Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Chương 113: Cầu người




Trên Tiên Đô dòng rối loạn.

Phương Trữ tựa vào thành cầu ngọc ở trước Toạ Xuân Phong, rướn người ra nhìn xung quanh bên dưới cầu.

Hai tiểu đồng tử lượn qua lượn lại dưới chân hắn, vác theo cây phất trần phải to bằng cả người chúng rồi trổ giọng, “Ngươi đang nhìn cái gì đấy?”

“Đừng nhoài người xa như vậy, cẩn thận té xuống đó.”

“Đúng! Té xuống dễ mất mạng lắm đó.”

“Ngươi mà mất mạng là khổ cho tụi ta lắm đó, trước khi xuống phàm đại nhân nhà ta đã dặn kỹ chúng ta phải coi… sóc ngươi cho tốt.”

Tiểu đồng tử khựng lại giữa câu, nhưng bấy giờ toàn bộ chú ý của Phương Trữ đều đặt dưới chân cầu rồi nên vốn dĩ không để tâm nghe cho lắm, thành thử cũng không phát hiện ra.

Hắn nghe tiểu đồng tử lải nhải nhức cả đầu, bèn đáp bừa, “Không té được đâu, ta đang ngắm nhân gian.”

Bên dưới những cây cầu ngọc trên Tiên Đô không có nước chảy mà toàn mây mù cuộn trôi. Qua màn mây mù có thể thấp thoáng trông thấy những hình ảnh của nhân gian.

Nhưng Phương Trữ không tò mò thưởng ngoạn cảnh sắc. Thực chất đã nửa ngày rồi không nhận được tin tức gì từ thành chủ nhà hắn, hắn sợ xảy ra chuyện không hay nên không làm sao ngồi yên một chỗ được.

Thực lòng, hắn rất muốn xuống nhân gian xem tình hình ra sao rồi nhưng không dám hành động hấp tấp, đành phải dựa người vào thành cầu ngọc mà vò đầu bứt tai.

Cái bộ dạng đần thối này sắp đạt đến trình của Ninh Hoài Sam luôn rồi.

Phương Trữ tự giễu với lòng.

“Dưới nhân gian có gì để xem?” Tiểu đồng tử còn đang thắc mắc. “Không phải ngươi từ nhân gian tới hả? Nhìn ngắm mỗi ngày rồi còn có gì mới nữa?”

Phương Trữ trả lời một cách khô khan, “Khác chứ, ta chưa từng đứng nhìn nhân gian từ một nơi cao như thế này. Một đời thường nhân có mấy dịp được lên Tiên Đô, khó khăn lắm ta mới có cơ hội này nên tất nhiên phải tranh thủ nhìn một chút.”

“Vậy ngươi có thấy chuyện gì mới lạ không?” Tiểu đồng tử hỏi.

“À…” Phương Trữ đang tính trả lời đại thì chợt nhận thấy đám mây mù dưới chân cầu thình lình chuyển động, loáng cái đã dày lên như canh súp trắng.

Vì vậy, nhân gian khuất dáng bên dưới mây nồng, chẳng còn nhìn thấy được nữa.

“Này, đám mây mù này là sao thế?” Phương Trữ chỉ xuống dưới cầu và hỏi hai nhóc tiểu đồng tử. “Tại sao tự dưng lại dày lên như vậy?”

Tiểu đồng tử tỏ vẻ vui mừng, nói, “Đây là việc tốt đấy.”

Phương Trữ hỏi, “Cái gì tốt?”

Tiểu đồng tử cho hay, “Nó có nghĩa là người ta cúng kiếng rất nhiều dưới nhân gian nên hương hoả Tiên Đô được phồn thịnh hơn!” 

Đột ngột như vậy?

Phương Trữ tự nhủ trong bụng.

Trong mấy chục năm làm tà ma ở hiện thế, hắn từng nghe qua đủ loại tin đồn, có rất nhiều trong số đó kể về Tiên Đô — điều mà nhiều người biết tới nhất chính là “Hương hoả càng dồi dào, Tiên Đô càng hùng mạnh”.

Nhưng hương hoả không nhiều lên một cách vô cớ.

Hắn hiểu quá rõ điều này.

Con người cầu phúc ngày này qua năm nọ thì số lượng cũng chỉ tầm bấy nhiêu, chắc chắn không tăng đột ngột trong nháy mắt thế được. Những đợt tăng nhanh thường không bắt nguồn từ cầu phúc mà từ cầu khấn.

Là lời khấn cầu khi nguy nan, khấn cầu khi hoảng sợ, khấn cầu lúc lâm chung.

