Thượng sư Đặc-ni được công nhận là một vị hóa thân thù thắng, công phu cao, thành tựu đại viên mãn.
Thời thanh niên ngài trường kỳ bế quan khổ tu, chứng thực kiếp trước giác tỉnh tròn đầy.
Bề ngoài ngài làm ra vẻ như là kẻ phong điên, nhưng có đủ thần thông tự tại.
Ngài thường đem giáo pháp làm lợi chúng sinh hữu duyên.
Mặc dù có thần thông nhưng ngài không hiển lộ cẩu thả, chỉ khi quán sát cơ duyên kỹ càng rồi, ngài mới thực hành bi hạnh lợi sinh.Thế nên, dù có nhiều người thỉnh ngài quán sát vị lai hay các nhân duyên khác, ngài thường dịu dàng từ chối, lấy cớ mình là phàm phu, không rành việc ba đời và giải thích rằng tất cả đều do nghiệp quá khứ đã chín muồi nên trổ quả, cần thản nhiên gánh lấy… và chân thành cầu Tam bảo gia trì cho tất cả vô ngại.Nhưng khi gặp nhân duyên thù thắng, thì ngài cũng tùy cơ tiết lộ, làm lợi cho chúng sinh hữu tình.Bây giờ tôi xin ghi lại sơ những điều mình đích thân chứng kiến cảnh ngài dùng trí tuệ cao thâm quán sát nhân quả ba đời… để chia sẻ cùng mọi người.Đầu tháng 6 năm 2000, ngài được mời đến Trung Quốc hoằng pháp, tạm trú vài ngày ở Thành Đô.
Được vô số tín chúng đến bái kiến, thỉnh giáo.
Ngài không nề mỏi mệt luôn đáp ứng cho họ mãn nguyện.Một chiều nọ, có cô X khoảng tuổi trung niên, đến bái kiến thưa thỉnh, cầu ngài quán sát xem dùm tình huống chuyển sinh của thân mẫu đã quá cố…Cô x kể rằng vao năm 1994, do gây cãi trong gia đình, mẫu thân cô uống thuốc độc tự sát.
Khi đó cô chưa biết Phật pháp, chưa qui y Tam bảo.
Do chẳng hiểu đạo nên không kịp thời làm siêu độ cho mẫu thân.
Mấy năm sau cô mới qui y Tam bảo, học hỏi giáo lý Phật và biết được người tự sát đa phần đều phải đọa địa ngục, do vậy trong lòng hết sức lo âu, nên khẩn cầu ngài quán sát siêu độ giùm.Sau khi tôi phiên dịch cho ngài nghe xong, ngài khai thị:– Ta là phàm phu, không thể quán sát mẫu thân con hiện thời ở đâu.
Nhưng nếu con phóng sinh năm trăm mạng, ta sẽ phụ gia công tu trì hồi hướng, người chết ắt có thể vãng sinh cõi lành.Cô X nghe dạy, cảm ân vạn phần, không ngừng hướng ngài đảnh lễ, mắt tuôn lệ đầm đìa.Có lẽ nhờ hiếu tâm chiêu cảm, Đại sư bỗng thốt ra lời giải rõ việc chuyển sinh của thân mẫu cô.Té ra mẫu thân người Ấn Độ của cô, sau khi tự sát rồi, lập tức đọa vào cõi ác, sinh làm độc xà.
Cứ thế trải qua nhiều kiếp sinh sinh, tử tử… bà vẫn làm độc xà, chưa từng thoát ly thân rắn.Sau này, nhờ người nhà thỉnh Tăng chúng siêu độ cho, nên mẫu thân cô trong thời gian ngắn, tạm thoát kiếp độc xà, được chuyển sinh vào cõi lành.
Nhưng do thiếu thiện căn, chẳng được biết Phật pháp tu trì, nên bà lại đọa làm độc xà tiếp tục.
Cứ thế mang thân rắn tới lui rất nhiều lần.Kỳ này Đại sư đặc biệt hứa sẽ tụng kinh gia trì, hỗ trợ bà vãng sinh Tịnh độ.
Ngài còn dặn dò cô X nhất định phải tạo phúc: Phóng sinh, tụng kinh… hồi hướng cho mẹ.Tôi phiên dịch lời ngài dạy cho nữ sĩ nghe, cô phi thường cảm kích, xác nhận: Sư nói về mẹ cô như thế là rất đúng.Bởi vì, lúc mẫu thân qua đời, cô vẫn chưa qui y, mãi đến 2005 mới bắt đầu qui y.
