới thì cũng chẳng có cách nào ra khỏi đâu.”
Tố Doanh nghe đến ngẩn ra, một lát sau mới nói: “Thế con có thể thả con dế này vào trong vườn vì ta không? Để ta có thể thường xuyên nghe thấy tiếng kêu của nó.” Tạ Thắng gật đầu, ụp hộp dế xuống rồi xin cáo lui, lúc cậu bé bước qua cửa chợt nghe tiếng ho liên tiếp không đè nén được của nàng. Bên trong điện trống trải lập tức đầy tiếng thở dốc đau khổ vang vọng của nàng. Tạ Thắng giật nảy mình, quay đầu nhìn lại: Cha vậy mà lại đi tới bên nàng, một tay đỡ vai nàng, tay kia vỗ nhẹ lưng nàng.
“Cứ tiếp tục như vậy, người sẽ biến thành thế nào?” Tạ Chấn cau mày thật chặt, khẽ vuốt lưng Tố Doanh.
Tạ Thắng nhìn thấy thì sợ đến ngây người ra. Bạch công công gõ vào vai của cậu bé thì cậu mới vội vàng khép cửa lại, ngạc nhiên và nghi ngờ đến giữa đình viện thả dế đi. Thấy Bạch công công ngồi dưới hành lang, Tạ Thắng đi qua ngồi vào bên cạnh y, chững chạc đàng hoàng hỏi: “Xin hỏi công công xưng hô thế nào?”
“Tiểu nhân họ Bạch. “
“Vậy tôn húy của vị nương nương này là gì ạ? Xin Bạch công công báo cho biết để ngày sau hạ quan tránh.” Tạ Thắng thuần thục nói ra câu ấy, Bạch công công cười híp mắt nhìn cậu bé, trả lời nói: “Tên húy của nương nương là Doanh, chữ Doanh trong ‘trì nhi doanh chi, bất như kỳ dĩ"[1].”
[1] Một câu trong Đạo đức kinh của Lão tử, có nghĩa là giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.
“Doanh trong ‘đại doanh nhược xung, kỳ dụng bất tận"[2].” Tạ Thắng lẳng lặng nhìn ánh sao đầy trời, lại hỏi: “Có chuyện xin Bạch công công chỉ giáo cho: Tại sao từ trước đến giờ ở trong cung tôi chưa từng nghe nói tới vị nương nương này? Ngài… là người thế nào và tại sao lại ở nơi đây?”
[2] Một câu trong Đạo đức kinh, mang nghĩa rất đầy mà ngỡ như vơi, nhưng dùng không bao giờ hết.
Bạch công công rơi vào trầm tư, như là khó có thể đưa ra kết luận cuối cùng. Không biết bao lâu sau, y mới nói: “Người là một người… vốn có thể trở thành một câu chuyện truyền kỳ.” Câu trả lời này rất mơ hồ, Tạ Thắng không hiểu nên còn muốn hỏi lại.
“Xuỵt.” Bạch công công thấp giọng nói: “Nghe kìa.”
Dế bắt đầu ca hát rồi.