Năm xưa, Phương Trữ từng thấy, và từng tự mình trải nghiệm khi bị trọng thương đến độ không hơn gì tấm giẻ rách. Nhờ vậy, hắn đã hiểu quá tường tận…

Dưới nhân gian, nơi hung hiểm nhất là nơi xây nhiều tượng thần nhất, lúc loạn lạc nhất là lúc người ta dày công cúng kiếng nhất. Chỉ những khi không biết nên làm sao, bá tánh mới tìm đến việc khấn cầu điều may mắn như một cứu cánh sau cùng.

“Nhưng mà nhân gian chỗ các ngươi có loạn lạc lắm không?” Phương Trữ hỏi trong ngờ vực.

Hai tiểu đồng tử đưa mắt nhìn nhau, không biết phải trả lời câu hỏi này thế nào. “Sao cơ?”

“Ta từng lang thang ở bên dưới một chuyến trước khi bị đưa lên Tiên Đô,” Phương Trữ lầm bầm, “ta nhớ là vẫn ổn mà.”

Trừ khi bỗng dưng gặp phải một thảm hoạ khổng lồ, bằng không ở đâu ra có nhiều người cầu khẩn thần tiên phù hộ cùng một lúc như vậy?

Nhưng nhân gian ở đây đâu có giống đang phải gánh chịu thảm hoạ gì…

Phương Trữ còn đang thắc mắc thì đã nghe tiểu đồng tử hô lên, “Thưa đại nhân! Đại nhân đã trở lại rồi ạ!”

Hắn nghe bọn nhóc gọi thì ngẩng đầu lên, trông thấy “Linh Vương” mang mặt nạ xuống nhân gian vừa quay trở lại. Thoắt một cái, người kia đã thình lình ngừng bước trên cây cầu ngọc.

Phương Trữ vừa nhìn thấy y thì suýt nữa buột miệng, “Thành chủ nhà ta đâu? Các ngươi có gặp ngài ấy không?”

May mà tính hắn không lỗ m ãng như Ninh Hoài Sam nên kịp ngừng lại trước khi thốt ra thành lời. Bởi lẽ hắn cảm giác được vị “Linh Vương” này có gì khang khác thời điểm trước khi xuống nhân gian.

“Thưa đại nhân, có việc gì mà người đi lâu thế ạ?” Tiểu đồng tử ngước cao mặt lên và ra rả không thôi.

Linh Vương không trả lời.

Dường y không nghe thấy lời hỏi han của tiểu đồng tử mà chỉ lẳng lặng đứng bên hông cầu, trầm tư mân mê thành cầu bằng ngọc.

Có lẽ y không cởi mặt nạ vân bạc khiến người ta không nhìn rõ cảm xúc trên mặt nên Phương Trữ cảm thấy rờn rợn vô cớ. May mà hình thể y trông vẫn như vậy chứ không ắt đã khiến hắn sinh nghi rằng có một người khác đang đứng sau tấm mặt nạ.

Linh Vương không mở miệng, hai tiểu đồng tử cũng im lặng theo. Khi hai đứa nâng phất trần mà không nói tiếng nào nhìn không khác gì một loạt các tiên sứ, tiên đồng khác trên Tiên Đô, bỗng chốc mất đi hẳn sức sống.

Đây thật sự là Ninh Hoài Sam và mình năm xưa ư?

Phương Trữ săm soi mấy bận, nhủ thầm trong bụng.

Trong sự yên tĩnh, bầu không khí trên cây cầu ngọc trở nên căng thẳng đến lạ thường. Cho đến khi một bóng người khác bước đến sau “Linh Vương” mấy bước.

“Thiên Túc đại nhân.” Phương Trữ gọi to.

Thật sự hắn không thể ngờ có một ngày phải nhờ đến Thiên Túc đại nhân để phá vỡ sự căng thẳng. Chính như Thiên Túc trước sau như một, không bao giờ thay đổi, nhờ vậy mà giúp người ta an lòng hơn một chút.

Thiên Túc nghe thấy tiếng gọi, liếc mắt nhìn sang hắn. Đến cả cái liếc mắt này cũng quá mức quen thuộc, đến nỗi cho Phương Trữ cảm thấy người này không khác gì Tiêu Phục Huyên của hiện thế.

Trong lòng cảm giác như vậy nên hắn đã chủ động hỏi chuyện Thiên Túc, “Thưa đại nhân, hai người có… có gặp phải chuyện gì dưới nhân gian không?”

Ví dụ như chạm mặt người y hệt như hai người?