Qui y xong thì cô đã nhiều lần tại các chùa trên đất Hán tổ chức Đạo tràng Thủy lục để cầu siêu cho mẫu thân.Sau đó cô thường nằm mộng thấy mẹ mình hiện tướng rất thống khổ.
Vì vậy trong lòng luôn lo lắng bất an.Gần đây có lần cô nằm mơ thế này: Mới đầu thấy mình cùng mẫu thân đi dạo trên đại lộ, sau đó thì không thấy mẫu thân đâu, chỉ thấy có con đại mãng xà đang đẻ trứng bên đường.Tỉnh mộng rồi, trong lòng cô càng thêm bất an khủng hoảng, sợ rằng mẫu thân đã đọa vào thân rắn.Lần này nghe tin Đại sư tạm lưu lại Thành Đô, cô mạo muội đến thỉnh giáo.
Không ngờ may mắn được nghe ngài nói ra chuyện chuyển sinh của mẹ.
Đối với ân đức này, cô vô vàn tri ân và càng tăng thêm tín tâm.Cô hứa sẽ làm theo lời ngài dạy, nỗ lực tạo phúc cho mẹ và xin được y chỉ Thượng sư, nương theo ngài tu trì thật tốt, để sớm thoát luân hồi, làm lợi chúng sinh.Những người có phúc duyên hiện diện tại đó, sau khi nghe Đại sư giảng, đều phát sinh tín tâm đối với ngài và nhân quả ba đời, nguyện theo ngài, hành pháp tu trì.Những điều tôi ghi thuật ra đây, đều có chúng cư sĩ tại hiện trường làm chứng, là chuyện chân thực không dối.Giải thích thêm:Có những cuốn sách do người khai mở thiên nhãn (bên Tây phương lẫn Đông phương) viết thuật, họ kể về cảnh giới của người tự sát sau khi chết rất thê thảm, có nhiều điểm giống nhau.
Nếu người tự sát biết rõ cảnh khổ khốc liệt đang đón chờ thì chắc chắn họ sẽ không dám tìm đến cái chết.Kẻ tự sát sau khi chết rồi, phải nhận lãnh thống khổ to lớn gấp trăm lần khi sống.
Tất nhiên thông thường họ phải đọa địa ngục.
Nhưng do dương thọ chưa tận, đời này quả báo phải trả cũng chưa hoàn xong, nên quả báo càng chồng chất và họ phải tự gánh lấy, chưa kể còn có thêm tội bất hiếu và lỗi tự hủy hoại thân.Sau khi người tự sát được định án xong, liền bị quỷ sứ đưa đến chỗ họ đã tự sát.
Nếu tuổi thọ họ là 70 mà 40 đã tự sát thì họ phải quay về địa điểm mình đã tự sát, hằng ngày tái hiện lại hành vi này, kẻ nhảy lầu thì mỗi ngày đều tại địa điểm đó tái hiện động tác nhảy lầu, nghĩa là phải diễn lại động tác đã tự sát của họ suốt ba mươi năm, cho đến khi hết dương thọ thì mới rời khỏi nơi đây và quay xuống địa ngục thọ báo, mãn kiếp thì lên làm súc sinh hoặc người không bình thường hay tàn tật.
Hơn nữa, họ còn bị nghiệp tự sát tiền thế một bề đeo đẳng khiến họ đời đời kiếp kiếp ưa tự sát, điều này rất đáng sợ, vì chủng tử tự sát đã đeo theo, ăn sâu vào tàng thức họ, vì vậy ngàn vạn lần bạn không nên tự sát, vì sẽ khổ vạn kiếp khó ngoi lên.Lạt ma () Đỉnh Quả Khâm từng nói: Khi một người chọn tự sát, trừ việc thần thức phải đi theo ác nghiệp ra, họ tuyệt không có được lựa chọn nào khác, chưa kể họ có thể bị lệ quỷ khống chế, sử dụng lực sinh mệnh của họ.Lúc sống, đa số người đều cho rằng: Chết là hết, là kết thúc, là giải thoát khỏi mọi thống khổ, họ hoàn toàn không biết rằng sau khi tự sát xong họ sẽ khổ khốc liệt, lúc này có hối hận thì cũng đã muộn.Những vong tự sát rất khó có được cơ hội sinh làm người.
Bởi thân người khó được mà họ lại chẳng biết trân quý, tự đi tìm cái chết, phụ bỏ thân người, phụ bỏ cơ hội sống nhân nghĩa lương thiện, phụ bỏ ân dưỡng dục của cha mẹ.
Người tự sát còn gây ra nhiều ảnh hưởng xấu cho nhân gian, nên họ thường phải sinh vào cõi thú, không dễ mang thân người..