Có trò chuyện với nhau chứ? Có xuống tay với nhau không? Bên nào chiếm ưu thế hơn?

Phương Trữ thử dò la nhưng không dám nói quá cụ thể.

Thế mà hắn vừa dứt lời, Linh Vương đã ngoảnh phắt đầu sang nhìn hắn.

Phương Trữ giật thót tim, liền đổi sang chuyện khác, “Dưới nhân gian đang có chuyện loạn lạc gì à? Ta vừa thấy mây dưới chân cầu đột nhiên dày hẳn lên.”

Thiên Túc vừa đặt chân xuống cạnh thành cầu, nghe thế thì ngừng bước và ngoái nhìn bên dưới. Trông thấy mây mù dày đặc như canh trắng, hàng mày y nheo lại cực khẽ.

***

Hiện thế, Tước Bất Lạc.

Tiêu Phục Huyên khựng người, trên mặt hiện ra cùng một nét biểu cảm.

Ô Hành Tuyết thấy vậy bèn hỏi, “Có chuyện gì vậy?”

Tiêu Phục Huyên: “Tiên Đô dòng rối loạn nhận được rất nhiều hương hoả phụng thờ.”

Ô Hành Tuyết: “Bất chợt à?”

Tiêu Phục Huyên gật đầu.

Ô Hành Tuyết không lấy làm ngạc nhiên, song vẫn sa sầm mặt.

Càng nhận được nhiều hương hoả phụng thờ, Tiên Đô càng cường thịnh dài lâu. Nói cách khác, nếu Thiên đạo Linh đài vốn đã cố tình can thiệp và tác động lên một số chuyện thì trong trường hợp này, sự can thiệp và ảnh hưởng của nó sẽ càng mạnh mẽ hơn, đến độ không kháng cự được.

“Nó làm như vậy để có thể khống chế hoàn toàn ‘Linh Vương’ kia hay đang muốn đẩy ‘Linh Vương’ đi xa hơn nữa?” Ô Hành Tuyết nhỏ giọng rầm rì. “Quan trọng nhất là… tại sao số hương hoả đó lại đột nhiên tăng mạnh như vậy?”

Chàng hỏi Tiêu Phục Huyên, “Có tai hoạ xảy ra ở nhân gian bên đó ư?”

Tiêu Phục Huyên im lặng một hồi như đang dùng thể xác bên dòng rối loạn để điều tra nhân gian đó.

Lát sau, y cất giọng nặng nề, “Không thấy thảm hoạ nào.”

“Bên đó không có thiên tai, cũng đâu thể đương không nổ ra hoạn nạn do tà ma tác loạn được. Chưa kể vị kia vốn đã hơi dao động, nếu bây giờ bỗng dưng xuất hiện thêm tai hoạ nữa thì lại càng thêm bất thường, càng dễ sinh nghi hơn.”

“Đúng là như vậy.” Ô Hành Tuyết gật gù. “Quả thực không thể gây hoạ vào thời điểm ‘Linh Vương’ đang dao động, nó quá đột ngột và dễ thấy —”

Nói được nửa chừng, chàng chợt ngừng bặt, trao đổi ánh mắt với Tiêu Phục Huyên.

Tác hoạ ở nơi “Linh Vương” nhìn thấy được thì quá đột ngột và dễ thấy. Nhưng nếu nổ ra ở nơi “Linh Vương” không nhìn thấy được thì sao?

Tỉ như…

Hiện thế!

Ngay lập tức, ống tay áo dài rộng của Ô Hành Tuyết phất ngang.

Cửa phòng đang đóng kín thốt nhiên mở rộng, cánh cửa đập mạnh sang hai bên hông.

Đánh một tiếng rầm inh ỏi!

Ninh Hoài Sam bên ngoài cửa sợ nhảy dựng. “Cái đ —”

Cậu nuốt ngược câu chửi thề tục tĩu lại, thốt lên, “Thưa thành chủ! Hai người… linh thức hai người quay về thân thể rồi ạ?!”

Trước đây, Tiêu Phục Huyên dắt linh thức Ô Hành Tuyết rời thân thể để đi sang dòng rối loạn, Ninh Hoài Sam đem thể xác họ đặt trong phòng an toàn, sau đó ra ngoài cửa ngồi canh gác.

Thật ra cậu tò mò thiếu điều vò tai bứt tóc, cậu muốn biết Phương Trữ giờ ra sao rồi, và cũng muốn biết rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra ở bên kia dòng rối loạn.

Nhưng nhớ tới thời điểm chạy tọt vào phòng lúc trước đã chứng kiến một số chuyện không nên thấy, giờ cậu ngoan hiền hẳn ra, đánh chết cũng không xộc bừa mà ngồi yên chờ thành chủ và Thiên Túc tự mở cửa.

Thế mà có làm sao cũng không dám ngờ lúc mở cửa lại mạnh bạo tới như vậy!

“Có chuyện gì xảy ra vậy?” Ninh Hoài Sam nhận thấy tình hình không ổn bèn vội vã hỏi.

Cậu thấy thành chủ thoáng dừng bước trong lúc lướt ra khỏi phòng, hỏi cậu, “Nãy giờ có ai ra khỏi thành không?”

“Ngài nói Chiếu Dạ thành ấy ạ?” Ninh Hoài Sam bỡ ngỡ.

Trước đây, Ô Hành Tuyết chưa bao giờ hỏi họ chuyện này, tất cả đèn thanh minh trấn thủ Chiếu Dạ thành đều do Ô Hành Tuyết tự tay làm ra, chỉ cần có tà ma bước ra hay vào cổng thành, chàng đều có thể cảm nhận được chứ không cần hỏi.

Có điều hiện tại, Hoa Tín giả dạng Phong Tiết Lễ đã đặt pháp trận dày đặt bên trong Chiếu Dạ thành khiến đèn thanh minh bị nhiễu, không còn hoạt động chuẩn xác được nữa.

Ninh Hoài Sam bị hỏi bất ngờ ngớ người chưa kịp trả lời, cậu còn đang ấp úng thì đã thấy gió lạnh chợt quét qua trước mũi…

Thành chủ và Thiên Túc đã hoàn toàn mất dạng.

Chỉ còn để lại một câu vương trong tiếng gió len vào tai cậu.

Thành chủ nói, “Đừng chạy loạn, ở lại giữ nhà.”

Ninh Hoài Sam còn vừa mới tính tất tả chạy theo cho kịp đã nghe thế, bèn ngừng chân tức thì. Cậu rảo hai vòng quanh sân rồi hùng hổ ngồi xếp bằng dưới gốc đại thụ trong Tước Bất Lạc.

***

Chiếu Dạ thành trải rộng hơn trăm dặm.

Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên lao đi như vũ bão, chỉ trong giây lát đã tới điểm đầu. Cả hai đồng loạt biến sắc!

Vì một Chiếu Dạ thành rộng lớn nhường này mà giờ đây hoàn toàn rỗng tuếch!

Muôn vàn tà ma đều đã rời khỏi thành.

Quá bất hợp lý.

Lúc trước, trận giao tranh giữa bọn họ và “Phong Tiết Lễ” đã kích hoạt trận cục dày nặng trong thành, sau đó trận cục bị nổ toang, đáng lẽ ra những tà ma này đều phải thụ thương. Một khi bị thương tổn, phần lớn tà ma đều không hấp tấp rời khỏi thành để tránh xui xẻo đụng trúng tiên môn khó nhằng, khiến bản thân phải chịu thiệt.

Thế mà phải ngay đúng giờ phút này, tất cả bọn chúng đều hành xử khác thường.

Phải mà từng ấy tà ma chỉ đi rồi về cô lẻ như thường ngày thì còn đỡ, nếu chúng bỏ đi bản tính mình, không toan tính lẫn nhau mà tụ lại thành bầy…

Chỉ e chúng đi đến đâu sẽ dấy lên đại loạn đến đó.

Thoạt nghĩ đến khung cảnh ấy thôi cũng khiến người ta tê tái da đầu. Và bên trong những thành trấn bị mắc tai ương, bá tánh lâm vào đường cùng lại chẳng khấn cầu sự phù hộ của thần tiên đấy thôi!

Ngẫm kỹ lại, chỉ e hương hoả phồn thịnh Tiên Đô dòng rối loạn nhận được đều bắt nguồn từ đây.

Sắc mặt Ô Hành Tuyết đanh lại như băng.

Chàng hít vào tà khí trong gió lạnh, đuổi theo ngọn nguồn âm tà cùng Tiêu Phục Huyên.

“Tiên môn nhân gian kể ra cũng có đến trăm nhà, chắc không đến mức không ngăn chặn bọn chúng trong thời gian ngắn,” Ô Hành Tuyết cất lời trong gió quật. “Tại sao hương hoả lại bùng lên nhanh như vậy được.”

“Nhưng số người thực sự có thể gánh vác trọng trách chỉ đếm được trên đầu ngón tay,” Tiêu Phục Huyên nói.

Trong hai lăm năm qua, Tiên Đô dòng rối loạn mỗi ngày một hưng thịnh. Dưới sự cân bằng thiện ác mà Thiên đạo Linh đài mong muốn, tà ma trong hiện thế càng lúc càng hoành hành ngang ngược, khiến cho tiên môn lụn bại hơn nữa.

Dù luôn miệng bảo là trăm họ tiên môn, nhưng nhìn khung cảnh đêm Thương Lang Bắc Vực sụp đổ là biết, những người thật sự có thể gánh vác trọng trách quả chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Gia chủ và trưởng lão nhà họ Hoa đều gặp nạn, khó tránh việc nhà họ còn không tự lo nổi cho bản thân. Bởi vậy nên uy danh lẫy lừng nhất vẫn thuộc về nhà họ Phong.

Nhà họ Phong có mấy ngàn đệ tử nên chí ít cũng ngăn cản được một đợt, nhưng khó mà nói họ có thể gồng được trong bao lâu.

Vả chăng, dù hôm nay tai ương bị ngăn chặn thì sang mai hoạ hoạn mới lại mọc lên. Chỉ cần Thiên đạo Linh đài còn cách can thiệp vào hiện thế thì những thứ này không bao giờ có hồi kết.

“Thay vì truy vết tai hoạ khắp nơi như vầy thì chẳng thà diệt sạch ngọn nguồn cho xong.” Ô Hành Tuyết ngẫm nghĩ rồi nói, “Để Thiên đạo Linh đài không nhúng tay vào hiện thế được nữa.”

Như vậy, hiện thế sẽ không còn gánh hệ quả tai ương hoành hành, sinh linh đồ thán.

Đồng thời, Thiên đạo Linh đài cũng bị giới hạn phạm vi hoạt động, tự khoá bản thân mình trong dòng rối loạn.

Khi đó, chỉ cần huỷ sạch Linh đài của dòng rối loạn là nó không cách nào chạy thoát được nữa.

“Ngọn nguồn là gì?” Tiêu Phục Huyên hỏi.

Ô Hành Tuyết tư lự, nói, “Vấn đề này ta đã suy ngẫm rất nhiều rồi, về sau mới vỡ lẽ, Thiên đạo tồn tại bên trên Linh đài hiện thế vào thời điểm dòng rối loạn sinh sôi tràn lan lúc trước. Sở dĩ nó chi phối được mọi việc trong dòng rối loạn là vì có kết nối tương quan giữa đôi bên.”

“Mỗi dòng rối loạn đều do một người nào đó ở hiện thế mở ra,” Ô Hành Tuyết giải thích. “Người mở dòng rối loạn là người của hiện thế nhưng họ dẫn nhân quả vào trong dòng rối loạn. Hành động này có thể hiểu giống như việc xây một cây cầu kết nối từ hiện thế đến dòng rối loạn. Từ đó, Thiên đạo Linh đài có thể nương theo cây cầu này để nhúng tay vào việc trong dòng rối loạn.”

“Đúng vậy,” Tiêu Phục Huyên nói. “Thuận lý thành chương.”

“Giả sử cây ‘cầu nối’ kia bị cắt đứt thì hiển nhiên cái tay kia không nhúng qua được nữa,” Ô Hành Tuyết nói đoạn ngưng lại rồi mới tiếp tục, “có điều hiện tại khác với suy đoán lúc trước của ta một chút.”

“Hửm?”

Ô Hành Tuyết nói, “Trên lý thuyết, cây ‘cầu nối’ của dòng rối loạn này được gia chủ nhà họ Phong dựng nên, cộng thêm một Hoa Tín nữa. Mà hiện tại linh phách cả hai người đều đã tiêu tán, thế nhưng Thiên đạo Linh đài vẫn còn khả năng tác động vào.”

Chưa kể, sau khi diệt sạch cả hai người này, Thiên đạo Linh đài vẫn không chùng chân nửa bước. Nó vẫn liên tục đi trước Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên một bước. 

Dù nói Thiên đạo vô hình vô trạng, vô tâm vô tình, sinh tử của một cá nhân chỉ là hạt cát trong mắt nó. Song nếu điều kiện cho sự can thiệp của nó phụ thuộc vào điểm này thì chắc hẳn nó sẽ không chủ động thao túng người khác chặt đứt như vậy.

Nó hành động dứt khoát đến vậy chứng tỏ cái được gọi là “cầu nối” không chỉ giới hạn trong hai người này.

Nhưng trừ họ ra thì còn ai nữa?

Ô Hành Tuyết suy đi ngẫm lại về thẩm vấn gia chủ nhà họ Phong và Hoa Tín hòng lưu ý xem ngoại trừ hai người này thì còn có thể có ai dính líu đến vòng nhân quả trong đây và trở thành cây “cầu nối” kia.

Trong lúc chàng đang chìm trong suy tư thì chợt nghe Tiêu Phục Huyên cất lời, “Có khi nào là ngược lại không.”

Ô Hành Tuyết kinh ngạc. “Gì cơ?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Thiên đạo ở trên Linh đài trong hiện thế, muốn nhúng tay vào dòng rối loạn cần nương nhờ cầu nối từ hiện thế sang dòng rối loạn, nói vậy —”

Chưa chờ y dứt lời, Ô Hành Tuyết đã hiểu ra.

Khoảnh khắc ấy, chàng nhoẻn cười tự giễu.

Chàng đã chứng kiến quá nhiều dòng rối loạn, quá nhiều “cầu nối”, cũng vì vậy mà chàng bị hạn hẹp cách nghĩ trong vô thức. Quả thực đúng như lời Tiêu Phục Huyên, có lẽ phải ngược lại mới đúng.

Hiện tại Thiên đạo Linh đài đang ở trong dòng rối loạn, nếu nó muốn can thiệp vào hiện thế thì không nên nương nhờ những người như gia chủ nhà họ Phong hay Hoa Tín mà phải dựng cầu từ dòng rối loạn nối đến hiện thế.

“Ta đoán sai rồi,” Ô Hành Tuyết nói. “Hai chúng ta nên tìm người thuộc về dòng rối loạn, song vì hệ luỵ nhân quả nào đó mà đã di chuyển sang hiện thể.”

Một khi luận ra mấu chốt này, Ô Hành Tuyết cảm thấy hơi hốt hoảng mà chẳng rõ nguyên cớ.

Rốt cuộc là người nào đi từ dòng rối loạn vào hiện thế mà chưa bao giờ gây ra chút hiềm nghi nào? Sao người này có thể ắng yên bình an qua hàng chục hàng trăm năm mà không dấy động dù chỉ một gợn sóng?

Có một thoáng suy nghĩ mơ hồ nhen lên trong đầu Ô Hành Tuyết, chàng vừa định mở lời đã nghe Tiêu Phục Huyên nói, “Ngươi còn nhớ cặp quan tài nhà họ Phong chôn bên dưới căn tháp cao không?”

Ô Hành Tuyết nhíu mắt, những suy nghĩ mơ hồ kia hiện lên rõ ràng hơn. “Vẫn nhớ rõ, đó là đôi nam nữ con của gia chủ nhà họ Phong!”

Dù trong dòng rối loạn, gia chủ nhà họ Phong vẫn không tránh khỏi số kiếp đoản mệnh của đôi trẻ nhà mình. Vì vậy, gã cảm thấy không cam tâm, bèn liệm hài cốt con trai con gái mình, niêm phong trong quan tài và đặt vào giữa trận cục nối mệnh dưới đáy toà tháp cao.

Gã chờ đợi khoảnh khắc thời cơ đến, dùng sinh mệnh Phong Huy Minh mình nhận nuôi để tìm lại mạng sống cho hai trẻ nhà mình.

Thế nhưng…

Đến tận lúc gã và Phong Huy Minh đều mất mạng, trận cục nối mệnh kia vẫn tuyệt nhiên không thành công.

Tiêu Phục Huyên nói, “Thân thể ta để lại dòng rối loạn từng tiếp nhận thiên chiếu đến nhà họ Phong dọn dẹp tàn cục, khi đó ta phát hiện trong hai cỗ quan tài đó không có linh phách hai trẻ nam nữ nhà họ Phong còn sót lại nữa.”

“Không một chút nào?” Ô Hành Tuyết hỏi.

“Không.”

Nếu không còn sót một chút linh phách nào thì dĩ nhiên trận cục không thể nối mệnh hoặc đổi mệnh được nữa. Đến căn cơ cũng đã mất thì nối kiểu gì? Đổi bằng cách nào?

Gia chủ nhà họ Phong không thể không biết nguyên lý này.

Nếu ông ta đã lập trận cục chứng tỏ ít nhất vào thời điểm lập trận, thi thể hai đứa trẻ không rỗng hoàn toàn mà nên có chút linh phách sót lại, chắc chắn không tan đi hết.

“Lúc đó ta không nghĩ nhiều về chuyện đó, chỉ cho rằng qua lâu ngày nên tiêu tán đi hết mà thôi,” Tiêu Phục Huyên nói. “Mà giờ ngẫm lại, có lẽ còn có nguyên do khác.”

Nếu linh phách đôi nam nữ kia không tiêu tán theo lẽ tự nhiên mà vì “cơ duyên trời định” nào đấy nên đã rời khỏi thể xác và đi tới chỗ khác rồi thì sao?

Ví như… đến hiện thế.

Ô Hành Tuyết đột ngột dừng bước chân trong cơn gió lộng, chàng níu tay Tiêu Phục Huyên và nói, “Ngươi có phá huỷ hoàn toàn quan tài không? Làm ơn nói là không đi, hãy nói ngươi để lại đặng dự trù cho sau này.”

Tiêu Phục Huyên nhìn chàng rồi nói, “Có để lại.”

“Nếu không phải hoàn cảnh không thích hợp…” Ô Hành Tuyết nói nửa chừng thì tự nhủ thôi kệ, quan tâm hoàn cảnh làm gì. Thế là, chàng kéo người Thiên Túc lại và trao một nụ hôn.

Tiêu Phục Huyên nhướn mày.

Ô Hành Tuyết nói, “Ta đã tưởng rằng bản thể ngươi phải đi dọn sạch nhà họ Phong quá nhanh, khiến cho ngươi bị chậm một bước rồi chứ!”

Tiêu Phục Huyên, “Thế thì chỉ cần chờ đến khi bị đẩy khỏi dòng rối loạn là được.”

Đã nhận thiên chiếu, y tất nhiên không thể trái lệnh, bằng không sẽ bị lộ thân phận ngay lập tức. Vì vậy dù đã biết bản thân sẽ bị chậm một bước, nhưng y vẫn thể theo thiên chiếu đến nhà họ Phong thu dọn tàn cuộc.

Nhưng y vẫn chừa lại một đường lui chứ không thẳng tay huỷ diệt sạch sẽ tất cả mọi thứ, y đưa chúng vào Thương Lang Bắc Vực.

Làm như thế vừa không vi phạm chiếu, đồng thời cũng để lại manh mối.

“Dấu vết đó có thể dùng để tìm người và thăm dò vật không?” Ô Hành Tuyết hỏi.

“Tàm tạm.”

***

Chẳng bao lâu sau, một tấm phù tìm linh phách xuất hiện trong dòng rối loạn, ngang nhiên găm vào hiện thế bằng phong thái giống hệt kiếm ý của Thiên Túc thượng tiên.

Tiêu Phục Huyên dắt Ô Hành Tuyết men theo phù tìm linh băng qua nhân gian.

Thực chất họ đã có một vài dự đoán sẵn trong lòng.

Song khi bước qua ngoại ô thành Mộng Đô, nhìn thấy toàn bộ Mộng Đô cùng những toà thành nhỏ và thôn làng xung quanh đều chìm ngợp trong mùi tà ma nồng nặc kèm sương đen tràn lan bít kín ánh mặt trời, họ vẫn không khỏi sững sờ đôi chút.

Toà thành chính rộng lớn này từng có một thời huy hoàng, vào những dịp lễ lạc, phố phường thắp đèn sáng đêm, ánh đèn rực rỡ nối tiếp nhau như một chú rồng dài.

Ở phía nam có một ngọn núi trứ danh nằm ven bờ sông, cứ vào tháng ba xuân sang hằng năm dưới nhân gian, hạnh mai lại trổ rộ khắp nơi.

Vào những dịp nhộn nhịp nhất, dù có ra khỏi thành vài dặm vẫn có thể nghe được tiếng người rôm rả sôi động từ trong thành vọng ra.

Nhưng rồi, dưới sự “cân bằng” thiện ác từ năm này qua năm khác, hết thảy đều đã sớm đổi thay, nơi đây chẳng có một ngày thanh bình, chẳng có một ngày an cư.

Dưới sự tàn sát vô độ của tà ma với sự đồng thuận của ý trời, cõi nhân gian này thậm chí còn không nghe được tiếng khóc than, phàm nhân chưa rên thành tiếng đã bị tà ma siết gãy cổ, bị nhai nuốt chẳng chừa từ da đến xương.

Điều sót lại duy nhất mà họ kịp làm trước khi chết chính là nấp mình sau lưng bức tượng thần trong hoảng loạn và niệm cầu “Thần tiên phù hộ”.

Đây ắt là một điều mỉa mai khủng khiếp —

Toà thành này là nơi có nhiều tượng thần nhất, và cũng là nơi giống với luyện ngục nhất.

Nét mặt Tiêu Phục Huyên lạnh căm, tiếng kim loại lanh lảnh kéo dài vang vọng đất trời…

Thanh trường kiếm dẫn theo sức ép mãnh liệt, chém xuyên sương đen tà ma nồng nặc, cắm thẳng xuống toà thành giờ đã như một lò luyện ngục.

Khi thanh kiếm đâm thẳng xuống mặt đất, chấn động sâu bên trong đẩy bật mọi thứ ra ngoài, một thoắt đã đánh bay linh phách tất cả tà ma ra khỏi thân thể và đập chúng vỡ vụn.

Tích tắc, khoảng không quanh trường kiếm trống trải thênh thang.

Đám tà ma bị đánh bay đi đang định dùng tà thuật ráp đống tay chân gãy lìa xiêu vẹo lại với nhau thì thấy một cơn cuồng phong lạnh căm căm thình lình quét ngang.

Chỉ trong chớp mắt, sương tuyết đọng đầy trên thân thể, khiến chúng hoàn toàn không cử động nổi một chút nào. Không chỉ thế, cảm giác lạnh băng ấy còn xâm nhập len lỏi vào trong lục phủ ngũ tạng chúng.

Thành thử, chúng chỉ có thể trân trối nhìn cơ thể mình đông lại thành băng, rồi lại trân trối chứng kiến bản thân thình lình vỡ tan thành bột dưới sức mạnh của khí kình dồn nén trong người.

Phút chốc, luyện ngục giữa nhân gian bất giác thinh lặng.

Ngay đến các đệ tử đang miệt mài chiến đấu bên trong cũng ngỡ ngàng.

Các đệ tử tiên môn khoác trang phục đồng nhất, bên trên dải lụa đeo dưới phát quan cài tóc có thêu một chữ “Phong”, hẳn nhiên là xuất thân từ gia tộc họ Phong toạ trấn Mộng Đô.

Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên từng qua lại đôi lần với nhà họ Phong, nhưng đây là lần đầu tiên gặp gỡ trong hiện thế như vầy.

Họ không quên mình đến đây vì điều gì.

Ngay khoảnh khắc các đệ tử tiên môn sững sờ cứng người, họ đứa mắt nhìn vào giữa nhóm người. Lập tức, họ trông thấy tấm phù tìm linh Thiên Túc thả ra từ dòng rối loạn đang hướng thẳng vào vị trí sâu cùng nhất.

Ở nơi đó có hai người đang đứng cách nhau, một nữ một nam với dáng vẻ tương đối giống nhau. Trông hai người họ anh tuấn xuất chúng, có thể xứng danh long phượng của cõi người.

Vị nữ tử mang đôi mắt phượng và nét mày dài với dáng người dong dỏng đầy sắc sảo. Người nam tử có phần bợt bạt hơn, trông thiếu sắc như đang có bệnh.

Những người có qua lại với tiên môn không một ai không biết đến họ. Đó chính là gia chủ đương nhiệm nhà họ Phong — Phong Cư Yến, và huynh trưởng của nàng — Phong Phi Thị.

Mà hai tấm phù mang theo hơi thở còn sót lại trên cỗ quan tài đáp đích xác lên thân hai người bọn họ.

Việc này nằm trong dự kiến, nhưng cũng có điểm bất ngờ.

Trong thẩm vấn gia chủ nhà họ Phong, Ô Hành Tuyết từng nhìn thấy đôi con trẻ chết non của ông ta. Lần thẩm vấn và lời kể của Hoa Tín cũng có nhắc đến tung tích của hai người họ.

Như người đời đều biết, gia chủ tiền nhiệm của nhà họ Phong Phong Thù Lan có ba người con, nam trưởng Phong Phi Thị, nữ trưởng Phong Cư Yến và con út Phong Tiết Lễ.

Ai cũng bảo có gì đó đặc biệt trong sự ra đời của Phong Phi Thị và Phong Cư Yến, hai người họ dường như là một phiên bản của hai đứa trẻ chết non trước kia. Có lẽ chính định mệnh đã an bài cho họ chuyển kiếp về lại theo chấp niệm của người xưa. Hẳn chính là kết cục viên mãn.

Khi ấy, Ô Hành Tuyết cảm thấy sao mà trùng hợp quá.

Giờ đây chàng mới hiểu ra.

Đấy vốn chẳng phải là chuyển kiếp gì cho cam, mà thực tế là cặp linh phách ở dòng rối loạn đã đi sang hiện thế, chiếm lấy thân xác của hai đứa trẻ ngay khi mới chào đời.

Từ đấy, họ đã trở thành cây “cầu” được Thiên đạo Linh đài dựng lên nơi đây.